(1) Cung cấp đầy đủ thông tin về điểm đến du lịch
nhưng phải đảm bảo tính trung thực nhằm
tránh sự thất vọng của du khách; đảm bảo số
lượng và chất lượng dịch vụ chào bán đúng
như thông tin.
(2) Phát triển du lịch theo hướng cộng đồng nhiều
nhất có thể để cải thiện cơ hội tham gia vào du
lịch của người dân và nâng cao chất lượng
cuộc sống của họ.
(3) Khảo sát, kiểm kê, đánh giá và đẩy mạnh đầu
tư hệ thống giao thông đường bộ kết nối các
điểm du lịch, các điểm tài nguyên có khả năng
hấp dẫn du khách và có thể khai thác phục vụ
du lịch ở tương lai.
(4) Phân loại nhân viên phục vụ du lịch, đánh giá
trình độ chuyên môn và nghiệp vụ du lịch của
từng nhóm nhân viên, tiến hành đào tạo, bồi
dưỡng; cần đặc biệt chú ý đến chất lượng của
nhân viên lễ tân, nhân viên phục vụ ăn uống và
nhân viên bán hàng.
(5) Khai thác tài nguyên du lịch phải đi đôi với
bảo tồn để không làm suy giảm số lượng và
chất lượng các yếu tố hấp dẫn ở điểm đến du
lịch; đảm bảo tính chân thực của văn hóa địa
phương.
(6) Tăng cường các hoạt động tuyên truyền, giáo
dục nâng cao nhận thức và hành vi của người
dân địa phương có lợi cho hình ảnh điểm đến
và đảm bảo quyền lợi cho du khách; đẩy mạnh
công tác bảo vệ môi trường ở các điểm đến du
lịch.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 11/01/2022 | Lượt xem: 335 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững của tỉnh An Giang qua đánh giá của du khách nội địa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 18 – 29
18
SỰ ĐÁP ỨNG CÁC NGUYÊN TẮC DU LỊCH BỀN VỮNG
CỦA TỈNH AN GIANG QUA ĐÁNH GIÁ CỦA DU KHÁCH NỘI ĐỊA
Nguyễn Trọng Nhân1
1Trường Đại học Cần Thơ
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 01/03/2019
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
20/07/2020
Ngày chấp nhận đăng:
01/2021
Title:
Meeting of the sustainable
tourism principles of An Giang
province through the
evaluation of domestic tourists
Keywords:
Tourism, sustainable tourism,
principles of sustainable
tourism, An Giang province
Từ khóa:
Du lịch, du lịch bền vững,
nguyên tắc du lịch bền vững,
tỉnh An Giang
ABSTRACT
This study aims to explore influencing factors amd to analyze the satisfaction
of the sustainable tourism principles of An Giang province. The results of
this research point out 7 factors that affecting the satisfaction of the
sustainable tourism principles of An Giang province classified by its
descending importance including: “Local economic support and honesty in
marketing destination image”, “Environmental protection, infrustructure
development investment, participation and benefit of local people, activities
to change the behavior of visitors”, “Tourism staff training”, “Using
resources sustainably”, “Trash management and activities to change
behavior of local people”, “Natural diversity”, “Cultural diversity”. An
Giang province was highly evaluated for the satisfaction of the principles of
sustainable toursim.
TÓM TẮT
Với mục đích khám phá các nhân tố ảnh hưởng đến sự đáp ứng các nguyên
tắc du lịch bền vững, phân tích sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững
của tỉnh An Giang, nghiên cứu này được thực hiện. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, 7 nhân tố ảnh hưởng đến sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững
của tỉnh An Giang theo tầm quan trọng giảm dần là “Hỗ trợ kinh tế địa
phương và sự trung thực trong quảng bá hình ảnh điểm đến”, “Bảo vệ môi
trường, sự đầu tư cơ sở hạ tầng, sự tham gia và hưởng lợi của người dân địa
phương, những hoạt động thay đổi hành vi của du khách”, “Đào tạo nhân
viên”, “Sử dụng nguồn lực một cách bền vững”, “Quản lý rác thải và hoạt
động thay đổi hành vi của người dân địa phương”, “Sự đa dạng thiên
nhiên”, “Sự đa dạng văn hóa”. Tỉnh An Giang được đánh giá cao về sự đáp
ứng các nguyên tắc du lịch bền vững.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Du lịch là ngành dịch vụ tổng hợp, có khả năng
đóng góp to lớn vào phát triển kinh tế, tạo nhiều
việc làm, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo
động lực cho các ngành, lĩnh vực khác phát triển,
đem lại hiệu quả nhiều mặt về kinh tế, văn hóa, xã
hội, Nhận thức được vai trò to lớn của ngành du
lịch, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 08-NQ/TW
về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn, trong đó, xác định mục tiêu, đến năm 2020,
ngành du lịch cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi
AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 18 – 29
19
nhọn; phấn đấu đến năm 2030, du lịch thực sự là
ngành kinh tế mũi nhọn (Bộ Chính trị, 2017).
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh An Giang lần
thứ X cũng xác định “phát triển du lịch tỉnh An
Giang thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh”
(Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang, 2017). Từ đó
cho thấy, ngành du lịch nói chung, ngành du lịch
tỉnh An Giang nói riêng đang nhận được sự quan
tâm của các cấp.
An Giang là tỉnh giàu có về tài nguyên du lịch tự
nhiên và văn hóa. Thời gian qua, được sự quan
tâm của cả hệ thống chính trị, người dân, ngành
du lịch tỉnh đã đạt được một số thành tựu đáng ghi
nhận (số lượt khách năm sau cao hơn năm trước;
cơ sở dịch vụ du lịch có bước phát triển khá; các
sản phẩm du lịch từng bước được quan tâm, đầu
tư phát triển; hạ tầng viễn thông phát triển khá
đồng bộ; chất lượng dịch vụ du lịch ngày càng tốt
hơn; hạ tầng giao thông và hệ thống nhà vệ sinh
đạt chuẩn được tích cực đầu tư;) (Ủy ban Nhân
dân tỉnh An Giang, 2017). Bên cạnh những mặt
mạnh, ngành du lịch tỉnh cũng tồn tại một số hạn
chế (hệ thống nhà hàng, khách sạn, cơ sở lưu trú
mang tính nhỏ lẻ, rời rạc, dịch vụ du lịch nghèo
nàn, thiếu những khu vui chơi, giải trí có tầm vóc,
các trung tâm mua sắm hiện đại; ở các khu/điểm
du lịch, tình trạng hệ thống nhà vệ sinh thấp kém,
thiếu hệ thống xử lý rác; các công ty lữ hành trong
tỉnh quy mô nhỏ và yếu, hoạt động chưa có tính
chuyên nghiệp cao, chưa tham gia mạnh mẽ vào
khâu xúc tiến, quảng bá du lịch; hệ thống giao
thông cầu, đường vẫn chưa đáp ứng được lưu
lượng giao thông ngày càng tăng, nhất là vào mùa
cao điểm lễ hội của tỉnh; nguồn nhân lực hoạt
động trong lĩnh vực du lịch chưa được đào tạo bài
bản, chuyên nghiệp;) (Ủy ban Nhân dân tỉnh
An Giang, 2017) ảnh hưởng không nhỏ đến sự
phát triển của ngành du lịch nói chung, sự phát
triển bền vững của ngành du lịch An Giang nói
riêng.
Phát triển du lịch theo hướng bền vững là quan
điểm trung tâm của các quốc gia, điểm đến du lịch
và là xu hướng của mọi thời đại. Điểm đến du lịch
phát triển bền vững không chỉ cung cấp những trải
nghiệm chất lượng cho du khách mà còn cải thiện
chất lượng cuộc sống của cộng đồng, bảo vệ chất
lượng môi trường, duy trì nguồn tài nguyên du
lịch, nâng cao sự hài lòng của du khách, Năm
1992, Tổ chức Tourism Concern biên soạn các
nguyên tắc du lịch bền vững dưới dạng lý thuyết
để các quốc gia, điểm đến du lịch, nhà kinh doanh
du lịch có thể áp dụng vào việc nghiên cứu, quản
lý, định hướng phát triển du lịch nhằm thúc đẩy
ngành du lịch phát triển một cách bền vững.
Niedziolka (2012) cho rằng: bộ nguyên tắc này có
thể áp dụng đối với tất cả những loại hình du lịch
ở mọi điểm đến. Tuy nhiên, thời gian qua, chưa
thấy công trình nghiên cứu nào áp dụng bộ
nguyên tắc này trong đánh giá sự bền vững của
hoạt động du lịch ở điểm đến, trong khi đó, phát
triển du lịch bền vững luôn là chiến lược trọng
tâm ở cấp độ toàn cầu. Với mục đích nhận diện
những nhân tố ảnh hưởng đến sự đáp ứng các
nguyên tắc của du lịch bền vững, sự đáp ứng các
nguyên tắc của du lịch bền vững tỉnh An Giang,
nghiên cứu này được thực hiện. Kết quả nghiên
cứu cung cấp cơ sở thực tiễn hữu ích cho các bên
liên quan trong việc thực thi những giải pháp
nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành
du lịch tỉnh An Giang.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu
2.1.1 Cơ sở lý thuyết về du lịch bền vững
Đầu thế kỉ XX, sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học và công nghệ làm cho năng suất lao động
không ngừng được nâng cao, của cải vật chất làm
ra ngày càng nhiều, đáp ứng phần nào nhu cầu về
vật chất và tinh thần của nhân loại. Song, từ sự
phát triển ấy, con người đã khai thác nhiều tài
nguyên thiên nhiên và tạo ra nhiều chất thải hơn.
Điều này gây ảnh hưởng xấu đến đa dạng sinh
học, môi trường, cảnh quan, chất lượng cuộc sống
con người. Đứng trước tình thế đó, loài người
nhận thức được rằng tăng trưởng kinh tế chưa
phải là độ đo duy nhất của sự phát triển. Do đó,
cần phải xem xét và đánh giá đúng các mối quan
hệ con người với Trái đất, phát triển kinh tế và xã
AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 18 – 29
20
hội với bền vững môi trường, đó là sự phát triển
bền vững (Lê Văn Khoa và cs., 2009). Quan điểm
phát triển bền vững chính thức ra đời năm 1987
khi Ủy ban Thế giới về Môi trường và Phát triển
cho xuất bản báo cáo “Tương lai chung của chúng
ta”. Trong báo cáo, phát triển bền vững được định
nghĩa là “sự phát triển đáp ứng được những nhu
cầu của thế hệ hiện tại mà không tổn hại đến khả
năng đáp ứng các nhu cầu ấy cho thế hệ tương lai”
(Daniels và cs., 2005, tr. 158). Phát triển bền vững
dựa trên 3 trụ cột: phát triển kinh tế, bảo vệ môi
trường và phát triển văn hóa - xã hội. Quan điểm
phát triển bền vững được ứng dụng vào lĩnh vực
du lịch vào thập niên 80 của thế kỉ XX (Lê Văn
Thăng và cs., 2008). Đến thập niên 90 của thế kỉ
XX, du lịch bền vững chiếm lĩnh địa vị thống trị
cả trong lĩnh vực học thuật, chính sách du lịch và
quá trình quy hoạch phát triển du lịch (Ashley et
al., 2001; dẫn theo Yazdi, 2012). Đầu thế kỉ XXI,
ý tưởng về du lịch bền vững trở nên phổ biến hơn
trong lĩnh vực công (Niedziolka, 2012). Vậy thế
nào là du lịch bền vững? Theo Tổ chức Du lịch
Thế giới (1998; dẫn theo Lu & Nepal, 2009), du
lịch bền vững là du lịch đáp ứng được nhu cầu của
du khách ở hiện tại mà lại duy trì và nâng cao cơ
hội du lịch cho các du khách ở tương lai.
2.1.2 Mô hình nghiên cứu về mức độ đáp ứng
các nguyên tắc du lịch bền vững
Phát triển du lịch bền vững mang lại nhiều lợi ích
cho điểm đến du lịch, người dân nước đón
khách/địa phương, công ty du lịch, du khách và
chính quyền địa phương trên phương diện kinh tế,
văn hóa, xã hội và môi trường. Nhận thức được
điều này, năm 1992, tổ chức Tourism Concern
biên soạn các nguyên tắc du lịch bền vững để vận
động các bên liên quan áp dụng trong quản lý, quy
hoạch điểm đến hướng đến sự phát triển du lịch
bền vững. Các nguyên tắc du lịch bền vững gồm
sử dụng nguồn lực một cách bền vững, giảm chất
thải và tiêu thụ quá mức, duy trì tính đa dạng, hợp
nhất du lịch vào quy hoạch, hỗ trợ kinh tế địa
phương, lôi kéo sự tham gia của cộng đồng địa
phương, lấy ý kiến của quần chúng và các đối
tượng có liên quan, đào tạo nhân viên, tiếp thị du
lịch một cách có trách nhiệm, tiến hành nghiên
cứu (Tổ chức Tourism Concern, 1992;
Niedziolka, 2012).
- Sử dụng nguồn lực một cách bền vững. Hoạt
động du lịch liên quan đến việc sử dụng nguồn
tài nguyên thiên nhiên và văn hóa. Nhiều
nguồn tài nguyên này không thể nhân tạo hoặc
phục dựng đúng như nguyên bản của chúng.
Vì vậy, việc bảo tồn và sử dụng bền vững
nguồn tài nguyên thiên nhiên và văn hóa là tối
cần thiết bởi nó giúp cho việc kinh doanh du
lịch phát triển lâu dài (Tổ chức Tourism
Concern, 1992).
- Giảm chất thải và tiêu thụ quá mức. Chất thải
từ các hoạt động kinh tế, sản xuất và đời sống
dẫn tới sự xuống cấp về môi trường của điểm
đến du lịch một cách lâu dài. Sự tiêu thụ quá
mức các nguồn tài nguyên sẽ dẫn tới sự phá
hủy môi trường điểm đến du lịch, quốc gia,
toàn cầu và điều này đi ngược lại với mục tiêu
phát triển lâu dài. Vì vậy, giảm chất thải và
tiêu thụ quá mức sẽ tránh được những chi phí
tốn kém cho việc phục hồi những tổn hại về
môi trường và góp phần nâng cao chất lượng
của hoạt động du lịch ở điểm đến (Tổ chức
Tourism Concern, 1992).
- Duy trì tính đa dạng. Do sự phát triển của các
hoạt động kinh tế, trong đó có du lịch, chắc
chắn sẽ làm thay đổi môi trường thiên nhiên,
văn hóa, xã hội và kinh tế. Do đó, việc duy trì
và tăng cường tính đa dạng của thiên nhiên,
văn hóa và xã hội là hết sức quan trọng cho du
lịch bền vững và cũng là chỗ dựa sinh tồn của
ngành công nghiệp du lịch (Tổ chức Tourism
Concern, 1992).
- Hợp nhất du lịch vào quy hoạch. Việc hợp
nhất phát triển du lịch vào trong khuôn khổ
hoạch định chiến lược cấp quốc gia và địa
phương, tiến hành đánh giá tác động môi
trường làm tăng khả năng tồn tại lâu dài của
ngành du lịch (Tổ chức Tourism Concern,
1992).
- Hỗ trợ kinh tế địa phương. Ngành du lịch hỗ
trợ được các hoạt động kinh tế địa phương và
AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 18 – 29
21
có tính đến các giá trị và chi phí về mặt môi
trường thì mới bảo vệ được các nền kinh tế địa
phương và tránh được sự tổn thất về môi
trường (Tổ chức Tourism Concern, 1992).
- Lôi kéo sự tham gia của cộng đồng địa
phương. Sự tham gia của cộng đồng địa
phương là cần thiết cho ngành du lịch bởi văn
hóa, môi trường, lối sống và truyền thống của
họ là những nhân tố quan trọng thu hút khách
du lịch tới điểm du lịch. Vì vậy, việc tham gia
của cộng đồng địa phương vào du lịch sẽ
không chỉ mang lại lợi ích cho họ và môi
trường mà còn nâng cao chất lượng du lịch ở
điểm đến (Tổ chức Tourism Concern, 1992).
- Lấy ý kiến của quần chúng và các đối tượng
có liên quan. Tham khảo ý kiến quần chúng là
một quá trình nhằm dung hòa giữa phát triển
kinh tế với những mối quan tâm lớn của địa
phương và tác động tiềm ẩn của sự phát triển
lên môi trường tự nhiên, xã hội và văn hóa.
Thiếu sự tham khảo ý kiến của cơ quan nhà
nước, lĩnh vực tư nhân và cộng đồng địa
phương có thể đưa đến sự thù địch và đối
kháng, thậm chí khó có thể giải quyết được
các mâu thuẫn về quyền lợi (Tổ chức Tourism
Concern, 1992).
- Đào tạo nhân viên. Một lực lượng lao động
được đào tạo và có kỹ năng thành thạo không
những đem lại lợi ích về kinh tế cho ngành mà
còn nâng cao chất lượng của sản phẩm du lịch,
tính hiệu quả ở tất cả các cấp và ở lòng tin
tưởng, tự tin và tự nguyện công tác của nhân
viên. Việc đào tạo nhân viên đúng đắn có thể
làm cho du khách có ý thức trách nhiệm đối
với môi trường và sẽ dẫn đến một ngành công
nghiệp du lịch phát triển lâu dài và bền vững
hơn (Tổ chức Tourism Concern, 1992).
- Tiếp thị du lịch một cách có trách nhiệm. Việc
cung cấp cho du khách những thông tin đầy đủ
và có trách nhiệm về điểm đến du lịch, sản
phẩm du lịch, nguồn gốc hàng hóa, tác động
của hoạt động du lịch đến người dân và môi
trường sẽ nâng cao sự tôn trọng của du khách
đối với môi trường thiên nhiên, văn hóa và xã
hội của nơi tham quan, đồng thời sẽ tăng thêm
sự thỏa mãn đối với chuyến đi của du khách
(Tổ chức Tourism Concern, 1992).
- Tiến hành nghiên cứu. Nghiên cứu và giám sát
ngành công nghiệp du lịch thông qua việc sử
dụng và phân tích có hiệu quả các số liệu là
cần thiết để giúp cho việc giải quyết những
vấn đề tồn đọng và mang đến lợi ích cho các
điểm tham quan, cho ngành du lịch và cho du
khách (Tổ chức Tourism Concern, 1992).
Để đánh giá mức độ đáp ứng các nguyên tắc du
lịch bền vững của tỉnh An Giang, thang đo 5 điểm
dạng Likert được sử dụng. Mức độ đáp ứng sự
bền vững thấp hay cao phụ thuộc vào sự cảm nhận
của du khách. Có 10 nguyên tắc du lịch bền vững,
tuy nhiên, du khách không thể đánh giá được
nguyên tắc hợp nhất du lịch vào quy hoạch, lấy ý
kiến của quần chúng và các đối tượng liên quan,
tiến hành nghiên cứu. Vì vậy, mô hình nghiên cứu
chỉ bao gồm 7 thang đo độc lập: sử dụng nguồn
lực một cách bền vững, giảm chất thải và tiêu thụ
quá mức, duy trì tính đa dạng, hỗ trợ kinh tế địa
phương, lôi kéo sự tham gia của cộng đồng địa
phương, đào tạo nhân viên, tiếp thị du lịch một
cách có trách nhiệm (Hình 1).
AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 18 – 29
22
Hình 1. Mô hình nghiên cứu mức độ đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững
Nguồn: Nhóm nghiên cứu, 2018
2.2 Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này được thực hiện trên cơ sở tham
khảo nguồn tài liệu thứ cấp và thu thập, xử lý dữ
liệu sơ cấp. Tài liệu thứ cấp bao gồm sách, bài
báo khoa học, nghị quyết, chương trình hành
động. Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử
dụng để kế thừa thông tin hữu ích từ loại tài liệu
này. Dữ liệu sơ cấp được thu thập từ 221 du khách
nội địa đến du lịch ở An Giang bằng bảng câu hỏi
(theo Hoyle (1995; dẫn theo Li & Uysal, trong
Sirakaya-Turk et al., 2011) đề nghị cỡ mẫu cho
một nghiên cứu định lượng tối thiểu phải từ 100
đến 200 đáp viên). Đáp viên được lựa chọn theo
kỹ thuật chọn mẫu kiểu thuận tiện. Địa điểm lấy
mẫu là cụm du lịch Núi Sam, khu du lịch núi Cấm
và khu bảo vệ cảnh quan rừng Tràm Trà Sư. Thời
gian lấy mẫu từ tháng 1 đến tháng 11 năm 2018.
Các phương pháp thống kê mô tả, đánh giá độ tin
cậy thang đo, phân tích nhân tố khám phá và hồi
quy tuyến tính đa biến được sử dụng trong phân
tích dữ liệu. Đối với thống kê mô tả dưới dạng số
trung bình, mức 1 (hoàn toàn không đáp ứng sự
bền vững) có giá trị từ 1 đến 1,5; mức 2 (không
đáp ứng sự bền vững) có giá trị từ 1,51 đến 2,5;
mức 3 (không phải đáp ứng cũng không phải
không đáp ứng sự bền vững) có giá trị từ 2,51 đến
3,5; mức 4 (đáp ứng sự bền vững) có giá trị từ
3,51 đến 4,5; mức 5 (hoàn toàn đáp ứng sự bền
vững) có giá trị từ 4,51 đến 5,0. Thang đo đảm
bảo độ tin cậy khi 0,6 ≤ α của Cronbach ≤ 1 (vì
mô hình nghiên cứu này mới) (Nunnally, 1978;
Peterson, 1994; Slate, 1995; dẫn theo Lê Văn Huy
& Trương Trần Trâm Anh, 2012) và biến đo
lường của thang đo có hệ số tương quan biến -
tổng hiệu chỉnh ≥ 0,3 (Nunnally & Bernstein,
1994; dẫn theo Nguyễn Đình Thọ, 2011). Dữ liệu
thích hợp cho phân tích nhân tố khám phá khi
thỏa mãn 3 điều kiện: 0,5 ≤ KMO ≤ 1 (Lê Văn
Huy & Trương Trần Trâm Anh, 2012), giá trị Sig.
của kiểm định Bartlett ≤ 0,05 (Hoàng Trọng &
Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008), tổng phương sai
giải thích > 50% (Lê Văn Huy & Trương Trần
Trâm Anh, 2012). Biến thuộc nhân tố khi có hệ số
tải lớn nhất theo hàng và ≥ 0,4 (vì mẫu 221) (Hair
et al., 2009; dẫn theo Lê Văn Huy & Trương Trần
Trâm Anh, 2012). Khi thỏa mãn 3 điều kiện: giá
trị Sig. của phân tích phương sai ≤ 0,05, 0,05 ≤ hệ
số R2 hiệu chỉnh ≤ 1 (Saunders et al., 2010), hệ số
khuếch đại phương sai (VIF) < 10 (Đinh Phi Hổ,
2012), thì dữ liệu thích hợp để phân tích hồi quy
tuyến tính đa biến. Phương trình hồi quy tuyến
tính đa biến có dạng: Y = a + b1X1 + b2X2 + b3X3
+ + bnXn. Trong đó, Y: điểm số của biến phụ
thuộc, a: giao điểm, b: độ dốc, X: điểm số của
biến độc lập (Lê Minh Tiến, 2003).
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Nhân tố ảnh hưởng sự đáp ứng các nguyên
tắc du lịch bền vững của tỉnh An Giang
Mô hình giả định các nhân tố ảnh hưởng đến mức
độ đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững của
tỉnh An Giang gồm 7 thang đo độc lập (sử dụng
nguồn lực một cách bền vững, giảm chất thải và
tiêu thụ quá mức, duy trì tính đa dạng, hỗ trợ kinh
Mức độ đáp ứng các
nguyên tắc du lịch
bền vững
Sử dụng nguồn lực một
cách bền vững Giảm chất thải và tiêu
thụ quá mức
Duy trì tính đa dạng
Hỗ trợ kinh tế địa
phương
Lôi kéo sự tham gia của
cộng đồng địa phương
Đào tạo nhân viên
Tiếp thị du lịch một
cách có trách nhiệm
AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 18 – 29
23
tế địa phương, lôi kéo sự tham gia của cộng đồng
địa phương, đào tạo nhân viên, tiếp thị du lịch một
cách có trách nhiệm) và được đo lường bằng 31
biến quan sát. Ngoài 7 thang đo độc lập, mô hình
nghiên cứu còn có 1 thang đo phụ thuộc gồm 5
biến quan sát.
Kết quả đánh giá độ tin cậy thang đo cho thấy, sau
khi loại biến “không có tình trạng quá đông đúc
khách ở khu/điểm du lịch của tỉnh - SDNL5”,
“người dân tỉnh An Giang có nhiều hình thức sinh
kế - DTĐD5”, 7 thang đo độc lập đảm bảo độ tin
cậy bởi có hệ số α của Cronbach từ 0,67 đến 0,78
và hệ số tương quan biến - tổng hiệu chỉnh các
biến từ 0,34 đến 0,66. Thang đo phụ thuộc cũng
đảm bảo độ tin cậy bởi có hệ số α của Cronbach là
0,85 và hệ số tương quan biến - tổng hiệu chỉnh
các biến từ 0,60 đến 0,76 (Bảng 1).
Bảng 1. Độ tin cậy thang đo và biến quan sát (n = 221)
Thang đo Biến đặc trưng
Biến bị
loại
α của
Cronbach
Hệ số
tương quan
Sử dụng nguồn lực
một cách bền vững
SDNLBV1, SDNLBV2,
SDNLBV3
SDNLBV4 0,70 0,42 → 0,57
Giảm chất thải và tiêu
thụ quá mức
GCT & TT1, GCT & TT2, GCT
& TT3, GCT & TT4
0,71 0,40 → 0,66
Duy trì tính đa dạng DTĐD1, DTĐD2, DTĐD3,
DTĐD4
DTĐD5 0,67 0,40 → 0,51
Hỗ trợ kinh tế địa
phương
HTKTĐP1, HTKTĐP2,
HTKTĐP3, HTKTĐP4,
HTKTĐP5
0,70 0,37 → 0,59
Lôi kéo sự tham gia
của cộng đồng địa
phương
LKSTGCĐ1, LKSTGCĐ2,
LKSTGCĐ3, LKSTGCĐ4
0,71 0,41 → 0,61
Đào tạo nhân viên ĐTNV1, ĐTNV2, ĐTNV3,
ĐTNV4
0,78 0,56 → 0,63
Tiếp thị du lịch một
cách có trách nhiệm
TTDLTN1, TTDLTN2,
TTDLTN3, TTDLTN4,
TTDLTN5
0,73 0,34 → 0,65
Đánh giá chung
(ĐGC)
ĐGC1, ĐGC2, ĐGC3, ĐGC4,
ĐGC5
0,85 0,60 → 0,76
Nguồn: Kết quả phỏng vấn trực tiếp du khách của nhóm nghiên cứu, 2018
Dữ liệu thỏa mãn 3 điều kiện của phân tích nhân
tố khám phá: KMO = 0,83, giá trị Sig. = 0,000,
tổng phương sai giải thích = 63,9%. Bảng ma trận
xoay nhân tố cho thấy, có 8 nhân tố ảnh hưởng
đến mức độ đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền
vững của tỉnh An Giang.
Nhân tố 1 gồm các biến: sự bố trí thùng đựng rác
ở mỗi khu/điểm du lịch (GCT & TT1), hệ thống
giao thông đường bộ (HTKTĐP1), hệ thống cung
cấp điện (HTKTĐP2), sự hưởng lợi từ du lịch của
người dân địa phương (HTKTĐP3), sự cung cấp
dịch vụ ăn uống của người dân địa phương ở
AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 18 – 29
24
khu/điểm du lịch (LKSTGCĐ2), sự tham gia bán
hàng lưu niệm của người dân địa phương ở điểm
du lịch (LKSTGCĐ3), khả năng cải thiện sự hiểu
biết của du khách về điểm đến thông qua sự cung
cấp thông tin từ biển thông tin/ấn phẩm hướng
dẫn du lịch ở khu/điểm du lịch (TTDLTN2),
những quy định về hành vi của du khách nhằm
bảo vệ các yếu tố văn hóa vật thể và phi vật thể
(TTDLTN3), những quy định về hành vi của du
khách nhằm bảo vệ môi trường và xã hội
(TTDLTN4). Nhân tố này được đặt tên là “Bảo vệ
môi trường, sự đầu tư cơ sở hạ tầng, sự tham gia
và hưởng lợi của người dân địa phương, những
hoạt động thay đổi hành vi của du khách”.
Nhân tố 2 gồm các biến: việc sử dụng sản vật địa
phương trong chế biến món ăn (HTKTĐP4), xuất
xứ địa phương của hàng lưu niệm (HTKTĐP5),
sự tham gia cung cấp dịch vụ tham quan của
người dân địa phương (LKSTGCĐ4), sự tương
thích giữa mức độ hấp dẫn của khu/điểm du lịch
với thông tin quảng bá (TTDLTN1). Nhân tố này
được đặt tên “Hỗ trợ kinh tế địa phương và sự
trung thực trong quảng bá hình ảnh điểm đến”.
Nhân tố 3 gồm các biến: sự hài lòng đối với nhân
viên lễ tân (ĐTNV1), sự hài lòng đối với nhân
viên bán hàng (ĐTNV2), sự hài lòng đối với nhân
viên phục vụ tham quan (ĐTNV3), sự hài lòng
đối với nhân viên phục vụ ăn uống (ĐTNV4).
Nhân tố này được đặt tên là “Đào tạo nhân viên”.
Nhân tố 4 gồm các biến: sự khuyến khích sử dụng
tiết kiệm điện của cơ sở lưu trú (GCT & TT3), sự
khuyến khích sử dụng tiết kiệm nước của cơ sở
lưu trú (GCT & TT4). Nhân tố này được đặt tên là
“Khuyến khích giảm tiêu thụ điện và nước”.
Nhân tố 5 gồm các biến: sự khai thác và bảo tồn
tài nguyên du lịch tự nhiên (SDNLBV1), sự khai
thác và bảo tồn tài nguyên du lịch nhân văn
(SDNLBV2), sự chân thực của các yếu tố văn hóa
(SDNLBV3). Nhân tố này được đặt tên là “Sử
dụng nguồn lực một cách bền vững”.
Nhân tố 6 gồm các biến: sự đa dạng của văn hóa
vật thể (DTĐD3), sự đa dạng của văn hóa phi vật
thể (DTĐD4). Nhân tố này được đặt tên là “Sự đa
dạng văn hóa”.
Nhân tố 7 bao gồm các biến: tình trạng rác thải
bừa bãi ở khu/điểm du lịch (GCT & TT2), sự quy
định về hành vi ứng xử của người dân địa phương
nhằm nâng cao vị thế hình ảnh của khu/điểm du
lịch và quyền lợi của du khách (TTDLTN5). Nhân
tố này được đặt tên “Quản lý rác thải và hoạt động
thay đổi hành vi của người dân địa phương”.
Nhân tố 8 gồm các biến: sự đa dạng hệ sinh thái
tự nhiên điển hình (DTĐD1), sự đa dạng các loài
động và thực vật (DTĐD2). Nhân tố này được đặt
tên là “Sự đa dạng thiên nhiên”.
Để khẳng định các nhân tố thực sự ảnh hưởng và
cường độ ảnh hưởng của các nhân tố đối với mức
độ đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững của
tỉnh An Giang, phân tích hồi quy tuyến tính đa
biến được sử dụng. Kết quả phân tích cho thấy, dữ
liệu thích hợp cho phân tích hồi quy bởi nó thỏa
mãn 3 điều kiện: R2 hiệu chỉnh = 0,62, giá trị Sig.
của phân tích phương sai = 0,000, VIF của các
nhân tố < 2.
Bảng hệ số (Bảng 2) cho thấy, có 7 nhân tố ảnh
hưởng đến mức độ đáp ứng các nguyên tắc du lịch
bền vững của tỉnh An Giang là: Nhân tố 1 (“Bảo
vệ môi trường, sự đầu tư cơ sở hạ tầng, sự tham
gia và hưởng lợi của người dân địa phương,
những hoạt động thay đổi hành vi của du khách”),
Nhân tố 2 (“Hỗ trợ kinh tế địa phương và sự trung
thực trong quảng bá hình ảnh điểm đến”), Nhân tố
3 (“Đào tạo nhân viên”), Nhân tố 5 (“Sử dụng
nguồn lực một cách bền vững”), Nhân tố 6 (“Sự
đa dạng văn hóa”), Nhân tố 7 (“Quản lý rác thải
và hoạt động thay đổi hành vi của người dân địa
phương”), Nhân tố 8 (“Sự đa dạng thiên nhiên”).
AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 18 – 29
25
Bảng 2: Hệ số (n = 221)
Mô hình
Hệ số chưa chuẩn hóa Hệ số chuẩn hóa
t Sig. VIF
B Std.Error Beta
1 Hằng số 0,014 0,044 0,322 0.748
Nhân tố 1 0,365 0,049 0,344 7,487 0,000 1,05
Nhân tố 2 0,439 0,044 0,446 9,933 0,000 1,00
Nhân tố 3 0,348 0,046 0,344 7,541 0,000 1,03
Nhân tố 5 0,279 0,049 0,263 5,703 0,000 1,05
Nhân tố 6 0,174 0,045 0,174 3,854 0,000 1,01
Nhân tố 7 0,215 0,45 0,214 4,759 0,000 1,00
Nhân tố 8 0,190 0,046 0,185 4,106 0,000 1,00
Nguồn: Kết quả phỏng vấn trực tiếp du khách của nhóm nghiên cứu, 2018
Phương trình hồi quy tuyến tính như sau:
Y = 0,014 + 0,439 F2 + 0,365 F1 + 0,348 F3 + 0,279 F5 + 0,215 F7 + 0,190 F8 + 0,174 F6
Nhân tố 2 (F2) có hệ số là 0,439 và quan hệ cùng
chiều với sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền
vững của tỉnh An Giang. Khi du khách đánh giá
nhân tố “Hỗ trợ kinh tế địa phương và sự trung
thực trong quảng bá hình ảnh điểm đến” tăng
thêm 1 điểm thì sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch
bền vững ở địa bàn nghiên cứu tăng thêm 0,439
điểm, tương ứng với hệ số tương quan chưa chuẩn
hóa là 0,439.
Nhân tố 1 (F1) có hệ số là 0,365 và quan hệ cùng
chiều với sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền
vững của tỉnh An Giang. Khi du khách đánh giá
nhân tố “Bảo vệ môi trường, sự đầu tư cơ sở hạ
tầng, sự tham gia và hưởng lợi của người dân địa
phương, những hoạt động thay đổi hành vi của du
khách” tăng thêm 1 điểm thì sự đáp ứng các
nguyên tắc du lịch bền vững ở địa bàn nghiên cứu
tăng thêm 0,365 điểm, tương ứng với hệ số tương
quan chưa chuẩn hóa là 0,365.
Nhân tố 3 (F3) có hệ số là 0,348 và quan hệ cùng
chiều với sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền
vững tỉnh An Giang. Khi du khách đánh giá nhân
tố “Đào tạo nhân viên” tăng thêm 1 điểm thì sự
đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững ở địa
bàn nghiên cứu tăng thêm 0,348 điểm, tương ứng
với hệ số tương quan chưa chuẩn hóa là 0,348.
Nhân tố 5 (F5) có hệ số là 0,279 và quan hệ cùng
chiều với sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền
vững của tỉnh An Giang. Khi du khách đánh giá
nhân tố “Sử dụng nguồn lực một cách bền vững”
tăng thêm 1 điểm thì sự đáp ứng các nguyên tắc
du lịch bền vững ở địa bàn nghiên cứu tăng thêm
0,279 điểm, tương ứng với hệ số tương quan chưa
chuẩn hóa là 0,279.
Nhân tố 7 (F7) có hệ số là 0,215 và quan hệ cùng
chiều với sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền
vững của tỉnh An Giang. Khi du khách đánh giá
nhân tố “Quản lý rác thải và hoạt động thay đổi
hành vi của người dân địa phương” tăng thêm 1
điểm thì sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền
vững ở địa bàn nghiên cứu tăng thêm 0,215 điểm,
tương ứng với hệ số tương quan chưa chuẩn hóa
là 0,215.
Nhân tố 8 (F8) có hệ số là 0,190 và quan hệ cùng
chiều với sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền
vững tỉnh An Giang. Khi du khách đánh giá nhân
tố “Sự đa dạng thiên nhiên” tăng thêm 1 điểm thì
sự đáp ứng các nguyên tắc của du lịch bền vững ở
địa bàn nghiên cứu tăng thêm 0,190 điểm, tương
AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 18 – 29
26
ứng với hệ số tương quan chưa chuẩn hóa là
0,190.
Nhân tố 6 (F6) có hệ số là 0,174 và quan hệ cùng
chiều với sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền
vững của tỉnh An Giang. Khi du khách đánh giá
nhân tố “Sự đa dạng văn hóa” tăng thêm 1 điểm
thì sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững ở
địa bàn nghiên cứu tăng thêm 0,174 điểm, tương
ứng với hệ số tương quan chưa chuẩn hóa là
0,174.
Tổng hệ số hồi quy chuẩn hóa của nhân tố 1, 2, 3,
5, 6, 7, 8 là 1,97 (Bảng 2). Do đó, nhân tố 2 đóng
góp 22,64%, nhân tố 1 đóng góp 17,47%, nhân tố
3 đóng góp 17,46%, nhân tố 5 đóng góp 13,35%,
nhân tố 7 đóng góp 10,86%, nhân tố 8 đóng góp
9,39%, nhân tố 6 đóng góp 8,83% đối với sự đáp
ứng các nguyên tắc du lịch bền vững của tỉnh An
Giang. Điều này có nghĩa là “Hỗ trợ kinh tế địa
phương và sự trung thực trong quảng bá hình ảnh
điểm đến” đóng vai trò quan trọng nhất đối với sự
đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững của tỉnh
An Giang. Tầm quan trọng của các nhân tố khác
theo thứ tự giảm dần là “Bảo vệ môi trường, sự
đầu tư cơ sở hạ tầng, sự tham gia và hưởng lợi của
người dân địa phương, những hoạt động thay đổi
hành vi của du khách”, “Đào tạo nhân viên”, “Sử
dụng nguồn lực một cách bền vững”, “Quản lý rác
thải và hoạt động thay đổi hành vi của người dân
địa phương”, “Sự đa dạng thiên nhiên”, “Sự đa
dạng văn hóa”.
3.2 Sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền
vững của tỉnh An Giang
Qua cảm nhận của du khách, 7 nhân tố ảnh hưởng
đến sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững
của tỉnh An Giang theo tầm quan trọng giảm dần
là “Hỗ trợ kinh tế địa phương và sự trung thực
trong quảng bá hình ảnh điểm đến”, “Bảo vệ môi
trường, sự đầu tư cơ sở hạ tầng, sự tham gia và
hưởng lợi của người dân địa phương, những hoạt
động thay đổi hành vi của du khách”, “Đào tạo
nhân viên”, “Sử dụng nguồn lực một cách bền
vững”, “Quản lý rác thải và hoạt động thay đổi
hành vi của người dân địa phương”, “Sự đa dạng
thiên nhiên”, “Sự đa dạng văn hóa”.
- Nhân tố “Hỗ trợ kinh tế địa phương và sự
trung thực trong quảng bá hình ảnh điểm đến”
được du khách đánh giá ở mức đáp ứng sự bền
vững (M = 3,79). Các phương diện của nhân tố
cũng được đánh giá ở mức đáp ứng sự bền
vững bao gồm việc sử dụng sản vật địa
phương trong chế biến món ăn (M = 4,00),
xuất xứ địa phương của hàng lưu niệm (M =
3,89), sự tương thích giữa mức độ hấp dẫn của
khu/điểm du lịch với thông tin quảng bá (M =
3,68), sự tham gia cung cấp dịch vụ tham quan
của người dân địa phương (M = 3,60). Trong
nhân tố này, hai khía cạnh được du khách đánh
giá thấp nhất là sự trung thực trong quảng bá
hình ảnh điểm đến và mức độ tham gia của
người dân địa phương trong cung cấp dịch vụ
tham quan.
- Nhân tố “Bảo vệ môi trường, sự đầu tư cơ sở
hạ tầng, sự tham gia và hưởng lợi của người
dân địa phương, những hoạt động thay đổi
hành vi của du khách” được du khách đánh giá
ở mức đáp ứng sự bền vững (M = 3,89). Các
phương diện thuộc nhân tố này cũng được
đánh giá ở mức đáp ứng sự bền vững, chẳng
hạn, sự tham gia bán hàng lưu niệm của người
dân địa phương ở điểm du lịch (M = 4,14), sự
cung cấp dịch vụ ăn uống của người dân địa
phương ở khu/điểm du lịch (M = 4,03), sự bố
trí thùng đựng rác ở mỗi khu/điểm du lịch (M
= 3,99), những quy định về hành vi của du
khách nhằm bảo vệ các yếu tố văn hóa vật thể
và phi vật thể (M = 3,97), những quy định về
hành vi của du khách nhằm bảo vệ môi trường
và xã hội (M = 3,87), khả năng cải thiện sự
hiểu biết của du khách về điểm đến thông qua
sự cung cấp thông tin từ biển thông tin/ấn
phẩm hướng dẫn du lịch ở khu/điểm du lịch
(M = 3,85), sự hưởng lợi từ du lịch của người
dân địa phương (M = 3,82), hệ thống cung cấp
điện (M = 3,80), hệ thống giao thông đường bộ
(M = 3,57). Trong các phương diện này, hệ
AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 18 – 29
27
thống giao thông đường bộ ở tỉnh An Giang
được đánh giá thấp nhất.
- Nhân tố “Đào tạo nhân viên” được du khách
đánh giá ở mức đáp ứng sự bền vững (M =
3,64). Tuy nhiên, bên cạnh nhân viên phục vụ
tham quan (M = 3,80), nhân viên lễ tân (M =
3,72), nhân viên phục vụ ăn uống (M = 3,61)
được đánh giá cao, nhân viên bán hàng chỉ
được du khách đánh giá ở mức không phải đáp
ứng cũng không phải không đáp ứng sự bền
vững (M = 3,42). Để nâng cao mức độ đáp
ứng các nguyên tắc du lịch bền vững, địa
phương cần quan tâm nhiều hơn đối với công
tác đào tạo nhân viên lễ tân, nhân viên phục vụ
ăn uống và nhân viên bán hàng.
- Nhân tố “Sử dụng nguồn lực một cách bền
vững” được du khách đánh giá ở mức đáp ứng
sự bền vững (M = 3,71). Theo đó, tỉnh An
Giang đã khai thác và bảo tồn tài nguyên du
lịch tự nhiên tốt (M = 3,78), khai thác và bảo
tồn tài nguyên du lịch nhân văn tốt (M = 3,74),
các yếu tố văn hóa vẫn còn duy trì được tính
chân thực (M = 3,61). Tuy nhiên, để cải thiện
mức độ đáp ứng các nguyên tắc của du lịch
bền vững, tỉnh cần quan tâm nhiều hơn đối với
các phương diện này.
- Nhân tố “Quản lý rác thải và hoạt động thay
đổi hành vi của người dân địa phương” được
đánh giá ở mức không phải đáp ứng cũng
không phải không đáp ứng sự bền vững (M =
3,32). Theo đó, tỉnh An Giang có những quy
định về hành vi ứng xử của người dân địa
phương nhằm nâng cao vị thế hình ảnh của
khu/điểm du lịch và quyền lợi của du khách
(M = 3,54), tuy nhiên, ở khu/điểm du lịch của
tỉnh vẫn còn tình trạng rác thải bừa bãi (M =
3,10). Để nâng cao mức độ đáp ứng các
nguyên tắc du lịch bền vững, địa phương cần
quan tâm nhiều đối với hai phương diện này.
- Nhân tố “Sự đa dạng thiên nhiên” được du
khách đánh giá ở mức đáp ứng sự bền vững
(M = 3,94). Điều này có nghĩa rằng, tỉnh An
Giang có nhiều hệ sinh thái tự nhiên điển hình
(M = 4,05) và đa dạng các loài động, thực vật
(M = 3,83).
- Nhân tố “Sự đa dạng văn hóa” được du khách
đánh giá ở mức đáp ứng sự bền vững (M =
3,83). Theo đó, tỉnh An Giang có nhiều yếu tố
văn hóa vật thể (M = 3,90) và văn hóa phi vật
thể (M = 3,75).
Như vậy, tỉnh An Giang có sự đáp ứng cao các
nguyên tắc du lịch bền vững theo cảm nhận của
du khách. Điều này được thể hiện qua 6 nhân tố
được đánh giá ở mức đáp ứng và chỉ 1 nhân tố
được đánh giá ở mức chưa đáp ứng sự bền vững.
Mức độ đáp ứng sự bền vững của các nhân tố theo
thứ tự giảm dần là “Sự đa dạng thiên nhiên”, “Bảo
vệ môi trường, sự đầu tư cơ sở hạ tầng, sự tham
gia và hưởng lợi của người dân địa phương,
những hoạt động thay đổi hành vi của du khách”,
“Sự đa dạng văn hóa”, “Hỗ trợ kinh tế địa phương
và sự trung thực trong quảng bá hình ảnh điểm
đến”, “Sử dụng nguồn lực một cách bền vững”,
“Đào tạo nhân viên”. Nhân tố được đánh giá ở
mức chưa đáp ứng sự bền vững là “Quản lý rác
thải và hoạt động thay đổi hành vi của người dân
địa phương”.
4. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Du lịch bền vững có vai trò rất trọng đối với sự
phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và môi trường
của mỗi điểm đến bởi nó có khả năng tạo ra sự tác
động thấp đối với môi trường, xã hội và văn hóa
địa phương; tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho
người dân địa phương; mang lại những trải
nghiệm tích cực cho người dân địa phương, công
ty du lịch và du khách. Để thúc đẩy sự phát triển
du lịch bền vững ở điểm đến, việc tham khảo các
nguyên tắc du lịch bền vững của Tổ chức Tourism
Concern và ứng dụng vào địa bàn quản lý là rất
cần thiết. Tuy nhiên, để thực thi những giải pháp
phát triển du lịch bền vững sát với địa phương nên
thực hiện những nghiên cứu trên cơ sở nội dung
các nguyên tắc du lịch bền vững của tổ chức trên.
Kết quả nghiên cứu ở tỉnh An Giang cho thấy, có
7 nhân tố ảnh hưởng đến sự đáp ứng các nguyên
tắc du lịch bền vững theo tầm quan trọng giảm
AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 18 – 29
28
dần là “Hỗ trợ kinh tế địa phương và sự trung
thực trong quảng bá hình ảnh điểm đến”, “Bảo vệ
môi trường, sự đầu tư cơ sở hạ tầng, sự tham gia
và hưởng lợi của người dân địa phương, những
hoạt động thay đổi hành vi của du khách”, “Đào
tạo nhân viên”, “Sử dụng nguồn lực một cách bền
vững”, “Quản lý rác thải và hoạt động thay đổi
hành vi của người dân địa phương”, “Sự đa dạng
thiên nhiên”, “Sự đa dạng văn hóa”. Tỉnh An
Giang đáp ứng cao các nguyên tắc du lịch bền
vững bởi 6/7 nhân tố được du khách đánh giá ở
mức đáp ứng sự bền vững và 26/28 biến của
những nhân tố được đánh giá ở mức đáp ứng sự
bền vững.
Để ngành du lịch tỉnh An Giang phát triển bền
vững hơn trong tương lai, địa phương cần quan
tâm đến các khuyến nghị sau đây:
(1) Cung cấp đầy đủ thông tin về điểm đến du lịch
nhưng phải đảm bảo tính trung thực nhằm
tránh sự thất vọng của du khách; đảm bảo số
lượng và chất lượng dịch vụ chào bán đúng
như thông tin.
(2) Phát triển du lịch theo hướng cộng đồng nhiều
nhất có thể để cải thiện cơ hội tham gia vào du
lịch của người dân và nâng cao chất lượng
cuộc sống của họ.
(3) Khảo sát, kiểm kê, đánh giá và đẩy mạnh đầu
tư hệ thống giao thông đường bộ kết nối các
điểm du lịch, các điểm tài nguyên có khả năng
hấp dẫn du khách và có thể khai thác phục vụ
du lịch ở tương lai.
(4) Phân loại nhân viên phục vụ du lịch, đánh giá
trình độ chuyên môn và nghiệp vụ du lịch của
từng nhóm nhân viên, tiến hành đào tạo, bồi
dưỡng; cần đặc biệt chú ý đến chất lượng của
nhân viên lễ tân, nhân viên phục vụ ăn uống và
nhân viên bán hàng.
(5) Khai thác tài nguyên du lịch phải đi đôi với
bảo tồn để không làm suy giảm số lượng và
chất lượng các yếu tố hấp dẫn ở điểm đến du
lịch; đảm bảo tính chân thực của văn hóa địa
phương.
(6) Tăng cường các hoạt động tuyên truyền, giáo
dục nâng cao nhận thức và hành vi của người
dân địa phương có lợi cho hình ảnh điểm đến
và đảm bảo quyền lợi cho du khách; đẩy mạnh
công tác bảo vệ môi trường ở các điểm đến du
lịch.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Chính trị. (2017). Nghị quyết về phát triển du
lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn (Số 8-
NQTW). Hà Nội: Ban chấp hành trung ương
Đảng cộng sản Việt Nam.
Daniels, P., Bradshaw, M., Shaw, D. & Sidaway,
J. (2005). An Introduction to Human
Geography. 2 edn. London: Pearson Publisher.
Đinh Phi Hổ. (2012). Phương pháp nghiên cứu
định lượng & Nghiên cứu thực tiễn trong kinh
tế phát triển - nông nghiệp. Thành phố Hồ Chí
Minh: Nhà xuất bản Phương Đông.
Lê Văn Huy., & Trương Trần Trâm Anh. (2012).
Phương pháp nghiên cứu trong Kinh doanh.
Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Tài
chính.
Lê Văn Khoa (Chủ biên). (2009). Môi trường và
phát triển bền vững. Hà Nội: Nhà xuất bản
Giáo dục Việt Nam.
Lu, J. & Nepal, S. K. (2009). Sustainable tourism
research: an analysis of papers published in
the Journal of sustainable tourism. Journal of
sustainable tourism, 1, 5-16.
Niedziolka, I. (2012). Sustainable tourism
development. Regional formation and
development studies, 8), 158-166.
Sirakaya-Turk, E., Uysal, M., Hammitt, W. &
Vaske, J. J. (2011). Research Methods for
Leisure, Recreation and Tourism. Cambridge:
Cambridge University Press.
Lê Văn Thăng (Chủ biên). (2008). Giáo trình Du
lịch và môi trường. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại
học Quốc gia Hà Nội.
Lê Minh Tiến. (2003). Phương pháp thống kê
trong nghiên cứu Xã hội. Thành phố Hồ Chí
Minh: Nhà xuất bản Trẻ.
AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 18 – 29
29
Nguyễn Đình Thọ. (2011). Phương pháp nghiên
cứu khoa học trong kinh doanh. Hà Nội: Nhà
xuất bản Lao động - Xã hội.
Tổ chức Tourism Concern. (1992). Bên kia chân
trời xanh - Các nguyên tắc du lịch bền vững.
Hà Nội: Cục Môi trường tổ chức dịch, chỉnh
biên và xuất bản năm 1998.
Hoàng Trọng., & Chu Nguyễn Mộng Ngọc.
(2008). Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS
(tập 2). Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất
bản Hồng Đức.
Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang. (2017). Chương
trình hành động về phát triển hạ tầng du lịch
tỉnh An Giang giai đoạn 2016-2020, định
hướng đến năm 2025 (Số 59/CTr-UBND). An
Giang: Ủy ban Nhân dân.
Yazdi, S. K. (2012). Sustainable tourism.
American International Journal of Social
Science, 1(1), 50-56.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- su_dap_ung_cac_nguyen_tac_du_lich_ben_vung_cua_tinh_an_giang.pdf