Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản hiện đại

Lời mở đầu chủ nghĩa tư bản với tư cách là một phương thức sản xuất xã hội từ khi ra đời cho đến nay, nó đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển. Mỗ giai đoạn phát triển nó đều dựa trên nền tảng của giai đoạn trước nó, nó vừa kế thừa của giai đoạn trước, vừa là sự vươn lên hoặc phủ định lại giai đoạn trước. Trong quá trình phát triển đó ta đã thấy rằng sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế là một tất yếu khách quan, vai trò của nhà nước ngày càng trở nên quan trọng. Bởi vì, xã hội mới mà chúng ta muốn xây dựng trong chủ nghĩa tư bản là một nhà nước tư sản hiện đại – phải tính đến một cách đầy đủ những đặc điểm mới về số lượng và chất lượng của sự phát triển xã hội hoặc nói rộng hơn của nền văn minh tri thức, phát triển cao nhất về con người tri thức, của những khoa học kỹ thuật hiện đại. Nhưng để đáp ứng và đièu khiển nền kinh tế xã hội mà khoa học kỹ thuật công nghệ ngày càng phát triển, tình hình chính trị thế giới ngày càng phức tạp, bất ổn của chủ nghĩa tư bản hiện đại đó thì nhà nước tư sản hiện đại phải tự đièu chỉnh vai trò của mình trong sự điều tiết nền kinh tế. Sự điều tiết caủ nhà nước tư sản hiện đại đó phải dựa trên những mối tương quan khách quan giữa lực sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự điều tiết kinh tế đó cũng chính là nội dung của Đề án Kinh tế chính trị này. Do trình độ và kiến thức càn hạn chế, trong bài viết này tôi chỉ đề cập đến những vấn đề chính của sự thay đổi trong sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản hiện nay, bài viết chắc không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót, kính mong thầy cô và các bạn góp ý để kiến thức của tôi về vấn đề này được hoàn chỉnh hơn. Đề tài: Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản hiện đại Mục Lục Lời mở đầu Chương Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản 1.Chủ nghĩa tư bản 2.Chủ nghĩa đế quốc 2.1.Chủ nghĩa đế quốc là Chủ nghĩa tư bản độc quyền 2.1.1. Sự hình thành của Chủ nghĩa tư bản độc quyền 2.1.2. Đặc điểm kinh tế cơ bản của Chủ nghĩa tư bản độc quyền 2.2. Chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa ăn bám hay thối nát 2.3.Chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa tư bản giãy chết 3. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước 3.1. Quá trình chuyển biến Chủ nghĩa tư bản độc quyền thành chủ nghĩa độc quyền nhà nước 3.2.Đặc điểm kinh tế của Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước 4. Chủ nghĩa tư bản hiện đại Chương 2 Sự điều tiết của nhà nước Tư sản hiện đại 1.Cơ sở thực tiễn của điều chỉnh kinh tế của nhà nước tư bản hiện đại 1.1Những chỉ tiêu về lượng thể hiện vài trò ngày căng tăng của nhà nước đối với quá trình tái sản xuất Tư bản chủ nghĩa 1.2 Những chi tiêu chất lượng phản ánh điều chỉnh kinh tế cảu nhà nước ngày càng trở thành nhân tố quyết định đối với qúa trình tái sản xuất Tư bản chủ nghĩa 1.3. Những nguyên nhân kinh tế, chính trị, xã hội dẫn đến tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước Tư sản 2.Cơ sở lý luận 2.1.Quan điểm Maxit về vai trò của nhà nước trong Chủ nghĩa tư bản 2.2.Quan điểm Tư sản về vai trò kinh tế của nhà nước trong Chủ nghĩa tư bản hiện đại 3.Mô hình điều tiết của nhà nước Tư sản hiện đại 3.1.Quá trình hình thành hẹ thống điều tiết kinh tế của nhà nước Tư sản hoạt động 3.1.1.Cơ chế thị trường của Chủ nghĩa tư bản hiện đại 3.1.2.Cơ chế dộc quyền trong nền kinh tế thị trường Tư bản chủ nghĩa hiện đại 3.1.3. Mâu thuẫn trong hoạt động của cơ chế thị trường, cơ chế độc quyền là sự xuất hiện hệ thống điều tiết của nhà nước Tư sản 3.2.Hệ thống điều tiết của nhà nước Tư sản hiện đại 3.2.1.Nhiệm vụ của hệ thống điều chỉnh kinh tế của nhà nước Tư sản hiện đại 3.2.2.Bộ máy điều tiết kinh tế của nhà nước Tư sản hiện đại 3.2.3.Hệ thống các công cụ và giải pháp điều tiết kinh tế của nhà nước Tư sản hiện đại 3.3. Mô hình thể chế trong hệ thống điều tiết kinh tế của nhà nước Tư sản hiện đại 4. Những thay đổi trong sự điều tiết kinh tế của nhà nước Tư sản hiện đại 5.Sự áp dụng vào Việt Nam Kết luận Tài liệu tham khảo

doc35 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1807 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản hiện đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế phải phục vụ cho quốc phòng an ninh. 2.Cơ sở lý luận 2.1. Quan điểm maxít về vai trò kinh tế của nhà nước trong chủ nghĩa tư bản Trong tác phẩm “sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học “ F.Ăngghen đã luận giải chức năng xã hội của nhà nước người viết :. . từ trước tới nay các xã hội vận động trong những sự đối lập gai cấp đã dẫn đến nhà nước, nghĩa là một tô chúc của giai cấp bóc lột để duy trì những điều kiện sản xuất bên ngoài của nó. ..nhà nước là đại biểu chính thức của toàn thể xã hội, là sự tổng hợp toàn của thể xã hội thành một nghiệp đoàn có thể trông thấy được, nhưng nó chỉ như thế chừng nào nó là nhà nước của bản thân các giai cấp đại biểu trong thời đại của mình, cho toàn thể một xã hội . Xã hội đẻ ra một chức năng trung nhất định mà thiếu chúng thì không thể được. ..nhà nước xuất hiện... lực lượng mới xuất hiện có tính độc lập mới này tác động ngược lại những điều kiện và quá trình sản xuất nhờ tính độc lập tương đối của mình “...Qua phân tích của Angghen, ta có thể rút ra tư tưởng quan trọng sau : Nhà nước sinh ra nhằm thực hiện những chức năng xã hội chung, nhưng khi tồn tại là một lực lượng chính trị mới nó không chỉ có được nhờ những lợi ích đặc biệt, mà còn có tính độc lập tương đối trong quan hệ với các lực lượng xã hội , người đã giao trách nhiệm cho nó. Nhờ có tính độc lập tương đối này, nhà nước có khả năng tác động trở lại quá trình sản xuất xã hội. Do lực lượng phát triển mạnh mẽ, quá trình tích tụ và tập trung tư bản đã dạt tới quy mô to lớn, tính xã hội hoá của sản xuất đạt tới trình đôộ cao, trong nền sản xuất diễn ra nhiều quá trình kinh tế xã hội vượt khỏi tầm tay của các nhà tư sản, làm cho nền kinh tế xã hội mất ổn định, lạm phát gia tăng, đồng thời thất nghiệp cũng tăng, buộc nhà nước phải can thiệp sâu vào sự vận của nền kinh tế, điều tiết quá trình kinh tế, ổn định trật tự xã hội 2.2.Quan điểm tư sản về vai trò kinh tế của nhà nước trong chủ nghĩa tư bản hiện đại Khác với nhà lý luận macxít, những người căn nguyên sự tăng cường vai trò kinh tế là sự chín muồi các chức năng kinh tế vi mô của nhà nước tư bản ở các mối quan hệ kinh tế nội tại của quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa. J.M.Key tìmn nó ở “quy luật tâm lý xã hội cơ bản “ tức là ở các mối liên hẹ kinh tế xã hội nói nên bề mặt của quá trình sản xuất trực tiếp và ở thị trường, trong các hành vi hoạt động của các chủ thể kinh tế do quy luật tâm lý chi phối,. trong tác phẩm : ‘ lý thuyết tổng quát về việc làm, lợi tứcvà tiền tệ “. J.Key cho rằng : chủ nghĩa tư bản phát triển đến một giai đoạn nhất định thì cơ chế tự điều chỉnh của thi trường dập tắt khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp, Tai hoạ do khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp đổ lên đầu ngưòi lao động đã thúc đẩy họ nổi dậy lật đổ chế độ tư bản Nguyên nhân đầu tiên của tai hoạ này là sự tăng trưởng của nền làm cho thu nhập tăng nên và cùng với nó là tăng tiêu dùng, nhưng mức tiêu dùng tăng lên khong cùng mức tăng thu nhập. Nguyên nhân thứ hai dẵn đến tình trạng tỏng cầu không đủ là tỷ suất lợi nhuận thấp hơn tỷ suất lợi túc làm cho các nhà tư bản thích duy trì tư bản của mình dưới hình thức tiền tệ.Ông còn cho rằng :Sự vận động của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa có nhạy cảm rất cao đôí với mức lợi tức . Nền kinh tế sẽ gánh chịu hậu quả ngay nếu lợi tức tăng cao, số dư tiết kiệm lớn, đầu tư giảm và thất nghiệp tăng lên, điều đó gây ra nguy cơ bùng nổ xã hội . Muốn cho xã hội ổn định, nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế làm cho nó vận nhịp nhàng và tăng trưỏng theo chiều hướng lành mạnh. Sự can thiệp này phải tác động vào các nhân tố kích thích tổng cầu đầy đủ. Tán thành với quan điểm của J.Keynes về việc nhà nước phải can thiệp sâu vào quá trìnhvận động của nền kinh tế song M.Friedman cho rằng :sự vận động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa có mối quan hệ tương hỗ với sự vận động của khối lượng tiền trong lưu thông. Sở dĩ nền kinh tế lâm vào trạng thái trì trệ hoặc thường xuyên xảy ra các cuộc khủng hoảng và các cú sốc kinh tế là do nhà nước đưa vào lưu thông một khôí lượng tiền quá lớn hoặc qúa nhỏ. Muốn khắc phục những sai lệnh này cần phải vạch rõ mối quan hệ giữa sự cáu thành nhu cầu tièn tệ cần thiết cho lưu thông. M.Friedman nhận xét :nếu trong thực tiễn, nhà nước đưa vào lưu thông một khối lượng tiền tệ lớn hơn khối lượng cần thiết sẽ làm cho thu nhập danh nghĩa tăng cao hơn thu nhập thực tế, do đó sẽ kich lãi suất thị trường tăng cao, làm biến dạng tỷ lệ lãi suất. Từ đó dẫn đến đồng tiền mất giá, tăng tốc độ lạm phát và giá cả. Hệ quả nàykhông chỉ làm xấu đi nhanh điều kiện tái sản xuất xã hội , mà còn lảm mât ổn định xã hội . Mặt khác, ông đưa ra nhận xét :bốn yếu tô tác động trực tiếp đến sự thay đổi của khoối lượng tiền tệ trong lưu thông và có ảnh hưởng trực tiếp sự vận động của nền kinh tế, là mức giá cả hàng hóa, dịch vụ, mức thu nhập thực tế và sản lượng trong nền kinh tế, nó nạn động cùng chiều với khối lượng tiền tệ trong lưu thông và có ý nghĩa quyết định với sự vận động của nền kinh tế. Và hai yếu tố lãi suất thực tế và chỉ số tăng của giá cả, nó vận động ngược chiều. Trái với J.Keynes, người cho rằng nhu cầu tiền tệ có nhạy cảm cao đối với tỷ lệ lãi suất, còn M.Friedman quan niệm nó nhạy cảm cao với nhu càu về hàng hoá và dịch vụ. Nhưng sau M.Friedma, thế giới tư bản thật sự lâm vào khủng hoảng điều chỉnh kinh tế do nền kinh tế dã lâm vào suy thái sâu sắc. Lúc này giai cấp tư sản đã phản ứng gay gắt trước sự bất lực của nhà nước trong việc chèo lái kinh tế và sự phát triển hợp logich của các quan điểm toàn diện thực dụng trong lý luận điều chỉnh kinh tế trên, nhận thấy vấn đề cấp bách này Willam Bolepat đã đựơc đưa ra quan điểm:lý thuyết kỳ vọng trong mô hình kinh tế macrô, ông dã phát triển quan điểm này tư Thomas Sargent và Neil Wallance.Các ông cho rằng, các hoạch định của và thực hịên trong nhiều thời kỳ trước đây đều dựa hoàn toàn vào một hướng lý thuyết như;trọng cầu, trọng tiền, trọng cung nên rất cực đoan và không phù hợp với sự vận động thực tế của nền kinh tế, do đó bị thất bại. Lý do của sự thất bại là ở chỗ :mỗi hướng lý thuyết chỉ tập trung đưa ra các giải pháp nhằm vào một mục tiêu. Ví dụ mô hình trọng cầu chỉ nhằm giải quyết những nhiệm vụ ngắn hạn (tình thế ).còn mô hình trọng cung lấy những mục tiêu dài hạn để xác định nhiện vụ cho điều chỉnh kinh tế. Trong thực tế, để nèn kinh tế phát triển ổn định đòi hỏi nhà nước phải có đối sách toàn diện. Hơn nữa, các chủ thể hoạt động trong nền kinh tế thị trường luôn luôn chịu nhiều biến động và rủi ro, họ cần được cung cấp các thông tin kịp thời và chính xác.Trứơc hết các thông tin đầy đủ và chính xác và sự thay đổi của các chính sách của nhà nước đưa ra để điều chỉnh kinh tế. Thứ nữa là những biến động của thị trường và nhà nước ở tầm vĩ mô có thể biết và dự đoán được cũng cần phải thông báo kịp thời cho các chủ thể kinh tế. Vì, đối với các nhà kinh doanh, điều đó sẽ giúp họ đưa ra các quyết định kịp thời để chỉ đạo sản xuất. Còn người tiêu dùng, thông tin đó cũng họ thu xếp việc chi tiêu, mua sắm hợp lý, đặc biệt giúp họ lường trước được những nguy cơ mất việc làm để có những ứng phó kịp thời, Nhà nước, ngoài việc thu nhập thông tin cho các chủ kinh tế biết về hoạt đông kinh tế của mình, cũng càn phải nắm được ý kiến của cấc nha kinh doanh và nguyện vọng kinh tế của nhân dân để ra các quyết định kịp thơi, Đó là các quan hệ kinh tế hài hoà, hợp lý, bảo đảm cho nền kinh tế vận động phát triển và ổn định. Đặc điểm quan trọng nhất trong quá trình tiến triển của tư tửơng kinh tế tư sản về điều chỉnh kinh tế băng nhà nước hiện nay là sự phục hồ và tôn trọng các nguyên tắc tự điều tiết của thi trường, Đó là kết quả không chỉ do quá trình tư duy logích mà còn do kinh nghiệp thực tiễn đau đớn vì mở rộng thái quá sự can thiệp của nhà nước vao quá trình vận động của nền kinh tế, Vấn đề ở đây không phải là việc nhà nước can thiệp vào nền kinh tế nhiều hay ít, tăng cường hay nới lỏng mà là nhà nước can thiệp bằng các biện pháp trực tiếp thì càng làm sấu đi các điều kiện của tái sản xuất xã hội mà khong mang lại hiệu quả tích cực, Chính vì vậy, các lý thuyết hiện đại vè điều chỉnh kinh tế ngày nay đã tạp trung hẳn vào hướng xác định kịp thời các mô hình điều chỉnh kinh tế thícnh hợp và các chính sách kinh tế có hiệu quả khác. 3. Mô hình điều tiết của nhà nước tư sản hiện đại 3.1. Quá trình hình thành hẹ thống điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản 3.1.1. Cơ chế thi trường trong chủ nghĩa tư bản hiện đại Cơ chế thi trường là cơ chế vận động của nền sản xuất hàng hoá, nó ra dời và phát triển cùng nền sản xuất hàng hoá trong lịch sử. Nó đã tạo ra trong nền sản xuất xã hội những hình thức sản xuất, lưu thông hàng hoá ngày một hoàn thiện bằng cách đào thải, loại bỏ những hình thức nỗi thời, yếu kém, gạn lọc lựa chọn và giữa lại những hình thức phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội . Cơ chế thị trường là sự thể hiện của quy luật giá trị là bề mặt của nền sản xuất xã hội . Quy luật này được xem là trung tâm điều chỉnh kinh tế vô hình nhưng đầy quyền lực và hiện thực, trong đó giá cả thị trường được xem là công cụ điều chỉnh kinh tế chủ yếu của cơ chế hti trường. Hoạt động của cơ chế thị truờng diễn ra sau lưng những người sản xuất kinh doanh, song nó lai đưa ra những tín hiệu trện thị trường, làm cho các chủ thể kinh tế kịp thời đưa ra những giải pháp để giảm bớt chi phí sản xuất, nâng cao chát lượng hoặc thay đổi mẫu mã và dịch vụ. Khi quy mô tích tụ và tập trung tư bản trong mỗi chủ thể hoạt động trên thị trường đã đạt tới một mức độ cao thì do nguyên nhân tự phát của cơ chế thi trường vì vậy mà bổ sung vào hệ thống điều chỉnh tái sản xuất xã hội cơ chế điều tiết đốc quỳên tư bản là một khách quan do yêu cầu của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. 3.1.2.Cơ chế độc quyền trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại Ta biêt rằng, khi quá trình tích tụ và tập trung tư bản đạt tới một đôộ cao, thì sở hữu tư bản và sử dụng tư bản tách rời nhau, tạo điều kiện cho tư bản tài chính ra đời và trở thành hình thức phỏ biến trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Đẳc trưng kết cấu độc quyền của tư bản tài chính là tập đoàn kinh tế khổng lồ thông qua chế đọ tham dự tư bản tài chính đã cuốn hút ngày càng nhiều chủ thể kinh tế hoạt động riêng lẻ ở tất các khâu của quá trình tái sản xuất vào guồng máy khống chế của mình. Như vậy độc quyền tư nhân đã thu hẹp và làm giảm bớt tính biệt lập trong hoạt động của các chủ thể thị trường, nhưng lại làm tăng thêm tính ác liệt và sức cạnh tranh len cao hơn và do đó gây ra sự sụp đô vỡ nặng nề hơn, nhanh chóng đẩy nền kinh tế lâm vào khủng hoảng cơ cấu và tình trạng phá sản của các tập đoàn lớn. 3.1.3. Mâu thuẫn trong hoạt động của cơ chế thị trường, cơ chế độc quyền là sự suất hiện hệ thống điều tiết của nhà nước Tư Sản. Trong sự điều tiết kinh tế do có sự điều tiết đồng thời của hai cơ chế : độc quyền và thị trường đã làm cho quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa buộc phải vận động dưới sự khống chế của hai nguyên tắc trái ngược nhau :tự do và độc đoán. Một mặt độc quyền không ngừng bành trướng và mở rộng sự khống chế cảu mình đới với từng mảng rộng của thị trường. Mặ khác cơ chế thọi trường như một cơ chế vận động tự nhiên cucả nền sản xuất hàng hoá, tự mở đường vượt qua các nguyên tắc của độc quyền, thúc đẩy nền sản xuất vận động thoe yêu cầu của các quy luật thị trường. Sự xung đột và mâu thẫun đó không chỉ làm giảm hiệu lực điều chỉnh cuả hai cơ chế, mà còn làm lu mờ đi những dấu hiệu tích cực cuả thị trưòng và làm tăng thêm tính gay go của cạnh tranh, đẩy nền sản xuất tư bản chủ nghĩa vào trạng thái phát triển mất cân đối trầm trọng hơn. Trước thực trạng đó, sự can thiệp của nhà nước vào quá trịnh tái sản xuất tư bản chủ nghĩa là một nhu cầu khách quan nhằm khôi phục lại những mất cân đối, đặc biệt là mặt cân đối có tính cơ cấu, để mở đường cho sức sản xuất phát triển. Nhưng trên giác độ tổng thể :kinh tế, chính trị, xã hội thì độc quyền tư nhân và nhà nước tư bản đã hoà nhập vào nhau tạo thành một khối liên kết chặt chẽ.Đó là sự liên kết sức mạnh của độc quyền với sức mạnh của nhà nước thành một cơ chế thống nhất nhằm làm giàu cho tư bản độc quyền. Nhưng do sự điều tiết của nhà nước chịu áp lực từ nhiều phía, nhiều lực lượng sản xuất do đó nó phải dung hoà được lợi ích của mọi tầng lớp xã hội để bảo đảm cho nền kinh tế phát triển trong điều kiện xã hội ổn định. 3.2. Hệ thống điều tiết của nhà nước Tư sản hiện đại. Hệ thống điều chỉnh kinh tế là tổng thể của những thiết chế của nhà nước được tổ chức chặt chẽ với hệ thống công cụ chính sách có khả năng thực hiện chức năng điều chỉnh đối với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế xã hội . Nó đã hoà nhập một cách hữu cơ vào cơ ché tái sản xuất tư bản chủ nghĩa tồn tại như một bộ phận thúc đẩy kiểm soát và quản lý toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội băng những công cụ :tiền tệ, giá cả kế koạch, tài chính, tín dụng, chứng khoán. 3.2.1Nhiệm vụ của hệ thống điều chỉnh kinh tế của nhà nước tư sản hiện đại Như đã biết, nhiệm vụ kinh tế của nhà nước tư bản hiện đại là đièu chỉnh sự vận động của quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa, thúc dẩy, điều tiết và quản lý kinh tế xã hội. Mặt khác do nền kinh tế dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, nên nhiệm vụ thúc đây nên kinh tế của nhà nước là hỗ trợvà kích thích khu vực kinh tế tư nhân phát triển theo định hướng của mình vào một mục tiêu nhất định, tức là phải có hướng dẫn kiểm soát uốn nắn bằng cả công cụ kinh tế và pháp luật, tức là bằng cả ưu đãi và trừng phạt hay còn gọi là điều chỉnh kinh tế. Do hoạt động trong nền kinh tế thị trường và cơ chế thị trường được chấp nhận như môt cơ cấu hữu cơ của hệ thống điểu chỉnh kinh tế của nhà nước, nên sự điều chỉnh của nhà nước chỉ cần tập trung vào những khâu chính yếu có tính quyết định sự vận động của quá trình tái sản xuất. Do đó điều chỉnh của nhà nước chỉ đặt các chủ thể thị trường trước sự lựa chọn chính yếu còn những lựa chọn bình thường do họ tự sáng tạo, tìm kiếm và nó được thị trường phán xét 3.2.2 Bộ máy điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản hiện đại Hoạt động điều chỉnh được thực hiện bằng những tổ chức hành pháp mà những tổ chức nay được chia làm hai loại. Một là : Cơ quan hành pháp của chính phủ, vửa làm chức năng hành chính vừa làm chức năng điều chỉnh kinh tế ở tầm tổng thể. Hai là: Những cơ quan điều chỉnh kinh tế do luật định, chuyên trách thanh tra, kiểm soát, uốn nắn hành vi kinh tế của tất cả các chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh theo luật. Bộ máy hành pháp ở các nước tư bản phát triển được tổ chức dưới hai hình thức, các cơ quan điều hành quản lý kinh tế truyền thống và mình uan điều tiết kinh tế. Tại Mỹ, các bộ phận trong chính phủ có liên quan trực tiếp đến quản lý kinh tế là bộ tài chính, y tế, giáo dục và phuc lợi lao động, thương mại, nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, nội chính, nhà ở và phát triển đô thị. .vv. Trong kết cấu bộ máy hành pháp ở các nước tư bản phát triển, người ta còn quan sát thấy sự xuất hiện nhanh chóng của các cơ quan điều tiết kinh tế. Kinh phí hoạt động cuả các cơ quan này do chính phủ cung cấp, nhưng kiển soát việc sử dụng kinh phí lại do quốc hội tiến hành. 3.2.3 Hệ thống các công cụ và giải pháp điều tiết kinh tế cuả nhà nước tư sản hiên đại Khu vực sản xuất thuộc sở hữu nhà nước : Trên giác độ kinh tế thì nó là đối tượng diều chỉnh kinh tế, nó thúc đẩy sự vận động của nền kinh tế, nhà nước có thể hướng hoạt động kinh tế vào việc tạo ra môi trường “kinh doanh thuận lợi và cải thiện điều kiện để thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội mà không cần lợi nhuận cao hoạc không mang lại lợi nhuận”. Ví dụ, nhà nước sử dụng nguồn tài chính và các phương tiện đầu tư và xây dựng: đường, cầu, cảng, hệ thống thông tin liên lạc… nhà nước còn mở rộng hoặc thu hẹp khu vực sản xuất của mình để nâng đỡ và hỗ trợ kinh doanh tư nhân, tạo ra một cơ sở ổn định hơn cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt là đối với các nghành dịch vụ quan trọng, như đương sắt, hàng không, bến cảng, truyền thông, nghiên cứu khoa học công nghệ. Nhà nước đầu tư cải tạo kỹ thuật và hiện đại hoá các xí nghiệp của mình để thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế quá lớn phát triển. Bản thân các xí nghiệp nhà nước không lấy lợi nhuận làm mục đích mà là sự cân đối cả về mặt chất lượng và số lượng. Tài chính nhà nước, là một phương tiện và công cụ cơ bản nằm trong tay nhà nước, nắm 30-40% thu nhập quốc dân thông qua chức năng tạo nguồn thu cho ngân sách và phân phối lại thu nhập quốc dân, nhà nước đã tác động vào tất cả các khâu của qua trình tái sản xuất xã hội. Công cụ chủ yếu của tài chính là hệ thống thếu và tài trợ nhà nước. Bằn cách định ra các mục tiêu khác nhau và định ra các khoản tài trợ chủ yếu, nhà nước có thể điêu chỉnh dựoc dong đầu tư tư bản, khoa học –công nghệ, điều hoà thu nhập giưa các tầng lớp dân cư…Tại Mỹ, trong vòng 20 năm (1930-1970) đầu tư của nhà nước chiếm khoảng 30% GDP. Tại Cộng Hoà Liên Bang Đức từ 1950-1976 đầu tư của chính phủ trên 20%GDP. Tiền tệ và tín dụng, trong nền kinh tế thị trương hiện đại, tiền tệ –tín dụng và hệ thống ngân hàng là hệ thần kinh của nền kinh tế, chinh phủ các nước tư bản phát triền nắnm giữ khống chế các ngân hàng trung ương và hệ thống các ngân hàng lớn, đồng thưòi đọc quyền phát hành tiền giấy dã biến hệ thống này thành các phương tiện và cộng cụ để điều chỉnh nền kinh tế. Nhà nước chủ động diều chỉnh khối lượng tiền tệ cần thiết trong lưu thông bằng ba công cụ mạnh :thay đổi tỷ lệ dự trữ pháp định, tỷ lệ triết khấu và hoạt động thị trường mở. Tại Mỹ, hạn mức tiêng giửi dự trữ pháp định do cục dự trữ liên bang (Fed) điều chỉnh, cục này quy định các khoản tiền giửi của ngân hàng thành viên phải được giữ lại tỷ lệ nhất định làm tiền dự trữ. Năm 1975, Fed quy định các khoản tiền giửi của ngân hàng thành viên từ 2-10 triệu phải trích nộp 10% tiền dự trữ pháp định, 10-100 triêu USD thì nộp 13%. Trong hoạt động thị trường mở, ỏ thời kỳ kinh tế tiêu điều và khi cần mở rộng tín dụng, các ngân hàng trung ương, các nước mua chứng khoán có mệnh gía và các chứng chỉ có thể chuyển đổi trên thị tiền tệ, còn khi lạm phat tăng lên hoặc cần thắt chặt tín dụng, ngân hang trung ương các nước bán chứng khoán có mệnh giá trên thị trường tiền tệ để thắt chặt tín dụng và ngăn chặn lạm phát. Giá cả, nhà nước tư bản hiện đại đã sử dụng giá cả như một công cụ chủ yếu trong điều chỉnh kinh tế. Trên bề mặt thị trường, giá cả liên quan chặt chẽ với việc làm và thu nhập của các tầng lớp dân cư, đầu thập niên 80 chính phủ Pháp thi hành chính sách “đồng kết giá cả” triển khai “chính sách ổn định vật giá “, đồng thời quy định mức lương tối thiểu đẻ ổn định thị trường tạo điều kiện cho sản xuất phát triển. .vv.. Kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trương hiện đại các quan hệ kế hoạch hoá lấy quan hệ thị trường làm đối tượng phản ánh, nhưng các qua hệ thi trường đã được nhận thức, uốn nắn cho phù hợp với sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế. Trong quá trình điều tiết nhà nước dã khắc phục sự trì trệ do duy trì những tỷ lệ cân đối theo kế hoạch đã lỗi thời và hạn chế tính tự phát do các lực lượng thị trường tác động. Đặc trưng của chương trình và kế hoạch của nhà nước tư bản là không mang tính pháp lệnh đối với các doanh nghiệp, nhất là đối với các xí nghiệp tư nhân. Nó đã định hứơng kinh doanh và nâng đỡ, hỗ trợ tư bản tư nhân ….coi sáng kiến của tư nhân là nguồn lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế. Các công cụ hành pháp, là cơ quan hành pháp tối cao, nhà nước tư bản ra các văn bản hành chính để tổ chức hướng dãn thi hành đạo luật kinh tế :Luật đầu tư, luật tổ chức xí nghiệp, luật phá sản, luật kiêmr soát lưu thông tiền tệ hàng hoá …Khi cần thiết nhà nước ra sắc lệnh đình chỉ sản xuất, lưu thông, hay một số hàng hoá nào đó, đình chỉ tăng gía ở một số mặt hàng, đình chỉ tăng sản lượng trong một thời gian xác định …Các văn bản pháp lệnh nhà nước cùng với bộ máy tổ chức thi hành thanh tra, giám sát, xử lý tạo thành một hệ thống công cụ hành pháp mạnh đẻ nhà nước điều chỉnh quá trình vận động của nền kinh tế theo mục tiêu định trứoc của mình. Nhưng theo xu hướng hiện đại, nhà nước ít sử dụng các biện pháp hành chính cứng rắn trong điều chỉnh hoạt động kinh tế của mình. Các công cụ kỹ thuật. Cùng với với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, thì hệ thống máy móc thu nhập thông tin phân tích các tình huống, xử lý thông tin và truyền tin kinh tế, nhờ hệ thống công cụ hiện đại này mà hiệu quả điều chỉnh kinh tế của nhà nước tăng cao. Nó cho phép nhà nước nắm và xử lý các tình huống kinh tế kịp thời. Toàn bộ các công cụ điều tiết kinh tế trên đã tạo thành một kết cấu hữu cơ trong hệ thống điều chỉnh kinh tế của nhà nước tư bản hiện đại. 3.3. Mô hình thể chế trong hệ thống điều tiết kinh tế và nhà nước tư sản hiện đại Khi nghiên cứu sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản hiện, ta thấy trong hệ thống điều tiết đó thì mô hình thể chế có những đặc điểm nổi bật sau : Thứ nhất: hạn chế sự quan liêu hóa của nhà nước đã thấm sâu vào đời sống kinh tế, giảm bớt chức năng của nhà nước, thực hiện “giải quan liêu băng cách xem xét lại hẹ thống luật kinh tế, đơn giản hóa các pháp quy và xây dựng những đạo luật mới thích hợp và cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Thứ hai, xác định lại trợ cấp của nhà nước. Quy định về mức trợ cấp hàng năm của nhà nước đã tạo ra những nghành và những xí nghiệp chỉ sống nhờ sự tài trợ của nhà nước dưới hình thức yêu đãi về thuế hoặc chi tiêu trực tiếp của nhà nước. Trợ được thực hiện nhân danh lợi ích quốc gia nhưng thực tế thường là do tác động của các thế lực tư bản. Thứ ba : thực hiện làn sóng tư nhân hóa với quy mô lớn. Điều đó là do nhu cầu củng cố canh tranh của nền kinh tế mới của các cước tư bản. Do tổ chức đời sống kinh tế phù hợp với quy luật thị trường là sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường. Do tính không hiệu quả của khu vực kinh doanh của nhà nước về kinh tế kỹ thuật và kinh tế xã hội cần phải khắc phục. Tuy nhiên nhà nước tư sản hiện đại không chủ trương xóa bỏ khu vực kinh tế nhà nước mà chỉ điều chỉnh, thu hẹp duy trì doanh nghiệp nhà nước ở mức thích hợp đẻ thực hiện các chắc năng kinh tế vĩ mô. Thứ tư: mở cửa thị trường, nới lỏng sự điều tiết của nhà nước có thể dẫn đến sự hạn chế của cạnh tranh thị trường. Trong nền kinh tế của các tbcn phát triển có tới 50% GNP không theo cơ chế thi trường hoặc thị trường chỉ đóng vai trò cục bộ. Thứ năm : xác định lại thứ tự yêu tiên trong chính sách kinh tế, hướng chủ yếu vào sự tăng trưởng lâu dài, tiến bộ khoa học kỹ thuật, giảm chi tiêu ngân sách cho nhu cầu xã hội, chống lạm phát, giảm thếu đẻ khuyến khích kinh doanh, khuyến khích hợp tác giữa kinh doanh tư nhân còn cạnh tranh với nhau Thứ sáu : tăng cường sự phối hợp tác kinh tế giữa các nước trong lĩnh vực có tầm quan trọng đối với ổn định tình hình kinh tế –xã hội. Chú trọng nhiều hơn việc thực hiện các chính sách xã hội nhằm vừa đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất, vừa duy trì tính ổn định chính trị –xã hội. Thứ bảy : điều tiết thị trường sức lao động, cách mạng khoa học công nghệ đã làm thay đổi cơ cấu lao động, nhu cầu về lao động khoa học kỹ thuật ngày càng tăng nhanh,. còn nhu cầu về lao động giản đơn hoặc lao động có kỹ năng thấp giảm xuống, tỷ trọng lao động trong lĩnh vực dịch vụ trong tổng số lao động tăng lên (có nước tới trên 70%), tỷ trọng lao động nông nghiệp và công nghiệp giảm xuống. Tình hình trên đòi hỏi nhà nước phải phát triển giáo dục đào tạo và đào tạo lại, đồng thời phải có chính sách bảo hiểm thất nghiệp. Cách mạng khoa học và công nghệ làm tăng năng suất lao động vượt bậc, nâng cao năng suất và đa dạng hóa sản phẩm dẫn đến tăng giá trị thặng dư tương đối và tỷ suất giá trị thặng dư tăng nên, điều đó biểu hiện bóc lột tăng nên. Đời sống của nguời lao động có kỹ năng tăng làm cho sự phân sự phân cực giàu nghèo trong xã hội tư sản hiện đại nên phức tạp hơn, buộc nhà nước tư sản phải điều tiết thu nhập của dân cư, giảm nhưng bất công xã hội để đảm bảo ổn định chính trị –xã hội. 4.Những thay đổi trong sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản hiện đại. Đó là phương thức điều tiết của nhà nước linh hoạt, mềm dẻo với phạm vi rộng hơn.Đó là sự kết hợp điều tiết tình thế với điều tiết dài hạn, các công cụ và phạm vi điều tiết cảu nhà nước cũng đa dạng và càng mở rộng hơn Điều tiết bằng chương trình và kế hoạch. Thí dụ, chi ngân sách được thực hiện theo các chương trình kinh tế –xã hội trung hạn và dài hạn, như chưong trình phục hồi kinh tế, chương trình phát triển và ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, chương trình cải biến cơ cấu kinh tế, chương trình kết cấu hạ tầng.Mỗi chương trình dài hạn và trung hạn được cụ thể hóa thành các kế hoạch nhằm giải quyết nhiệm vụ kinh tế –xã hội nhất định trong một tài khóa. Mỗi chương trình cụ thể được phân chia thành nhiều dự án, những dự án này được nhà nước ký kết với các doanh nghiệp bằng một hợp và kèm theo hợp đồng là đơn đặt hàng cụ thể cho những loại hàng hóa và dịch vụ nhất định. Điều tiết cơ cấu kinh tế bằng quan hệ thị trường thông qua hợp đồng, đồng thời hỗ trợ những nghành truyền thống cần được duy trì và của những nghành mũi nhọn với công nghệ cao. Điều tiết tiến bộ khoa học và công nghệ bằng tăng chi ngân sách cho nghiên cứu và phát triển, tăng tài trợ cho nghiên cứu và ứng dụng của các công ty tư nhân, đễ xuất hướng yêu tiên nghiên cứu khoa học công nghệ hoặc mua công nghệ nước ngoài. Điều tiết mô hinh phát triển sản xuất. Phát triển sản xuất là sự sống còn của các nước nói chung và các nước tư bản hiện đại nói riêng, quá trình đó đã diễn ra liên tục và luôn có sự thay đổi để phù hợp với sự phát triển của con người, những thành tựu của khoa học kỹ thuật mang lại. Trong quá trình thay đổi này các nước tư bản hiện đại đã : Xây dựng một mô hình phát triển sản xuất tiết kiệm ở tầm vĩ mô. Cách mạng hóa sâu sắc cơ sở vạt chất kỹ thuật công nghệ của nèn sản xuất, đi vào hình thành một nền sản xuất của cả vật chất và phi vật chất mới. Về nguyên tắc với đặc trưng tiêu biểu của nó là tiết kiệm đến mức tôi đa các nguồn của cải, tài nguyên thiên nhiên môi trường đề cao chất lượngk hiệu quả và tôn trọng nhaan cách sáng tạo của con người, để giải quyết các cuộc khủng khoảng kinh tế, sự khan hiếm về tài nguyên và giá cả của chúng ta tăng lên, tiết kiệm lao động và giải quyết thất nghiệp, cải tạo chất lượng cuộc sống và chạy đau vũ trang. Do sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường nhà nước tư bản hiện đại muốn giải quyết được những nhiệm vụ cấp bách của nền kinnh tế thì phải : - Đẩy mạnh tự động hóa tren cơ sở kỹ thuật thông tin điện tử tất cả các lĩnh vưc sản xuất, trao đổi, phân phối lưu thông và đẩy mạnh tư nhân hóa kinnh tế. - Chuyển nền kinh tế sang kiểu tái sản xuất, tiết kiệm các nguồn lực (nguyên liệu, nhiên liệu, năng lương, sử dụng các nguyên liệu thứ cấp, tạo ra các loại vật liệu và năng lượng mới, khai thác tiềm năng sáng tạo của con. - Thực hiện các chương trình xh nhiều mặt nhằm tạo ra bầu không khí xã hội ổn định vì sự phát triển. - Khuyến khích sự sáng tạo của con người, đâud tư phát triển sự sáng tạo của con người, đẩy mạnh cho đầu tư nghiên cứu sự phát triển khoa học kỹ thuật. Thực tiễn đã cho thấy rằng những nghành sản xuất ra đời trên cơ sở những thành tựu của khoa học kỹ thuật đã tiết kiệm sức lao động, đẩy mạnh sử dụng lao động có trình độ cao. Hàm lượng khoa học kỹ thuật đã là một mục tiêu phát triển của ngành nông nghiệp, máy móc hóa sản phẩm nông nghiệp, đẩy cao sự tiết kiệm nhân lực. Đông thời với sự phát triển của khoa học thì quá trình phát triển quản lý đã được dựa chủ yếu vào khả năng sáng tạo của con người. Cách mạng hóa các yếu tố sản xuất và lao động. Với cuộc cách mạng của khoa học và công nghệ thì đối tượng lao động và công cụ lao động đã thay đổi một cách căn bản, nó đã nằm trong một hệ thống bốn khâu ( công cụ, động lực truyền dẫn và điều khiển ). Khâu điều khiển ra đời trên cơ sở ứng dụng kỹ thuật thông tin điện tử đã cách mạng hóa chức năng của con người trong quá trình chế tạo sản phẩm. Người công nhân đã trở thành người tổ chức và điều khiển sự vận hành máy móc theo trương trình định trước của nó. Trong những ngành nghề nguy hiểm, độc hại, kỹ thuật người máy đã được áp dụng rộng rãi và làm cả những chức năng của hệ thần kinh và bộ não. Con người trong guồng máy sản xuất mới phải được đào tạo bồi dưỡng, đổi mới và nâng cao không ngừng trình độ tri thức và nghề nghiệp và cả nhu cầu phát triển nhân cách sáng tạo của con người. Mặt khác sự phát triển của nhu cầu dịch vụ và hàng hóa vì sự ra đời của “ tư tưởng lao động” đã trở thành cài mốc mới đánh dấu con đường đi tới nền kinh tế trí tuệ. Cách mạng hóa trong kết cấu của tái sản xuất dưới góc độ sản phẩm xã hội, ngành, khu vực vùng địa lý và tổ chức sản xuất. Do nhu cầu của xã hội ngày càng tăng, đặc biệt là việc thỏa mãn chất lượng đời sống cao đã đẩy sản phẩm xã hội và sự thay đổi cao, cơ cấu sản phẩm phát triển theo hướng lĩnh vực sản xuất phi vật chất, những ngành phục vụ khu vực công nghiệp và các dịch vụ tư vấn chuyên môn, thiết kế, thông tin, kế toán lập dự án... . chiếm địa vị số một về tốc độ tăng trưởng. Kết cấu tổ chức sản xuất đã được điều chỉnh theo hướng kết hợp các xí nghiệp nhỏ, vừa và lớn theo tỷ lệ phù hợp với qui mô và kết cấu của nhu cầu xã hội cũng như những đặc điểm kinh tế kỹ thuật công nghệ của các ngành kinh tế. Phân bố địa lý nền sản xuất cũng thay đổi theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa ở các vùng lạc hậu trong mỗi nước tư bản phát triển. Không gian kinh tế đã mở rộng dần theo hướng mở rộng lục địa ra biển ( Nhật Bản), khai thác đại dương ( hầu hết các nước tư bản phát triển ), mở ra xây dựng nền sản xuất vũ trụ và khai thác vũ trụ ( Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu ). Điều tiết thị trường sức lao động. Thị trường sức lao động là nơi diễn ra quá trình mua và bán sức lao động, một đặc điểm căn bản của nền kinh tế thị trường nhưng do có tính chât tư bản nên nó đã tiềm ẩn những bất bình đẳng kinh tế rõ rệt, nó diễn ra quyết liệt trong một nước tư bản và giữa các nước tư bản, nó đòi hỏi phải có những điều chỉnh của các nhà nước tư sản hiện đại. Chủ thể điều tiết là các công đoàn, các doanh nghiệp và nhà nước. Sự điều tiết này đã tác động cả phía cung và phía cầu sức lao động, nó liên qua đến lương, thời gian lao động, quy tắc thuê và thải nhân lực, những hình thức bù đắp tai biến trong lao động. Giải điều tiết của sự điều tiết của thị trường lao động cũng có những căn bản thay đổi Linh hoạt hóa việc sử dụng sức lao động. Số lượng người làm việc trong một doanh nghiệp không hoàn toàn cố định và có thể thay đổi nhanh chóng tùy theo nhu cầu chế tạo sản phẩm. Người công nhân phải có khả năng đảm nhận những chức năng khác nhau, đào tạo lại nhanh và có kinh nghiệm chuyên môn. Đội ngũ nhân sự chia làm hai nhóm. Nhóm 1 có trình độ hạt nhân đảm ssự vận hành có hiệu quả, doanhh nghiệp thêu thường xuyên theo những điều kiện chặt chẽ và gồm các chuyen gia quản lý, những nhà thiết kế, kỹ sư và kỹ thuật viên, những công nhân lành nghề và có trình độ cao. Nhóm hai, những người con lại được thêu theo thời hạn, thường xuyên thay đổi về nghề nghiệp caũng như số lượng, tiền trả cho nhóm này phụ thuộc vào cung cầu và điều kiện sống cần thiết của họ. -Cá thể hóa các hợp đồng gí biểu được thực hiện dưới hình thức theo hợp đồng tại xí nghiệp, hợp đồng tạm thời, hợp đồng theo ngày hợp đồng mở. Chia nhỏ doanh nghiệp tùy theo tính chất kinnh tế kỹ thuật và phân bố rộng rãi về mặt lãnh thổ. Sử dụng lao động tại nhà ngày càng được áp dụng rộng rãi, nhất là với những công việc phải sử lý máy tính. Giảm bớt phúc lợi xã hội và tăng tính năng động cho người lao động. Điều tiết hệ thống tín dụng và tư bản tài chính. Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại hệ thống ngân hàng phát triển cao độ có vai trò vô cùng lớn trong đời sống kinh tế xã hội hiện đại đã ảnh hưởng tới sự điều tiết kinh tế của nhà nước. Đặc biệt là ngân hàng trung ương chiếm vị trí đặc biệt trong hệ thống này đã phát huy vai trò một công cụ điều tiết vĩ mô nhanh nhậy của nhà nước. Thỏa mãn nhu cầu. Ngày nay ở tất cả các nước tư bản phát triển nhất dù còn có những người không có cuộc sống đảm bảo bình thường của các nước này, song phải thừa nhận rằng nhu cầu thiết yếu cổ điển (ăn mặc, ở, y tế, đi lại) đã được thỏa mãn vững chắc ngay cả trong những lúc có chấn động kinh tế. Nhu cầu cao hơn đã được đề ra và được áp dụng ngày càng phong phú, đa dạng hơn (nhu cầu nâng cao chất lượng nghỉ ngơi, giải trí và phát triển nhân cách). Đông thời một loạt nhu cầu thứ ba đã xuất hiện, đó là nhu cầu có tính cộng đồng xã hội, nhu cầu đảm bảo môi trường và chất lượng cuộc sống chung. Hạn chế tính vô chính phủ. Do tính vô chính phủ trong quá trình sản xuất các tổ chức kinh tế và lĩnh vực khác nhau đã dẫn đến những cuộc khủng hoảng kinh tế, sự lạm phát gia tăng, sự thất nghiệp và o nhiễm môi trường. Các nước tư bản hiện đại đã sử dụng chính sách chu yếu là tiền tệ, tín dụng ngân sách vừa mềm dẻo và mang tính chấ chỉ dẫn để hạn chế tính vô chính phủ. Nhà nước tư sản đã chỉ ra các mục tiêu cần đạt, giải thích và thuyết phục các thành phần kinh tế thực hiên, nhà nứoc không ra lệnh thực hiện các mục tiêu mà trao ưu đãi ( ví dụ: tài chính, thuế) cho những thành phần kinh tế thực hiên được mục tiêu và trừng phạt những thành phần nào không đạt được mục tiêu. Tăng cường phối hợp chính sách kkinh tế quôc tế. với xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế, các quan hệ kinh tế đã được đặt lên hàng đầu, nhà nước của các nước tư bản hiện đại đã lập ra các khối kinh tế khu vực : hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch, Quỹ tiền tệ quôc tế, ngân hàng thế giới, tổ chức WTO... nhà nước hiệp thương hai bên hoặc nhiều bên trong nhiều vấn đề, phối hợp kinh tế chính sách kinh tế giữa các nước, kip thời làm dịu mâu thuẫn kinh tế giữa các nước. Những quan hệ này bị ràng buộc bởi các quy đinh, các nguyên tắc của các tổ chức quản lý kinh tế ở mức độ nhất định, chịu sự can thiệp và điều tiết chung của các nước. Do hòa bình ổn định và phát triển đã trở thành xu thế chính của thời đại ngày nay, mối liên hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước và các khu vực trên thế giới không ngừng tăng lên. số lượng các tổ chức quôc tế không ngừng tăng lên, nó co ảnh hưởng sâu sắc đến quan hệ kinh tế quốc tế của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Các nước tư bản hiện đại đã phải điều chỉnh những quan hệ này để chiếm giữ vị trí khống chế thị truờng thế giới. Hiện nay do sự phát triển mạnh mẽ kinh tế của các khu vực Đông âu, Đông á, Bắc mỹ, tình hình kinh tế trên thế giới đã phát triển theo cu hướng cân băng và ổn định. Cùng với sự cạnh tranh và cách mạng của khoa học kĩ thuật đã đẩy các nước tư bản phát triển vào một cuộc chạy đua mới, mức độ phụ thuộc vào bên ngoài và phụ thuộc lẫn nhau ngày càng cao. Hơn nữa vấn đề nổi cộm của toàn thế giớ hiện nay là “vấn đề về môi trừong” và “ không gian kinh tế hòa bình và ổn định” các nước tư bản hiện đại đã có khuynh hướng phối hợp chiến lược cùng nhau giải quyết những vấn để cuả môi trường và kinh tế. Các quy ước về môi trưòng đã làm cho cho sự phát triển về kinh tế của các nước phải chịu sự hạn chế nhất định. Như vậy cạnh tranh vầ hợp tác là khuynh hướng giữa các nước tư bản phát triển, khi mà sự phát triển của khoa học kỹ thuật –công nghệ được đặt nên hàng đầu thì việc trao đổi sản phẩm hàm lượng chế biến cvà khoa học cao là yêu tiên hàng đầu trong sự điều tiết tư sản, đầu tư trực tiếp đẩy mạnh như một công cụ lao động quốc tế, quan hệ tài chính tiền tệ quốc tế trở thành mộtn hình thái quan hệ kinh tế gắn chặt với các quan hệ nội như một tổng thể hợp tác và cạnh tranhh khoa học công nghệ. Những quan hệ song phương và đa phương và đa phương có chiều hướng phát triển sông song với các quan hệ toàn cầu. Song song với những quan hệ kinh tế quốc tế thì nhưẽng quan hệ về chính trị quân sự cũng đang là một mục tiêu quan trọng của các nước đang phát triển, với tình hình chính trị kinh tế đang bất ổn định, sự xuất hiện của những tổ chứcc khủng bố, cùng với nó là sự tranh đua vũ trang thì những hoạt động quân sự đã trở thành quốc tế hoá quân sự. Cấc nước tư sản đã đảy cao hợp tác về quân sự, đẩy mạnh sự phát triển cảu các tổ chức công nghiệp quân sự, đodngf thời gắn chắt nó với hoạt động của các tổ chức độc quyền sản xuất dân dụng, đa dạng hoá các hoạt động sản xuất hướng vào khu vực sản xuất dân sư. Một chủ thể khác của nền kinh tế cần phải có sự điều tiết của nhà nước đó là các tổ chức tư nhân. Nó phát triển mạnh, quy mô của chungs lớn hơn trước rất nhiều, hoạt động kinh doanh của chúng đã vượt qua giới hạn của nghành nghề quốc gia, phổ biến thành các công ty xuyên quốc gia. Các tổ chức xuyên quốc gia ngày càng phát triển và có ảnh hưởng chi phối các quan hệ kinh tế, chính trị quốc tế và những hoạt động kinh tế của các quốc gia. Theo số liệu chưa đầy đủ hiện nay có khoang 200 công ty kiểu này với 33 triệu lao đọng làm thêu, kiểm soát 40%sản lượng công nghiệp thế giới tư bản, 60% ngoại thương. Khi sự phát triển của các tổ chức tư nhân là sự phát triển cảu các tổ chức xuyên quốcc gia, nó luôn càn sự điều tiết của nhà nước thì quá trinh phát triển của lao động xã hội cũng là một vấn đè quan trọng cần có sự điều tiết của nhà nước tư sản –các nước tư sản nói riêng và toàn thế giới nói chung phải tổ chức phân lao động quốc tế, hình thnàh lực lượng sản xuất quốc tế và quan hệ sản xuất quốc tế. Theo xu hướng của khoa học kỹ thuật hiện đại thì các tư bản hiện đại đã ra sức chiếm lĩnh những vị trí then chốt, những khâu quyết định trong quá trinh sản xuất của cải vật chất (phi vật chất và vật chất ) đưa vào các lợi thế của nước mình. Đa dạng hoá và đa phương hoá được áp dụng phổ biến để nâng cao trình đọ chuyên môn hoá và hợp tác hoá. Trong quan hệ với ccs nước kém phát triển, các nước tư bản chủ nghĩa đang chuyển từ chính sách tước đoạt cượp bóc, kiềm chế các nước này trong vùng lạc hậu sdang chính sách thức đẩy sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa phụ thuộc ở các nước này, tạo ra ở các này một thị trường rộng lớn, một hệ thống công nghiệp phụ thuộc một môi trường kinh doanh cho họ. Như vậy là những thay đổi trong quá trình điều tiết nền kinh tế cảu các nước tư bản hiện đại đã hướgn vào sự điều tiết gắn liền với yêu cầu mới của quá trình quốc tế hoá kinh tế. Sự phát triển của các hình thức, biện pháp độc quyền nhà nước quốc tế tưng bước phù hợp với yêu cầu phát triển cảu tư bản độc quyền xuyên quốcc gia và các quan hệ kinh tế quốc tế mới. Việc điều tiết độc quyền nhà nước quốc tế sẽ tiến đến một bước phủ định cao hơn dựa trên những nguyên tắc cơ bản cảu tổ chức kinh tế tư bản tư nhân, thích hợp với điều kiện mới của thị trường do tiến bộ mới của khoa học –công nghệ và trình đọ quốc tế hoá sản xuất mang lại và sự tăng cưòng của cơ chế thị trường. 5.Sự áp dụng vào Việt Nam. Sự nghhiệp phát triển kinh tế noi chung là viêcj thực hành đường nối chủ nghĩa tư bản nhà nước nọi riêng ở nước ta phải đặt trọng cục diện chung của thé giới, để nhận thức một cách chính xác đâu là thời cơ, đâu là thách thức. Cuộc cách mạng của khoa học công nghệ đã mang tới những đảo lộn lớn lao trong cơ sở vật chât – kỹ thuât và kiến trúc thượng tầng trong thể chế kinh tế xã hội, trong tư duy kinh tế và chính trị, sự biến đổi này đã diễn ra sâu sắc trong mọi lĩnh vực của đời và nó đã dần khẳng định -đó là sức mạnh cảu thời đại. Sức mạnh này chính là thời cơ nếu như một nền kinh tế kém phát triển biết đi đúng hướng và phát triển nó. Nhưng sức mạnh của thời đại cũng có thể trở thành cơn bão tố vùi dập thảm hại những cái gì đi ngược lại hoặc tự tách mình khỏi xu hướng chung của nền kinh tế khoa học kỹ thuật hiện nay. Với xu thế đối thoại và hợp tác, trong cục diện vừa hợp tác và đấu tranh, đấu tranh để hợp tác, chúng ta phải bình thường hoá mọi mối quan hệvới các nước trước kia là thù địch, mở rộng thuận cho việc “du nhập” chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài, từ các nước phát triển. Nước ta nằm ngày giữa các nước phát triển năng động nhất của thế giới ngày nay là vùng vành đai của Thái Bình Dương, vì vậy nhà nước phải có những chính sách hợp tác khu vực đúng đắn cùng với chính sách quốc tế mềm dẻo đẻ thu hút nguồn đầu tư ngước ngoài. Để thực hiện sự hoà nhạp chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường, thiết lập nhiều mối quan hệ kinh tế với bên ngoài đồng thời là sự thúcc đẩy khoa học công nghệ, để thoát khỏi một nền kinh tế chủ yếu là tự nhiên, tự cung tự cấp hiện vật.Ngoài ra chúng ta phải chuẩn bị sự phát triển kinh tế kết hợp với quốc phòng, nước ta là một nước Xã hội chủ nghĩa luôn có các thế lực thù định. Để hoà nhập nền kinh tế toàn cầu hoá chúng ta phải xây dựng và phát triển một thị trường văn minh. Chúng ta phải xây dựng một nền kinh tế hàng hoá những thành phần định hướng Xã hội chủ nghĩa. Quyền lực thị trường hạn chế được tối đa quyền hành quan niệm và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật đựoc con đương chính trị thiết lập và bảo vệ. Chúng ta thực hiện quá trình chuyển dần một nền kinh tế nông nghiệp sang một nền kinh tế công nghiệp phải phát triển sự phân công xã hội trong nông nghiệp, phải có sự chuyên môn hoá những người sản xuất cá thể, riêng lẻ. Nhà nước đã can thiệp và điều tiết kinh tế, sử dụng những đòn bẩy kinh tế để hạn chế tính tự phát của thị trường. Phát triển kinh tế theo quy luật kinh tế thị trường nhưng khong xem thường va điều chỉnh khuynh hướng thị trường hoá một cách phiến diện. Phát huy mạnh mẽ tiêm năng của các thành phần kinh tế. Tư duy kinh tế mới đã chỉ ra rằng nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại sở dĩ được coi là hiện đại vì dựa trên trình độ lực lượng sản xuất hiện đại. Trong những năm đổi mới, như theo Lenin nói.: Bài học của quá khứ là chúng ta đã không biết “chúng ta là ai” do đó chúng ta đã không phát huy được mọi tiềm năng kinh tế năm trong các thành phần kinh tế phi công hữu hoá, nhưng cũng rơi vào tình thế toàn dân hoá không phát huy đuợc mọi tiềm năng vốn có của nó. Vì vậy mà với xu hướng phát triển nền kinh tế hiện đại chúng ta đã thừa nhận nèn kinh tế nhiều thành phần, nhờ đó mà phát triển sựh phân công và chuyên môn há sản xuất. Tức là trên quan điểm vì kợi ích phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đẩy mạnh cạnh tranh và tạo ra tỷ suất hàng hoá và số lượng hàng hoá ngày càng nhiều. Như vậy thì thành phần kinh tế tư nhân có vị trí đặc biệt quan trọng trong điều kiện nước ta hiện nay. Nhưng chính sự vận đọng của nền kinh tế tư nhân có thể dẫn đến qua hệ tư bản chủ nghĩa và dẫn đén xu hướng thực hành chủ nghĩa tư bản nhà nước. Nhưng chính hinh thức tư bản tư nhân kết hợp với kinh tế quốc doanh đã dẫn đến một vị trí quan trọng kinh tế tư nhan, nhà nước ta cândf đến có chính sách khuyến khích và hỗ trợ cho nèn kinh tế tư nhân phát triển, đồng thời ngăn chặn đựơc sự không lành mạnh của nền kinh tế tư nhân. Biết học tập chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn lịch sử qua trọng trong sự phát triển của xã hội loài ngưòi, suy cho đến cùng là thành tựu của nhân loại không có chủ nghĩa tư bản thì không có chủ nghĩa xã hội. Chính chủ nghĩa tư bản và việc giải quyết những mâu thuẫn cực kỳ gay gắt ấy làm nẩy sinh những ý tưởng về chủ nghĩa xã hội. Những thành tựu tư duy kinh tế mới của chủ nghĩa tư bản khi áp dụng một cách đúng sẽ tạo nên một sự thúc đẩy phát triển kinh tế đối với các nước đang phát triển, và nhất là đối với ta, để quá độ nen chủ nghĩa xã hội cần phải phát triển kinh tế hàng hoá, phát triển mậu dịch đối ngoai tranh thủ vốn của nước ngoài, thu hút kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệp quản lý khoa học, thu hút cao chuyên gia, nhân tài, sử dụng một số quan điểm mô hình và phong phú ttrong lý luạn kinh tế vẫn dược coi là chủ nghĩa tư bản. Lý luận về chủ nghĩa tư bản nhà nước của Lênin cũng chính là một biểu hiện sinh của sự cần thiết phải học chủ nghĩa tư bản. Cần phải quán triệt trong thực tiễn luận điểm của Lênin rằng không thể dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựng trên cơ sở tất cả những bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản đã thu được. Xác định bước đi hiênh thực có hiệu quả. Từ tư duy kinh tế và thực tiễn đã cho thấy rằng phải xuất phát từ xu hưóng kinh tế khách quan là sự phân công lao động quốc tế mới trong một nền sản xuất ngày càng quốc tế hoá, trong một nền kinh tế hàng hoá đang toàn cầu hoá từ tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các quốc gia ngày càng chặt chẽ. Từ thực lực xuất phát của mình kể cả cái thế trong bàn cân chính trị – kinh tế thế giới. Yêu cầu phải đạt tới là phải làm sao tìm ra được chỗ đứng của mình trong trào lưu phát triển kinh tế thể giới. Kết luận Q ua việc nghiên cứu quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản và những đặc trưng kinh tế mới nhất của chủ nghĩa tư bản hiện đại, chúng ta có thể kết luận rằng :chủ nghĩa tư bản hiện đại về bản chất là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, là giai đoạn mới –giai đoạn cao trong lịch sử phát triển của nó. Dưói tác động của lực lượng sản xuất hiện đại, nhà nước kết hợp thường xuyên hơn với tư bản độc quyền thành bộ máy thống nhất điều tiết kinh tế xã hội. Bằng một hệ thống các biện pháp kinh tế, chính trị, luật pháp, nhà nước can thiệp vào mọi nghành kinh tế, mọi lĩnh vực tái sản xuất xã hội, mọi hoạt động kinh tế trong và ngoài nước. Điều hành toàn bộ đời sống kinh tế xã hội, nhà nước tư sản hiện đại can thiệp, điều tiết toàn bộ đờ sống xã hội nhằm thích ứng với yêu cầu xã hội hoá cao độ của sức sản xuất, thúc đẩy sức sản xuất phát triển, bảo đảm ổn dịnh tình hình kinh tế xã hội, duy trì chủ nghĩa tư bản, chức năng giai cấp và chức xã hội của nhà nước kết hợp chặt chẽ hơn, nhà nước ngày càn thông qua chức năng xã hội để duy trì chức năng giai cấp.Nhà nước đã thực hiên linh hoạt chính sách điều tiết tạo điều kiện cho sự cải tạo nên sản xuất dựa trên việc ứng dụng những biện pháp ảnh hưởng tới sự thay đổi mô hình phát triển, luôn tìm kiếm nhưng biện pháp làm dịu sự mất cân đối mang tính tàn phá của nền kinh tế và những bất bình đẳng xã hội có nguy cơ dẫn đến các chấn động kinh tế –xã hội khó luờng. Mặc dù mang bản chất của chủ nghĩa tư bản nhưng nhà nước tư sản đã dựa vào những mức độ phù hợp tương quan các lực lượng xã hội đương thời. Để đạt được những giới hạn về tự do, bình đẳng, bác ái, dân chủ và nhân quyền. Đây chính là thành quả của sự phát triển kinh tế xã hội của xã hội tư sản. Nhà nước tư sản hiện đại đã có những chính sách và chiến lựơc tạo ra sự cân bằng giữa các lợi ích với giai cấp quyền với các tập đoàn khác nhau, cũng như lợi ích của toàn xã hội. Những quyền của người lao động, của công dân vè kinh tế và chính trị được khẳng định băng luật pháp, nó là công cụ mới, mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh vì sự củng cố và phát triển các quyền này. Vì lợi ích của người lao động, của công dân, làm dịu bớt những mâu thuẫn giai cấp. Mặt khác, đứng trước sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhà nước cũng đã có nhiều thay đỏi trong sự điều tiết kinh tế tư nhân, tín dụng –ngân hàng và phát triển công ty xuyên quốc gia. Các quan hệ kinh tế đều trên nguyên tắc tôn trọng, bình đẳng, hoà bình cùng có lợi. Trên đây là tất cả những gì tôi tìm tòi, nghiên cứu, phân tích về “Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản hiện đại”. Do sự hiểu biết còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu và có thể là sự sai lầm. Vì vậy kính mong Thây-Cô giáo và các bạn để bài viết của tôi được hoàn chỉnh hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn. Tài liệu tham khảo Chủ nghĩa tư bản ngày nay :Tự điều chỉnh kinh tế Tác giả :Đỗ Lộc Diệp-viện khoa học xã hội Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1993 Giáo trình kinh tế học chính trị Mac-Lênin _NXB Chính trị Quốc gia 1999 Harry Shut Chủ nghĩa tư bản những bất ổn tiềm tàng Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh : Tập bài giảng về chủ nghĩa tư bản hiện đại Lênin Chủ nghĩa đế quốc –giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản NXB Tiến Bộ Mac-co-va 1980 tập 27 6.Viện kinh tế thế giới Ngyuên Văn Sang (chủ biên ) Chủ nghĩa tư bản hiện đại _NXB Chính trị quốc gia _Hà Nội _1995 tập 2 Mục Lục Lời mở đầu 3 Chương 1 Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản 4 1.Chủ nghĩa tư bản 4 2.Chủ nghĩa đế quốc 4 2.1.Chủ nghĩa đế quốc là Chủ nghĩa tư bản độc quyền 5 2.1.1. Sự hình thành của Chủ nghĩa tư bản độc quyền 5 2.1.2. Đặc điểm kinh tế cơ bản của Chủ nghĩa tư bản độc quyền 5 2.2. Chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa ăn bám hay thối nát 6 2.3.Chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa tư bản giãy chết 7 3. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước 7 3.1. Quá trình chuyển biến Chủ nghĩa tư bản độc quyền thành chủ nghĩa độc quyền nhà nước 7 3.2.Đặc điểm kinh tế của Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước 8 4. Chủ nghĩa tư bản hiện đại 9 Chương 2 Sự điều tiết của nhà nước Tư sản hiện đại 11 1.Cơ sở thực tiễn của điều chỉnh kinh tế của nhà nước tư bản hiện đại 11 1.1Những chỉ tiêu về lượng thể hiện vài trò ngày căng tăng của nhà nước đối với quá trình tái sản xuất Tư bản chủ nghĩa 11 1.2 Những chi tiêu chất lượng phản ánh điều chỉnh kinh tế cảu nhà nước ngày càng trở thành nhân tố quyết định đối với qúa trình tái sản xuất Tư bản chủ nghĩa 11 1.3. Những nguyên nhân kinh tế, chính trị, xã hội dẫn đến tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước Tư sản 12 2.Cơ sở lý luận 13 2.1.Quan điểm Maxit về vai trò của nhà nước trong Chủ nghĩa tư bản 13 2.2.Quan điểm Tư sản về vai trò kinh tế của nhà nước trong Chủ nghĩa tư bản hiện đại 13 3.Mô hình điều tiết của nhà nước Tư sản hiện đại 15 3.1.Quá trình hình thành hẹ thống điều tiết kinh tế của nhà nước Tư sản hoạt động 15 3.1.1.Cơ chế thị trường của Chủ nghĩa tư bản hiện đại 15 3.1.2.Cơ chế dộc quyền trong nền kinh tế thị trường Tư bản chủ nghĩa hiện đại 16 3.1.3. Mâu thuẫn trong hoạt động của cơ chế thị trường, cơ chế độc quyền là sự xuất hiện hệ thống điều tiết của nhà nước Tư sản 16 3.2.Hệ thống điều tiết của nhà nước Tư sản hiện đại 17 3.2.1.Nhiệm vụ của hệ thống điều chỉnh kinh tế của nhà nước Tư sản hiện đại 17 3.2.2.Bộ máy điều tiết kinh tế của nhà nước Tư sản hiện đại 17 3.2.3.Hệ thống các công cụ và giải pháp điều tiết kinh tế của nhà nước Tư sản hiện đại 17 3.3. Mô hình thể chế trong hệ thống điều tiết kinh tế của nhà nước Tư sản hiện đại 19 4. Những thay đổi trong sự điều tiết kinh tế của nhà nước Tư sản hiện đại 20 5.Sự áp dụng vào Việt Nam 25 Kết luận 27 Tài liệu tham khảo 28

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKC021.Doc
Tài liệu liên quan