Việc tổ chức và hoàn thiện công tác kế toán quản trị trong các doanh nghiệp khai thác, chế biến và kinh doanh đá xây dựng trên địa bàn tỉnh Bình Dương là điều cần thiết nhằm thu thập, xử lý và cung cấp thông tin nội bộ kịp thời cho nhà quản trị ra quyết định, giúp nhà quản trị tiếp cận với phương pháp quản lý mới, tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Bài viết này tác giả nghiên cứu cho các doanh nghiệp khai thác, chế biến và kinh doanh đá xây dựng với quy mô doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp lớn. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp có quy mô nhỏ muốn vận dụng công tác kế toán quản trị thì phải thu hẹp bộ máy kế toán. Tác giả nghiên cứu mô hình kế toán quản trị kết hợp áp dụng cho các doanh nghiệp, định hướng công tác kế toán tài chính trong việc thiết kế tài khoản chi tiết giúp cho việc truy xuất và phân loại chi phí theo cách ứng xử trong kế toán quản trị dễ dàng hơn và có thể vận dụng lý thuyết phân tích mối quan hệ giữa chi phí – khối lượng – lợi nhuận vào trong đơn vị. Từ đây, kế toán quản trị phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận làm cơ sở cho nhà quản trị thấy được những mặt mạnh và hạn chế của đơn vị. Tác giả đã nhận xét công tác kế toán quản trị hiện tại và đưa ra những giải pháp để hoàn thiện bộ máy kế toán nói chung và kế toán quản trị nói riêng của doanh nghiệp cũng như hoàn thiện trong việc lập báo cáo dự toán, báo cáo trách nhiệm, phân tích tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh. Mô hình này có thể áp dụng cho các doanh nghiệp khai thác khoáng sản khác như than, titan, .v.v. trên cả nước.
7 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 386 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự cần thiết tổ chức và hoàn thiện công tác kế toán quản trị trong các doanh nghiệp khai thác, chế biến và kinh doanh đá xây dựng trên địa bàn tỉnh Bình Dương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
65
Tạp chí Khoa học Lạc Hồng Số 05
Journal of Science of Lac Hong University
Vol. 5 (2016), pp. 65-71
Tạp chí Khoa học Lạc Hồng
Số 5(2016), trang 65-71
SỰ CẦN THIẾT TỔ CHỨC VÀ HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN
QUẢN TRỊ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP KHAI THÁC, CHẾ BIẾN VÀ
KINH DOANH ĐÁ XÂY DỰNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƯƠNG
Organizing and enhancing the performance of management accounting in
mining, processing and trading stone enterprises in Binh Duong Province
Nguyễn Thị Đức Loan
phungloan82@yahoo.com
Khoa Tài chính- Kế toán
Trường Đại học Lạc Hồng, Đồng Nai, Việt Nam
Đến tòa soạn: 23/5/2016; Chấp nhận đăng: 16/7/2016
Tóm tắt. Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống kế toán doanh nghiệp phải có hai bộ phận chuyên môn để đáp ứng nhu cầu thông
tin của hai nhóm đối tượng khác nhau. Đó chính là kế toán tài chính và kế toán quản trị; và cũng chính nền kinh tế thị trường, cạnh
tranh làm nổi bật kế toán quản trị, hình thành nên những nhận thức khác nhau về kế toán quản trị và thúc đẩy kế toán quản trị
phát triển nhanh chóng. Vì vậy, việc tổ chức công tác kế toán quản trị đối với các doanh nghiệp khai thác, chế biến và kinh doanh
đá xây dựng là vô cùng cần thiết vì cung cấp thông tin cho nhà quản trị doanh nghiệp đưa ra các quyết định kinh doanh nhằm đạt
mục tiêu tối ưu.
Từ khóa: Kế toán quản trị; Khai thác đá; Đá xây dựng; Tỉnh Bình Dương
Abstract. In the economy market, accounting system of an organization usually has financial accounting and management
accounting to provide information to different target groups. Besides, the competition highlights the important role and prominent
awareness of management accounting, resulting in its recent widespread recognition. Therefore, it is of great significance to
organize and enhance its performance in mining, processing and trading stone enterprises in Binh Duong province to provide
sufficient information for managers to make their best decision.
Keywords: Management accounting; Quarrying; Construction stone; Binh Duong Province
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Bình Dương có 18 công ty khai
thác, chế biến và kinh doanh đá xây dựng với quy mô lớn và
vừa. Đây là ngành nghề khai thác và chế biến nguồn tài nguyên
nên có số ít doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh được thành lập bị
hạn chế là do nguồn tài nguyên có hạn và ảnh hưởng rất lớn
đến vấn đề môi trường xung quanh khu vực khai thác và chế
biến, tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp chưa cao. Nên việc
vận dụng các phương pháp quản lý mới để nâng cao tính cạnh
tranh trên thị trường chưa được quan tâm đúng mức. Các doanh
nghiệp hoạt động rất thụ động và căn cứ vào sản lượng được
khai thác trong giấy phép kinh doanh ngành khoáng sản và tiến
hành chia đều cho thời gian khai thác, xác định mỗi kỳ phải
khai thác bao nhiêu là hoàn thành kế hoạch trong kỳ và không
phân tích được chi phí phát sinh trong kỳ tăng hay giảm là do
những nhân tố nào gây ra mà cứ chỉ dừng ở việc so sánh số liệu
thực tế và kế hoạch đề ra đầu năm để kết luận tình hình hoạt
động sản xuất kinh doanh trong kỳ tốt hay xấu [1]. Từ đó, các
nhà quản lý yêu cầu công tác kế toán trong doanh nghiệp phải
bao gồm công tác kế toán tài chính và kế toán quản trị. Kế toán
trong doanh nghiệp bao gồm việc ghi chép, lập báo cáo tài
chính, báo cáo kế toán quản trị và phải phân tích được các chỉ
tiêu hoạt động và đánh giá trách nhiệm của từng cá nhân, bộ
phận trong đơn vị nhằm giúp cho hoạt động sản xuất kinh
doanh ngày càng đạt hiệu quả hơn.
2. NỘI DUNG
Phương pháp nghiên cứu: tác giả sử dụng các phương pháp
mô tả, thống kê, so sánh và phân tích để làm rõ tầm quan trọng
của kế toán quản trị và sự ảnh hưởng của các nhân tố trong quá
trình thiết lập mô hình cho phù hợp. Phương pháp mô tả, so
sánh, thống kê, phân tích được vận dụng khi so sánh số liệu của
các kỳ kế toán, quy trình công tác kế toán trong các doanh
nghiệp khai thác, chế biến và kinh doanh đá xây dựng ở tỉnh
Bình Dương nhằm phân tích điểm mạnh, điểm yếu ở từng
doanh nghiệp trong công tác quản lý và kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh. Đối tượng nghiên cứu: công tác kế toán tài
chính và công tác kế toán quản trị trong các doanh nghiệp khai
thác, chế biến và kinh doanh đá xây dựng ở tỉnh Bình Dương.
Từ đó, tác giả nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức
mô hình kế toán quản trị trong các doanh nghiệp khai thác, chế
biến, kinh doanh đá xây dựng trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
Phạm vi nghiên cứu: công tác kế toán tài chính và kế toán quản
trị tại 18 công ty khai thác, chế biến, kinh doanh đá xây dựng
trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
Tác giả tiến hành khảo sát công tác kế toán tại 18 doanh
nghiệp khai thác, chế biến và kinh doanh đá xây dựng trên địa
66 Tạp chí Khoa học Lạc Hồng Số 05
Sự cần thiết tổ chức và hoàn thiện công tác kế toán quản trị trong các doanh nghiệp
bàn tỉnh Bình Dương, phần lớn các doanh nghiệp thuộc quy
mô lớn và quy mô vừa nên việc tổ chức công tác kế toán tài
chính tương đối đầy đủ, đúng theo quy định của chuẩn mực và
chế độ kế toán, phục vụ tốt yêu cầu kế toán tài chính. Tuy
nhiên, công tác kế toán quản trị, kế toán trách nhiệm chưa được
quan tâm đúng mức nên các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn
trong quá trình kiểm soát chi phí, định giá bán sản phẩm hay
đánh giá trách nhiệm của từng bộ phận, từng cá nhân trong tổ
chức. Qua cuộc khảo sát trên, tác giả nhận thấy là tình hình áp
dụng công tác kế toán quản trị trong các doanh nghiệp được
chia làm ba nhóm: nhóm doanh nghiệp đã xây dựng kế toán
quản trị, nhóm này là những doanh nghiệp có quy mô lớn gồm
4 doanh nghiệp. Nhóm doanh nghiệp chuẩn bị xây dựng kế
toán quản trị, nhóm này là những doanh nghiệp có quy mô lớn
gồm 8 doanh nghiệp. Nhóm doanh nghiệp hoàn toàn không có
công tác kế toán quản trị, nhóm này thuộc vào các doanh
nghiệp có quy mô sản xuất vừa gồm 6 doanh nghiệp. Xét về
quy trình sản xuất kinh doanh thì 18 doanh nghiệp này có quy
trình khai thác và sản xuất kinh doanh giống nhau:
Sơ đồ 1. Quy trình khai thác, chế biến và kinh doanh
đá xây dựng [2]
Thực trạng công tác kế toán quản trị trong các doanh
nghiệp khai thác, chế biến và kinh doanh đá xây dựng trên
địa bàn tỉnh Bình Dương:
Công tác kế toán quản trị thực tế tại 18 doanh nghiệp khai
thác, chế biến và kinh doanh đá xây dựng là hàng kỳ kế toán
lập bảng so sánh số liệu các chỉ tiêu sản lượng, doanh thu, chi
phí, lợi nhuận, ... của số liệu thực tế phát sinh trong kỳ này so
với kỳ trước đó và so với kế hoạch đầu năm do bộ phận kế
hoạch đề ra. Kế toán so sánh sự tăng giảm giữa các số liệu ở
các kỳ khác nhau để đánh giá khả năng hoàn thành kế hoạch,
đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh tại doanh
nghiệp tốt hay xấu, đồng thời các dữ liệu trên cũng là cơ sở để
đánh giá trách nhiệm ở từng bộ phận, từng cá nhân trong doanh
nghiệp.
Những kết quả đạt được từ việc đánh giá khả năng hoàn
thành kế hoạch:
Qúa trình tiến hành khảo sát công tác kế toán tại các doanh
nghiệp khai thác đá trên địa bàn tỉnh Bình Dương cho thấy
công tác kế toán quản trị một số doanh nghiệp đã vận dụng và
có những kết quả đáng khích lệ. Sự kết hợp giữa kế toán tài
chính và kế toán quản trị thông qua những phần hành như kế
toán chi phí. Dựa vào kết quả của kế toán tài chính, đặc biệt là
các sổ chi tiết, sổ cái các tài khoản liên quan hạch toán các
khoản mục chi phí như: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi
phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung, chi phí bán
hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. So sánh chi phí phát sinh
trong kỳ so với kỳ trước hay so sánh kế hoạch đầu năm đề ra,
phân tích các chi phí này tăng hay giảm và tìm hiểu các nguyên
nhân biến động đến chi phí, ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm,
lợi nhuận của doanh nghiệp như thế nào. Hàng kỳ (tháng, quý,
năm) công tác kế toán của doanh nghiệp bên cạnh việc phải lập
những báo cáo của kế toán tài chính, kế toán còn phải lập thêm
những báo cáo của kế toán quản trị như: báo cáo sử dụng
nguyên vật liệu, báo cáo chi phí nhân công trực tiếp, báo cáo
tiêu thụ sản phẩm, danh sách khách hàng mới và khách hàng
tiềm năng, kế hoạch sản xuất và tiêu thụ, nhu cầu nguyên vật
liệu, nhu cầu người lao động cần cho hoạt động sản xuất kinh
doanh trong những kỳ tiếp theo... Mặc dù các báo cáo chưa
được đầy đủ theo yêu cầu của công tác kế toán quản trị, nhưng
việc làm này cũng giúp ích cho nhà quản lý có thêm thông tin
về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Đó chính là cơ sở để đánh giá hoàn thành hay không hoàn thành
kế hoạch.
Hiện tại công tác kế toán quản trị của doanh nghiệp đã có
những ưu điểm như: kế toán quản trị đã kết hợp được việc lập
kế hoạch của bộ phận kế hoạch và căn cứ vào số liệu thực tế
phát sinh của kế toán tài chính làm cơ sở để lập các báo cáo kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh, báo cáo chi phí, báo cáo
doanh thu. Phân biệt được chi phí trong sản xuất và ngoài sản
xuất theo cách phân loại chi phí theo chức năng hoạt động nên
chỉ so sánh được giá thành sản xuất thực tế và kế hoạch chứ
chưa vận dụng được lý thuyết phân loại chi phí theo cách ứng
xử nên từ đó, kế toán quản trị chưa phân tích được mối quan
hệ giữa chi phí, khối lượng và lợi nhuận. Kế toán cũng đã lập
dự toán tiêu thụ, sản xuất, ... nhưng chưa đầy đủ trong hệ thống
báo cáo dự toán của công tác kế toán quản trị. Kế toán quản trị
cũng góp phần trong việc định hướng giá bán sản phẩm ra thị
trường nhưng công việc định hướng giá bán này dựa vào giá
bán của đối thủ cạnh tranh và kết hợp với chất lượng sản phẩm
của từng doanh nghiệp. Cụ thể là có những loại đá của doanh
nghiệp có chất lượng tốt hơn thì giá bán có thể đưa ra cao hơn
giá của đối thủ cạnh tranh, ngược lại có những loại đá của
doanh nghiệp có chất lượng không bằng thì giá bán có thể thấp
hơn so với đối thủ cạnh tranh (chất lượng của đá được xét về
mặt màu sắc và độ cứng của đá). Từ đó, công tác kế toán nội
bộ trong doanh nghiệp được nhà quản lý quan tâm nhiều hơn
vì đã có những đóng góp trong công tác quản lý của nhà quản
trị. Bên cạnh những ưu điểm đạt được thì công tác kế toán quản
trị trong các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế như: khả năng
đánh giá quá khứ và thiếu thông tin để ra quyết định cho tương
lai; chưa cụ thể hóa trong việc lập định mức tiêu hao cho từng
loại nguyên vật liệu và doanh nghiệp; công tác kế toán tài chính
và kế toán quản trị còn rời rạc vì chưa có sự kết hợp dữ liệu lẫn
Đào
Vận chuyển
Xay
Đục
MỎ ĐÁ
Đào đất đầu
Khoan, nạp thuốc, bắn đá
Tạo mống
Xúc_ Đá thành phẩm
Vận chuyển lên xe Cảng tiêu thụ
67
Nguyễn Thị Đức Loan
Tạp chí Khoa học Lạc Hồng Số 05
nhau giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị; chưa vận dụng
các lý thuyết về xây dựng trung tâm trách nhiệm.
Việc lập dự toán và báo cáo kế toán quản trị trong các doanh
nghiệp này chỉ dừng lại ở các dự toán tiêu thụ và các khoản
phải thu, dự toán sản xuất, dự toán mua hàng và các khoản phải
chi, dự toán chi phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp, lập giá
thành kế hoạch cho từng loại đá xây dựng. Định kỳ 6 tháng và
12 tháng, kế toán phải tổng hợp các bảng báo cáo tình hình hoạt
động khai thác, chế biến và kinh doanh cho nhà quản trị cấp
trên. Các bảng báo cáo này nội dung gồm kết quả tình hình
thực tế phát sinh trong 6 tháng hoặc 12 tháng so sánh kết quả
đạt được cùng kỳ của năm trước đó, so sánh với số liệu của kế
hoạch hoặc các dự toán đã được lập vào đầu năm. Từ những
kết quả trên, nhà quản trị sẽ thấy được những kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh doanh nghiệp đã xảy ra trong quá khứ, còn
việc cung cấp thông tin kịp thời cho nhà quản trị ra quyết định
là chưa làm được vì trên thực tế có những hợp đồng lớn cho
các công trình xây dựng đường xá, cầu,... người quản lý đã
phân vân trong các vấn đề khi đưa ra thỏa thuận về giá bán, sản
lượng cung cấp cho khách hàng. Người quản lý chưa có đầy đủ
các thông tin nên chưa có cơ sở cho việc ra quyết định khi ký
kết các hợp đồng. Vì nội dung của kế toán quản trị là hướng về
tương lai mà tất cả các báo cáo của kế toán chỉ dừng lại ở việc
trình bày những nội dung đã xảy ra ở quá khứ. Do đó, khi nhà
quản lý muốn đưa ra quyết định của một phương án nào trong
tương lai như chính sách khuyến mãi, chính sách giá,... thì
không có dữ liệu, thông tin làm cơ sở cho việc ra quyết định về
giá hay lựa chọn phương án tối ưu nhằm đạt được lợi nhuận
cao nhất. Xét về định mức tiêu hao nguyên vật liệu, doanh
nghiệp có tính giá thành kế hoạch của từng loại sản phẩm
nhưng việc tính này chưa được cụ thể và chưa có tính đến các
khoản chi phí tiềm ẩn như chi phí đền bù do ô nhiễm môi
trường, chi phí cải tạo hoàn nguyên môi trường, chi phí bị phạt
do tình trạng sản xuất và chế biến gây ô nhiễm, ...Trong quá
trình khai thác đá xây dựng cần phải có định mức cụ thể về chi
phí khoan, đục, xay, thuốc nổ, xúc, định mức tiêu hao của từng
loại nguyên vật liệu, định mức giờ công, giờ máy, việc phân bổ
chi phí sản xuất chung như điện, nước, điện thoại, lương cho
từng bộ phận, từng loại đá cũng phải theo tiêu chí phù hợp. Bên
cạnh đó, công tác kế toán tài chính và kế toán quản trị còn rời
rạc vì chưa có sự kết nối dữ liệu, thông tin lẫn nhau. Người làm
công tác kế toán quản trị thì không biết đầy đủ những thông tin
của kế toán tài chính và người làm công tác kế toán tài chính
chỉ cung cấp những thông tin mà kế toán quản trị yêu cầu và
cũng không tìm hiểu xem là công tác kế toán quản trị đã làm
được những gì để góp phần trong công tác quản lý và giúp ích
cho nhà quản trị những thông tin hữu ích như thế nào. Cụ thể
là, cùng một nội dung kinh tế như doanh thu bán hàng kế hoạch
thì bộ phận kế hoạch quản lý, doanh thu bán hàng trong kỳ thì
bộ phận kế toán tài chính quản lý. Như vậy, để có được thông
tin về doanh thu kế hoạch và trong kỳ phát sinh thì kế toán quản
trị phải yêu cầu cả hai bộ phận cung cấp thông tin để công tác
kế toán quản trị mới có đầy đủ dữ liệu để báo cáo. Việc làm
này gây mất thời gian và kém hiệu quả trong công tác quản lý,
dẫn đến hiệu quả đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh chưa
cao. Hệ thống thông tin của kế toán chi phí của doanh nghiệp
hầu hết là thông tin quá khứ. Kế toán chi phí chưa phục vụ cho
việc phân tích các mặt hoạt động của doanh nghiệp vào việc sử
dụng hiệu quả các nguồn lực, việc xây dựng phương án và lựa
chọn các quyết định sản xuất tối ưu. Doanh nghiệp phân loại
chi phí theo chức năng hoạt động. Hệ thống tài khoản kế toán
đã có sự chi tiết, các doanh nghiệp đã có mở thêm tài khoản chi
tiết nhưng chưa phù hợp với việc phân tích chi phí theo biến
phí, định phí để từ đó có thể phân tích chi phí chênh lệch giữa
thực tế và định mức. Nên chưa thấy rõ mối quan hệ trong công
tác phân tích mối quan hệ giữa chi phí - khối lượng - lợi nhuận,
phân tích kết cấu mặt hàng. Chính vì thế, công tác kế toán quản
trị trong doanh nghiệp này chỉ phân tích được tình hình hoạt
động của doanh nghiệp trên phương diện tổng thể của toàn
công ty. Tuy nhiên, doanh nghiệp sản xuất đá xây dựng bao
gồm nhiều loại sản phẩm như đá 1*2, đá 4*6, đá 5*7, đá mi,
mi bụi, . Cụ thể loại đá xây dựng nào mang lại hiệu quả nhất
thì không thể phân tích được. Chưa ứng dụng được công cụ
phân tích kết cấu mặt hàng và định giá bán sản phẩm trong đơn
vị.
Mô hình tổ chức kế toán quản trị chưa rõ nét. Các nội dung
kế toán quản trị đều được tổ chức thực hiện trong sự gắn kết
với hệ thống kế toán tài chính theo từng phần hành kế toán. Kế
toán viên theo dõi phần hành kế toán tài chính nào thì phải đảm
nhiệm luôn phần kế toán quản trị ở nội dung đó. Việc áp dụng
mô hình này tiết kiệm chi phí do không phải tuyển thêm nhân
sự làm công tác kế toán quản trị, tổ chức công tác kế toán quản
trị còn rời rạc, nhân viên xử lý công việc kế toán quản trị chưa
chuyên nghiệp, chồng chéo, nên hiệu quả không cao vì chưa
có sự kết nối thông tin giữa bộ phận kế toán tài chính và bộ
phận lập kế hoạch, bộ phận kế toán quản trị. Do đó, trong các
doanh nghiệp cần phải có sự thiết lập mối liên hệ thông tin lẫn
nhau. Cụ thể, nhân viên kế toán quản lý khoản mục doanh thu
thì phải chịu trách nhiệm hạch toán doanh thu phát sinh trong
kỳ (đối với kế toán tài chính) và phải kiêm luôn việc lập báo
cáo tình hình thực hiện doanh thu trong kỳ so với doanh thu kế
hoạch đầu năm đề ra, đồng thời phân tích các nguyên nhân làm
tăng giảm doanh thu trong kỳ. Tuy nhiên, việc tăng giảm doanh
thu là do nhiều nguyên nhân gây ra như về giá bán, sản lượng,
khách hàng, sự chăm sóc khách hàng,... chứ không phải xét
trên giá trị doanh thu kỳ này và kỳ trước. Vì vậy, việc phân tích
báo cáo doanh thu mang tính chủ quan của người lập báo cáo
chứ chưa có sự kết hợp thông tin giữa các bộ phận bán hàng,
kinh doanh, bộ phận chăm sóc khách hàng, các chính sách bán
hàng, kết cấu mặt hàng, .v.v. Bên cạnh đó, việc lập dự toán về
doanh thu tiêu thụ cho kỳ sau thì kế toán và bộ phận kế hoạch
cùng lập báo cáo này. Vậy cùng một nội dung thì có hai bộ
phận cùng lập là kế toán và bộ phận kế hoạch, từ đó, công việc
lập báo cáo trở nên chồng chéo lẫn nhau, chưa chuyên nghiệp
và hiệu quả quản lý chưa cao vì mất thời gian trong quá trình
lập các báo cáo, dẫn đến việc cung cấp thông tin cho người
quản trị chậm trễ có thể gây mất cơ hội trong kinh doanh khi
ra quyết định chậm hoặc không chính xác.
Hệ thống thông tin về kế toán và công tác kế toán trách
nhiệm tại các doanh nghiệp được thực hiện như sau: doanh
nghiệp có đánh giá trách nhiệm quản lý của từng bộ phận như:
bộ phận sản xuất, tiêu chí để đánh giá căn cứ vào chi phí giá
thành sản phẩm. Bộ phận kinh doanh, tiêu chí đánh giá căn cứ
vào doanh thu bán hàng. Bộ phận quản lý doanh nghiệp, tiêu
chí đánh giá là lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh. Các
doanh nghiệp chưa thành lập được các trung tâm kế toán trách
nhiệm như trung tâm đầu tư, trung tâm lợi nhuận, trung tâm
doanh thu, trung tâm chi phí theo kế toán quản trị dẫn đến
không đánh giá được hiệu quả của từng trung tâm, không phân
tích được các nguyên nhân và giải pháp cụ thể về các vấn đề
68 Tạp chí Khoa học Lạc Hồng Số 05
Sự cần thiết tổ chức và hoàn thiện công tác kế toán quản trị trong các doanh nghiệp
doanh thu, chi phí, lợi nhuận. Nhìn chung, các doanh nghiệp
khai thác, chế biến và kinh doanh đá xây dựng trên địa bàn tỉnh
Bình Dương còn gặp nhiều khó khăn về tiếp cận kinh nghiệm
thực tiễn dẫn đến gặp nhiều phức tạp, tốn kém nhiều chi phí,
thời gian trong xây dựng, áp dụng kế toán quản trị và cũng
thiếu nghiêm trọng nguồn nhân lực để xây dựng và vận hành
hệ thống kế toán quản trị trong doanh nghiệp.
Những ưu và nhược điểm trong công tác kế toán quản trị tại
doanh nghiệp trong thực tế làm cơ sở để đưa ra các giải pháp
nâng cao hiệu quả tổ chức công tác kế toán quản trị trong các
doanh nghiệp khai thác, chế biến và kinh doanh đá xây dựng
trên địa bàn tỉnh Bình Dương như:
Xây dựng mô hình kế toán quản trị trong các doanh nghiệp
khai thác, chế biến và kinh doanh đá xây dựng trên địa bàn tỉnh
Bình Dương cần chú ý và vận dụng các thuyết như sau: lý
thuyết dự phòng, lý thuyết đại diện, lý thuyết xã hội học và lý
thuyết tâm lý thường xuyên. [3-9] Các lý thuyết này chỉ ra rằng
hệ thống kế toán quản trị thật sự có hiệu quả khi nó được xây
dựng và phát triển phù hợp với từng doanh nghiệp cụ thể. Điều
này có nghĩa là không có một mô hình kế toán quản trị khuôn
mẫu áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp.
Việc vận dụng kế toán quản trị còn tùy thuộc đặc điểm của
từng ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh, cơ cấu tổ chức bộ máy
quản lý, quy mô doanh nghiệp, trình độ công nghệ, môi trường
kinh doanh. Bên cạnh đó, việc xây dựng và hoàn thiện công tác
kế toán quản trị trong các doanh nghiệp khai thác, chế biến và
kinh doanh đá xây dựng trên địa bàn tỉnh Bình Dương cần quan
tâm đến những vấn đề sau đây: nhận thức về công tác kế toán
quản trị, thiết lập quy trình, thủ tục để thu thập, xử lý thông tin
lập báo cáo kế toán quản trị, phân loại chi phí, phân tích mối
quan hệ giữa chi phí - khối lượng - lợi nhuận, lập dự toán ngân
sách, phân tích biến động chi phí bộ phận và báo cáo bộ phận,
đánh giá trách nhiệm quản lý, định giá bán sản phẩm cung
cấp thông tin cho nhà quản trị. Những giải pháp cụ thể bao
gồm:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức và trình độ quản lý cho các
nhà quản trị. [3-4,5-8] Các nhà quản trị phải biết đưa ra những
yêu cầu về thông tin cần được bộ phận kế toán quản trị cung
cấp, và quan trọng hơn là nhà quản trị phải có kiến thức phân
tích và sử dụng thông tin của kế toán quản trị.
Sơ đồ 2. Bộ máy kế toán kết hợp giữa kế toán tài chính và kế toán
quản trị [6]
Thứ hai, việc xây dựng mô hình kế toán quản trị phải chia
ra theo quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. [5-7] Do quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp này thuộc loại lớn và vừa nên ta thiết kế kết
hợp giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị, nhằm tiết kiệm
chi phí. Mô hình đề xuất cho các doanh nghiệp khai thác, chế
biến và kinh doanh đá xây dựng trên địa bàn tỉnh Bình Dương
thể hiện như Sơ đồ 2.
Công tác kế toán quản trị được tổ chức giống như một phân
hệ trong cùng hệ thống kế toán doanh nghiệp, sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho việc thu thập và kiểm tra thông tin của kế toán
được hoàn thiện và hiệu quả hơn. Bộ máy kế toán doanh nghiệp
gồm hai bộ phận là: Kế toán tài chính và kế toán quản trị.
Thứ ba, thiết lập quy trình, thủ tục để thu thập, xử lý thông
tin lập báo cáo kế toán quản trị: [6, 8]
Sơ đồ 3. Quy trình hệ thống thông tin doanh nghiệp [8]
Xét về công tác thu thập thông tin trong kế toán.
Hiện tại, các doanh nghiệp trên phân loại chi phí theo chức
năng hoạt động chứ không phân loại chi phí theo cách ứng xử
bao gồm chi phí khả biến và bất biến, nên việc phân tích mối
quan hệ giữa chi phí – khối lượng – lợi nhuận gặp rất nhiều khó
khăn. Bên cạnh đó, việc ghi nhận doanh thu tại các bộ phận
bán hàng như cảng, tại kho,... cũng phải được theo dõi cụ thể
để làm cơ sở đánh giá trách nhiệm của từng cá nhân, bộ phận.
Tác giả cùng thảo luận với các kế toán viên và kế toán trưởng
ở các doanh nghiệp và căn cứ vào ngành nghề khai thác, chế
biến và kinh doanh đá xây dựng để thống nhất xây dựng cách
đặt tên cho các tài khoản nhằm giúp kế toán thuận tiện trong
việc truy xuất dữ liệu. Tác giả đề xuất hệ thống tài khoản kế
toán thiết kế chi tiết hơn, mở thêm tài khoản cấp 2, 3, 4,... cùng
một chứng từ, thông tin đầu vào sẽ đồng thời cung cấp thông
tin cho kế toán tài chính và cả kế toán quản trị. Cách đặt tên tài
khoản được thiết kế như trong Bảng 1.
Xét về công tác xử lý và lập báo cáo kế toán quản trị
Đối với nghiệp vụ kinh tế phát sinh liên quan đến vốn bằng
tiền: kế toán tài chính sẽ căn cứ vào phiếu thu, chi, các chứng
từ ngân hàng để ghi nhận vào tài khoản vốn bằng tiền và các
tài khoản có liên quan. Cuối kỳ, kết sổ các tài khoản và lập báo
cáo lưu chuyển tiền tệ. Song song với quá trình này, bộ phận
kế toán quản trị cũng sẽ ghi nhận các nghiệp vụ thu, chi tiền
vào các tài khoản đối ứng của hệ thống tài khoản kế toán quản
KẾ TOÁN TÀI CHÍNH
BỘ PHẬN KẾ TOÁN DOANH NGHIỆP
KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
CHI PHÍ
VÀ GIÁ
THÀNH
CÁC KẾ TOÁN
CHI TIẾT
DỰ
TOÁN
PHÂN
TÍCH VÀ
ĐÁNH GIÁ
Tương laiQuá khứ
Hiện tại
HỆ THỐNG THÔNG TIN
DOANH NGHIỆP
KẾ TOÁN TÀI CHÍNH KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
BỘ MÁY KẾ TOÁN DOANH NGHIỆP
Các nghiệp vụ kinh
tế
THÔNG
TIN ĐẦU
RA
Thu thập, xử lý Thu thập, xử lý
THÔNG TIN
ĐẦU RA
69
Nguyễn Thị Đức Loan
Tạp chí Khoa học Lạc Hồng Số 05
trị theo từng bộ phận, từng trung tâm trách nhiệm để đối chiếu,
kiểm soát tình hình thực hiện dự toán tiền của từng trung tâm
trách nhiệm và làm cơ sở cho dự toán kỳ sau.
Đồng thời, các nghiệp vụ tập hợp chi phí và tính giá thành
sản phẩm, xác định kết quả kinh doanh: kế toán tài chính sẽ
căn cứ vào chứng từ gốc của doanh thu và chi phí để ghi nhận
vào các tài khoản tương ứng. Cuối kỳ, đối với công tác kế toán
tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm thì kế toán kết
chuyển các tài khoản chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí
nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung để tính giá thành
sản phẩm. Đối với công tác kế toán xác định kết quả kinh
doanh, kết chuyển các khoản chi phí giá vốn hàng bán, chi phí
bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp và doanh thu sang tài
khoản xác định kết quả kinh doanh. Song song với quá trình
này, kế toán quản trị sẽ khai thác số liệu sâu hơn bằng cách ghi
chép từng yếu tố chi phí, doanh thu ứng với trung tâm chi phí,
trung tâm doanh thu, trung tâm lợi nhuận để phân tích tình hình
thực hiện dự toán của từng trung tâm trách nhiệm, đồng thời
lập báo cáo kết quả kinh doanh theo số dư bảo đảm phí cho
từng bộ phận, từng trung tâm trách nhiệm cũng làm cơ sở cho
việc ra quyết định kinh doanh.
Bảng 1. Danh mục tài khoản chi tiết
STT
KÝ
HIỆU
CẤP 2 CẤP 3
GHI
CHÚ
CẤP 1 X X
1
621
_CPNVL
TT
LOẠI NVL
PHÂN LOẠI CHI
PHÍ
1: Thuốc nổ K: Khả biến
2: Mũi khoan B: Bất biến
3: Dầu X X
2
622_
CPNCTT
LƯƠNG VÀ TRÍCH
LƯƠNG
K: Khả biến
1: Đào B: Bất biến
2: Xúc H: Hỗn hợp
3: Vận chuyển
4: Xay
5: Khoan
6: Bắn mìn
3
627-
CPSXC
X X
1: Chi phí nhân viên phân
xưởng
PHÂN LOẠI CHI
PHÍ
2: Chi phí nguyên, vật liệu K: Khả biến
3: Chi phí dụng cụ sản
xuất
B: Bất biến
4: Chi phí khấu hao TSCĐ H: Hỗn hợp
5: Thuế tài nguyên
6: Phí môi trường
7: Chi phí dịch vụ mua
ngoài
8: Chi phí bằng tiền khác
4
641- Chi
phí bán
hàng
X X
1: Chi phí nhân viên
PHÂN LOẠI CHI
PHÍ
2: Chi phí nguyên vật liệu,
bao bì
K: Khả biến
3: Chi phí dụng cụ, đồ
dùng
B: Bất biến
4: Chi phí khấu hao TSCĐ H: Hỗn hợp
5: Chi phí dịch vụ mua
ngoài
6: Chi phí bằng tiền khác
5
642_ Chi
phí quản
lý
doanh
nghiệp
X
PHÂN LOẠI CHI
PHÍ
1: Chi phí nhân viên quản
lý
K: Khả biến
2: Chi phí vật liệu quản lý B: Bất biến
3: Chi phí đồ dùng văn
phòng
H: Hỗn hợp
4: Chi phí khấu hao TSCĐ
5: Thuế, phí và lệ phí
6: Chi phí dự phòng
7: Chi phí dịch vụ mua
ngoài
8: Chi phí bằng tiền khác
6
511_
Doanh
thu bán
hàng và
cung cấp
dịch vụ
X X
1: Doanh thu bán hàng hóa
Mở chi tiết tại từng
trạm cân,
tại từng cảng.
2: Doanh thu bán các
thành phẩm
3: Doanh thu cung cấp
dịch vụ
4: Doanh thu trợ cấp, trợ
giá
7: Doanh thu kinh doanh
bất động sản đầu tư
8: Doanh thu khác
Ví dụ 622.2.K: Lương và các khoản trích theo lương nhân
viên trực tiếp sản xuất ở bộ phận xúc đá, chi phí khả biến
Thứ tư, phân loại chi phí theo cách ứng xử trong công tác
kế toán quản trị, chia các khoản mục chi phí thành chi phí khả
biến và chi phí bất biến, đối với chi phí hỗn hợp thì lựa chọn
các phương pháp phân tích thành chi phí khả biến và chi phí
bất biến. [3-9] Tác giả tiến hành phân loại một số khoản mục
chi phí như Bảng 2.
Đối với ngành khai thác, chế biến và kinh doanh đá xây dựng
cần phải hạch toán thêm nhiều chi phí tiềm ẩn còn thiếu như
bồi thường thiệt hại khi bắn nổ mìn làm ảnh hưởng nhà cửa
người dân xung quanh khu vực khai thác, ô nhiễm nguồn nước,
bụi, chi phí xử lý các chất thải, các khoản bị phạt vi phạm hành
chính do ô nhiễm môi trường, các khoản phụ cấp độc hại cho
người lao động, v.v.
70 Tạp chí Khoa học Lạc Hồng Số 05
Sự cần thiết tổ chức và hoàn thiện công tác kế toán quản trị trong các doanh nghiệp
Bảng 2. Bảng phân loại chi phí doanh nghiệp khai
thác, chế biến kinh doanh đá
STT YẾU TỐ
BIẾN
ĐỔI
CỐ
ĐỊNH
HỖN
HỢP
I. CHI PHÍ SẢN XUẤT
A
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (chi phí
mua nguyên vật liệu, nhiên liệu)
x
B Chi phí nhân công trực tiếp x
1
Lương nhân viên đào, xúc, xay, vận
chuyển đá
x
2
Các khoản trích theo lương nhân viên đào,
xúc, xay, vận chuyển đá
x
3 Chi phí phụ cấp độc hại x
C Chi phí sản xuất chung
1 Chi phí lương công nhân gián tiếp x
2
Chi phí trích theo lương công nhân gián
tiếp
x
3
Chi phí công cụ, dụng cụ sản xuất (bảo hộ
lao động, bàn ghế, máy tính, )
x
4
Chi phí dầu, nước, điện, hoạt động sản
xuất trực tiếp
x
5
Chi phí điện, nước, điện thoại phục vụ
quản lý phân xưởng
x
6 Chi phí sửa chữa kho, máy móc thiết bị x
7 Chi phí bảo dưỡng máy móc x
8 Khấu hao tài sản cố định phục vụ sản xuất x
9 Thuế tài nguyên x
10 Phí môi trường x
II. CHI PHÍ BÁN HÀNG VÀ QUẢN
LÝ DOANH NGHIỆP
1
Lương và các khoản trích theo lương bộ
phận bán hàng
x
2
Lương và các khoản trích theo lương tính
theo tháng
x
3
Chi phí vật liệu, dụng cụ, bàn ghế, máy
tính
x
4
Khấu hao máy móc, thiết bị, văn phòng,
ôtô
x
5
Chi phí điện, nước, điện thoại, internet
trong văn phòng
x
6 Chi phí điện thoại x
7 Chi phí tiếp khách, hội họp x
8 Phí chuyển tiền x
9 Các khoản chi phí khác (chi phí đi lại, ) x
10 Chi phí quảng cáo x
11 Chi phí vận chuyển hàng bán x
12 Chi phí tiếp thị x
Thứ năm, hoàn thiện về việc xây dựng hệ thống định mức
và hệ thống dự toán ngân sách. [3-9] Hệ thống xây dựng định
mức bao gồm định mức tiêu hao nguyên vật liệu như mũi
khoan, đục, thuốc nổ, định mức giờ công của người lao động
trực tiếp trong quá trình khoan, đục, xay, xúc, vận chuyển,
Khi xây dựng hệ thống định mức cần căn cứ vào những quy
định tiêu chuẩn về quy trình, quy tắc quy phạm kỹ thuật thuộc
lĩnh vực khai thác, chế biến và kinh doanh đá xây dựng. Đồng
thời đảm bảo an toàn trong sản xuất kinh doanh và tránh ô
nhiễm môi trường. Đối với công tác dự toán phải lập đầy đủ,
luôn sửa đổi theo biến động thị trường, đáp ứng đầy đủ thông
tin trong quá trình phân tích báo cáo kế toán quản trị.
Thứ sáu, cần phải vận dụng việc phân tích mối quan hệ giữa
chi phí - khối lượng - lợi nhuận. [2-9] Thực hiện phân tích ảnh
hưởng của các nhân tố như giá bán, khối lượng, chi phí khả
biến, bất biến, kết cấu mặt hàng tác động đến lợi nhuận như thế
nào.
Thứ bảy, xây dựng bộ máy quản lý của từng bộ phận và gắn
các trung tâm trách nhiệm vào từng bộ phận để đánh giá trách
nhiệm quản lý của từng bộ phận, từng cá nhân. [2] Đồng thời,
cần xây dựng các chỉ tiêu để đánh giá kết quả, hiệu quả hoạt
động phù hợp với doanh nghiệp.
Thứ tám, nhân viên kế toán quản trị phải có trình độ cao về
kế toán, đặc biệt là kế toán phải có kiến thức và kinh nghiệm
của kế toán quản trị viên cao cấp để thực hiện và cung cấp
thông tin thích hợp và đáng tin cậy cho nhà quản trị. [3, 6-9]
Cần có những cấp độ bảo mật thông tin kế toán cần thiết để
phục vụ cho các đối tượng sử dụng khác nhau. Nhân viên kế
toán quản trị phải lập báo cáo một cách trung thực và khách
quan, đầy đủ nội dung mà nhà quản trị yêu cầu. Những thông
tin này phản ánh đúng bản chất của sự việc, làm cơ sở cho việc
ra quyết định đúng đắn trong tương lai gần.
3. KẾT LUẬN
Việc tổ chức và hoàn thiện công tác kế toán quản trị trong
các doanh nghiệp khai thác, chế biến và kinh doanh đá xây
dựng trên địa bàn tỉnh Bình Dương là điều cần thiết nhằm thu
thập, xử lý và cung cấp thông tin nội bộ kịp thời cho nhà quản
trị ra quyết định, giúp nhà quản trị tiếp cận với phương pháp
quản lý mới, tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
trên thị trường.
Bài viết này tác giả nghiên cứu cho các doanh nghiệp khai
thác, chế biến và kinh doanh đá xây dựng với quy mô doanh
nghiệp vừa và doanh nghiệp lớn. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp
có quy mô nhỏ muốn vận dụng công tác kế toán quản trị thì
phải thu hẹp bộ máy kế toán. Tác giả nghiên cứu mô hình kế
toán quản trị kết hợp áp dụng cho các doanh nghiệp, định
hướng công tác kế toán tài chính trong việc thiết kế tài khoản
chi tiết giúp cho việc truy xuất và phân loại chi phí theo cách
ứng xử trong kế toán quản trị dễ dàng hơn và có thể vận dụng
lý thuyết phân tích mối quan hệ giữa chi phí – khối lượng – lợi
nhuận vào trong đơn vị. Từ đây, kế toán quản trị phân tích
những nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận làm cơ sở cho nhà
quản trị thấy được những mặt mạnh và hạn chế của đơn vị. Tác
giả đã nhận xét công tác kế toán quản trị hiện tại và đưa ra
những giải pháp để hoàn thiện bộ máy kế toán nói chung và kế
toán quản trị nói riêng của doanh nghiệp cũng như hoàn thiện
trong việc lập báo cáo dự toán, báo cáo trách nhiệm, phân tích
tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh. Mô hình này có thể
áp dụng cho các doanh nghiệp khai thác khoáng sản khác như
than, titan, .v.v. trên cả nước.
71
Nguyễn Thị Đức Loan
Tạp chí Khoa học Lạc Hồng Số 05
4. CẢM ƠN
Tôi xin chân thành quý công ty khai thác, chế biến kinh
doanh đá xây dựng trên địa bàn tỉnh Bình Dương cùng với các
anh chị Phòng kế toán và các anh chị phòng ban khác đã nhiệt
tình giúp đỡ tôi hoàn thành bài báo này.
5. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ngô Ngọc Quang, “Quy hoạch phát triển vật liệu xây dựng tỉnh
Bình Dương đến năm 2020”, Tầm nhìn đến năm 2025, 2011,
ch.2, tr. 21-27.
[2] Nguyễn Thị Đức Loan, “Hoàn thiện công tác kế toán trách nhiệm
tại công ty cổ phần đá Núi Nhỏ”, Luận văn thạc sỹ, Đại học kinh
tế thành phố Hồ Chí Minh, 2011, ch.2, tr. 40-45.
[3] Huỳnh Lợi, “Kế toán quản trị”, Nhà xuất bản giao thông vận tải
2010, ch. 2, tr. 45 – 47.
[4] Huỳnh Lợi, “Xây dựng kế toán quản trị trong doanh nghiệp sản
xuất Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, ĐHKT, TP.HCM,
2008, ch.2, tr. 45-50
[5] Nguyễn Hoãn, “Xây dựng mô hình kế toán quản trị chi phí cho
các doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo Việt Nam”, Luận án tiến sĩ
kinh tế, Đại học kinh tế quốc dân, 2011, ch. 2, tr. 100- 105.
[6] Hoàng Văn Tưởng, “Tổ chức kế toán quản trị với việc tăng
cường quản lý hoạt động kinh doanh trong các doanh nghiệp
xây lắp Việt Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc
dân, 2011, ch. 2, tr. 51- 55.
[7] Trần Thế Nữ, “Xây dựng mô hình kế toán quản trị chi phí trong
các doanh nghiệp thương mại quy mô vừa và nhỏ ở Việt Nam”,
Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, 2011, ch. 2-
3, tr. 100- 110, 122 – 132
[8] Hồ Mỹ Hạnh, “Tổ chức hệ thống thông tin kế toán quản trị chi
phí trong các doanh nghiệp may Việt Nam”, Luận án tiến sĩ, Đại
học Kinh tế quốc dân, 2013, ch. 2, tr. 120- 125.
[9] Nguyễn Thị Ngọc Lan, “Tổ chức kế toán quản trị chi vận tải hàng
hóa trong các công ty vận tải đường bộ Việt Nam”, Luận án tiến
sĩ. Đại học Kinh tế quốc dân, 2012, ch.2, tr. 30- 34.
TIỂU SỬ TÁC GIẢ
Thạc sĩ Nguyễn Thị Đức Loan
Sinh năm 1982. Hiện là Giảng viên Khoa Tài chính– Kế toán, Trường Đại
học Lạc Hồng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- su_can_thiet_to_chuc_va_hoan_thien_cong_tac_ke_toan_quan_tri.pdf