Nghiên cứu tính toán và phân tích những chỉ
số thành phần của chỉ số phát triển con người
vùng TDMNBB giai đoạn từ năm 2009 đến năm
2018. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng tốc động
tăng HDI của vùng tương đối thấp và chủ yếu bắt
nguồn từ tăng trưởng chỉ số mức sống. Hơn nữa,
nghiên cứu cũng chỉ ra rằng trong khi xu hướng
tăng trưởng chỉ số giáo dục và chỉ số sức khoẻ có
xu hướng hội tụ và chậm lại thì chỉ số về mức
sống dân cư có xu hướng tăng lên nhưng ở tỷ lệ
thấp. Một trong những nguyên nhân chủ yếu đẫn
đến xu hướng chậm lại chỉ số HDI là do xu thế
chững lại trong tăng trưởng chỉ số giáo dục và y
tế. Ngoài ra, kết quả các chỉ số của vùng
TDNMBB đều thấp hơn khá xa so với mức bình
quân chung của cả Nước. Điều này được lý giải
bởi đây là vùng phát triển kinh tế gặp nhiều khó
khăn lao động chủ yếu là nông nghiệp, điều kiện
hạ tầng còn thấp và tỷ lệ đi học ở các cấp học cao
thấp hơn so với mức bình quân cả Nước. Do đó,
nhằm nâng cao chỉ số phát triển con người,
nghiên cứu gợi ý một số giải pháp như sau: Một
là, cần có nhận thức đúng đắn và sâu sắc về các
chỉ số liên quan đến phát triển con người trong
quá trình định hướng phát triển. Hai là, cần phát
triển sức sản xuất kinh tế trong kinh tế hộ nông
dân, vì phần lớn dân số vùng trung du và miền
núi bắc bộ chủ yếu tập trung phát triển kinh tế
hộ. Do đó, để tăng cường chỉ số về thu nhập, là
chỉ số thấp nhất của vùng cần phát triển kinh tế
hộ nông dân và giảm nghèo phải được tiến hành
đồng thời. Ba là, với mục tiêu nâng cao kinh tế
hộ và nông sản của vùng, Nhà nước cần có bước
đột phát về thị trường tiêu thụ hàng hoá và tăng
cường tính cạnh tranh của hàng hoá địa phương.
Bốn là, Cần có cơ chế khuyến khích và cung cấp
các dịch vụ đào tạo nghề và khuyến khích nâng
cao trình độ giáo dục đặc biệt là giáo dục trên
phổ thông trung học, trực tiếp góp phần nâng cao
chỉ số giáo dục của vùng. Một trong những phát
biểu của Ông Lý Quang Diệu một nhà chính trị
nổi tiếng của Singapore đã gợi mở “Nếu thắng
trong cuộc đua giáo dục, sẽ thắng trong phát
triển kinh tế” [1].
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 263 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự đóng góp của các chỉ số vào HDI của vùng trung du và miền núi Bắc Bộ: Vấn đề và gợi mở, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Chỉ số ISSN: 2525 – 2569 Số 12, tháng 3 năm 2020
Chuyên mục: Khoa học xã hội và hành vi
Trịnh Phước Nguyên, Nguyễn Thị Diễm Hằng, Nguyễn Văn Kiền - Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định
sử dụng gạo hữu cơ của người tiêu dùng Đồng bằng Sông Cửu Long ...................................................... 2
Nguyễn Thị Thùy Trang - Khung phân tích về mối quan hệ của phong cách lãnh đạo trao quyền, động
lực bên trong và sự sáng tạo của nhân viên ................................................................................................ 9
Nguyễn Thị Thúy Linh, Phạm Thị Hạnh Lan - Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn
mới trên địa bàn tỉnh Lào Cai: Kết quả và bài học kinh nghiệm .............................................................. 15
Trần Văn Nguyện, Trần Văn Dũng - Sự đóng góp của các chỉ số vào HDI của vùng Trung du và miền
núi Bắc Bộ: Vấn đề và gợi mở .................................................................................................................. 24
Nguyễn Thị Thanh Thủy - FDI – Nguồn vốn quan trọng thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ
hội nhập ..................................................................................................................................................... 30
Chuyên mục: Quản trị - Quản lý
Hoàng Thị Huệ, Trần Thị Kim Oanh - Cam kết gắn bó chuẩn mực của nhân viên trong các ngân hàng
thương mại cổ phần .................................................................................................................................... 36
Đàm Văn Khanh - Đo lường các nhân tố ảnh hưởng tới ý định hành vi mua thực phẩm sạch của các hộ
gia đình sống ở các chung cư tại thành phố Hà Nội ................................................................................ 43
Trần Thị Kim Anh - Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất - Kinh nghiệm của một số quốc
gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ................................................................................................ 52
Chuyên mục: Tài chính - Ngân hàng
Hà Thị Thanh Nga, Nguyễn Quế Anh - Giải pháp hoàn thiện hoạt động quản trị rủi ro lãi suất tại Ngân
hàng Thương mại Cổ phần Công thương Việt Nam ................................................................................. 58
Mai Thanh Giang - Cơ cấu nguồn vốn của các doanh nghiệp nhựa và bao bì niêm yết trên thị trường
chứng khoán Việt Nam – Thực trạng và giải pháp ................................................................................... 67
Nguyễn Ngọc Lý, Nguyễn Thị Thúy Linh - Phân cấp nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên ............................................................................................................................. 74
Lê Ngọc Nương, Hà Thị Hoa - Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công thương việt Nam - Chi nhánh Sông Công ................................. 83
Nguyễn Thị Linh Trang, Nguyễn Thị Kim Nhung, Chu Thị Phương Thảo - Phát triển cho vay tiêu
dùng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – chi nhánh Thái Nguyên ............ 91
Tạp chí
Kinh tế và Quản trị Kinh doanh
Journal of Economics and Business Administration
Chuyên mục: Khoa học xã hội và hành vi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 12 (2020)
24
SỰ ĐÓNG GÓP CỦA CÁC CHỈ SỐ VÀO HDI CỦA VÙNG
TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI BẮC BỘ: VẤN ĐỀ VÀ GỢI MỞ
Trần Văn Nguyện1, Trần Văn Dũng2
Tóm tắt
Chỉ số phát triển con người (HDI) là một chỉ số thông kê đo lường thành tựu của một quốc gia hay một
vùng lãnh thổ về ba chỉ tiêu là tuổi thọ, giáo dục, và thu nhập bình quân đầu người. Bài viết trình bày
tổng quan về các cách xác định và tính toán các chỉ số trong chỉ số phát triển con người của vùng Trung
du và miền núi Bắc Bộ phù hợp với bộ dữ liệu sẵn có. Đồng thời nghiên cứu tập trung so sánh và đánh
giá mức độ đóng góp của các thành phần vào sự phát triển con người của vùng bao gồm chỉ số sức
khoẻ, chỉ số giáo dục và chỉ số thu nhập. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhìn chung HDI của vùng có
bước tiến rõ rệt, tuy nhiên mức độ đóng góp của thu nhập và giáo dục vào HDI còn rất thấp hơn so với
mức bình quân cả Nước. Bài viết đưa ra một số khuyến nghị cho vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ
trong việc nâng cao chỉ số phát triển con người thông qua tập trung nâng cao trình độ học vấn ở bậc
trung học phổ thông trở lên và mức sống dân cư trong những năm tiếp theo.
Từ khoá: Chỉ số phát triển con người, chỉ số giáo dục, chỉ số sức khoẻ, chỉ số mức sống dân cư, vùng
Trung du và miền núi Bắc Bộ.
CONTRIBUTION OF DETERMINANTS OF HUMAN DEVELOPMENT INDEX
IN NORTHERN MIDLANDS AND MOUNTAINOUSREGION:
ISSUES AND RECOMMENDATIONS
Abstract
The Human Development Index (HDI) is a statistical tool used to measure the achievement of a country
or a territory on three dimensions namely life expectancy, education and per capita income indicators.
This paper presents an overview of how to calculate and measure the human development index of the
Northern Midlands and Mountainous Region in accordance with the available data. Simultaneously, the
study focuses on comparing and assessing the contribution of the dimensions of the human development
index including indicators on health, education and income. The results indicate that this region has
witnessed gradual growth in human development, whereas the contribution of income index and
education index to HDI is still lower compared to the national average. Hence, the research provides
some recommendations for the Northern Midlands and Mountains region in raising the human
development index by improving the number of students attained upper secondary school level and
above and living standards for people in the coming years.
Keywords: Human development index, Education index, Life expectancy index, GNI index, Northern
Midlands and Mountainous region
JEL classification: O; O15; R1.
1. Đặt vấn đề
Để đo lường thành tựu phát triển kinh tế của
một quốc gia hay một vùng, chỉ số phát triển con
người (Human Development Index - HDI) được
tính toán và xuất bản đầu tiên bởi chương trình
phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) và Sen năm
1990 [13] và [4]. Theo đó nguồn nhân lực được
coi là tài sản quý giá nhất của bất kỳ quốc nào và
được đề xuất làm thước đo sự phát triển kinh tế và
sự thịnh vượng của một quốc gia. Hiện nay chỉ số
phát triển con người hay chỉ số nguồn phát triển
nguồn nhân lực (Human Development Index) trở
thành thước đó tiêu chuẩn và phổ biến nhất phản
ánh sự phát triển của một quốc gia hay một vùng
lãnh thổ [5]. HDI được coi là chỉ số toàn diện nhất
nó bao quát ba lĩnh vực bao gồm: Học vấn (giáo
dục), tuổi thọ (y tế) và GDP (kinh tế), đồng thời
cũng được coi là chỉ số phản ánh chất lượng cuộc
sống của cộng đồng. Đồng thời, chỉ số phát triển
con người (HDI) được coi là mục tiêu cuối cùng
của phát triển. Do đó, việc xem xét sự đóng góp
của các chỉ số vào HDI là rất quan trọng để hoạch
định kế hoạch phát triển hiệu quả nhất. Tuy nhiên,
hiện nay việc tính toán các thành phần và HDI của
vùng Trung du và miền núi Bắc bộ vẫn chưa được
tính toán, đồng thời kết quả vẫn còn nhiều tranh
luận hay những nhân tố nào cần được quan tâm
nhằm nâng cao chỉ số phát triển con người của
một vùng. Ngoài, ra một số các nghiên cứu vận
dụng tính toán chỉ số phát triển con người dựa trên
các phương pháp được đề xuất bởi Chương trình
phát triển Liên hợp quốc (UNDP) và Tổng cục
Thống kê (2002) [9], tuy nhiên công cụ trên chủ
yếu được vận dụng để tính toán các chỉ số ở phạm
Chuyên mục: Khoa học xã hội và hành vi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 12 (2020)
25
vi một quốc gia. Có thể kể đến, nghiên cứu của
Nguyễn Thị Mai Hương và Nguyễn Thị Bích
Diệp (2017) [2] trình bày về một số vấn đề trong
HDI của Việt Nam sử dụng nguồn dữ liệu tính
toán sẵn có của UNDP, chỉ ra rằng các chỉ số
thành phần trong HDI vận động không đều qua
các năm và có chiều hướng chững lại. Ngoài ra,
nghiên cứu về mối quan hệ giữa chỉ số phát triển
con người và các vấn đề xã hội đưa ra nhận định
rằng mối quan hệ này là chìa khoá then chốt thúc
đẩy quá trình phát triển kinh tế xã hội trên có sở
số liệu của UNDP [6]. Trong khi đó, việc tính
toán dựa trên số liệu sẵn có gặp nhiều bất cập đặc
biệt trong việc tính toán chỉ số giáo dục cho các
vùng kinh tế.
Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ
(TDMNBB) trong những năm qua có những bước
phát triển mạnh mẽ và đạt được những thành tựu
đáng kể. Cùng với mức tăng trưởng kinh tế vùng
đạt trên 12%/năm, vùng TDMNBB đã thoát khỏi
nhóm có thu nhập thấp [3]. Tuy nhiên, theo
nghiên cứu của Hoàng Bá Thịnh và Đoàn Thị
Thanh Huyền (2018) [7] cả nước có 10 tỉnh có tỷ
lệ nghèo cao nhất thì có đến 8 tỉnh thuộc vùng
TDMNBB. Hơn nữa, tỷ lệ đi học cấp phổ thông
trung học mới chỉ đạt khoảng 38% năm 2018
trong khi tỷ lệ này của cả nước là 41.4%. Do đó,
mức độ đóng góp của các chỉ số về giáo dục và
thu nhập đến HDI cần phải được xem xét để xây
dựng những chính sách phù hợp nhằm góp phần
nâng cao trình độ phát triển kinh tế và xã hội của
vùng TDMNBB nói riêng và của cả Nước nói
chung. Tuy nhiên, hiện tại các công trình nghiên
cứu về mức độ đóng góp của giáo dục và kinh tế
vào HDI ở vùng TDMNBB còn hạn chế. Xuất
phát từ thực tế trên, nghiên cứu này nhằm phân
tích và ước lượng mức độ đóng góp của từng nhân
tố vào HDI của vùng Trung du và miền núi Bắc
bộ (TDMNBB)1 và so sánh với cả Nước. Hơn
nữa, nghiên cứu tổng hợp sự phát triển của các chỉ
số của Vùng nghiên cứu theo các năm đồng thời
đưa ra các khuyến nghị nhằm nâng cao HDI của
vùng trong những năm tiếp theo.
2. Phương pháp xác định HDI và nguồn dữ liệu
2.1. Phương pháp xác định các chỉ số
Phương thức tính toán các chỉ số trong HDI
được sử dụng trong nghiên cứu được đề xuất dựa
trên dữ liệu sẵn có của Việt Nam. Các chỉ số
được xác định theo từng chỉ số như sau:
1Vùng trung du miền núi phía Bắc về mặt hành
chính bao gồm 14 tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai,
Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái
Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Lai Châu, Điện Biên,
Sơn La và Hoà Bình.
Chỉ số giáo dục
Đây được coi là nhân tốt then chốt bởi lẽ giáo
dục vừa là mục tiêu đồng thời cũng là động lực
của quá trình phát triển bền vững. Nâng cao trình
độ giáo dục sẽ góp phần tạo ra nguồn vốn con
người, vốn tổ chức, vốn xã hôi của cộng đồng. Có
rất nhiều các phương thức tính toán chỉ số giáo
dục khác nhau và phụ thuộc vào nguồn dữ liệu và
cách tính toán. Nghiên cứu, vận dụng cách thức
tính toán chỉ số giáo dục trong HDI từ viện khoa
học thống kê Việt Nam thông qua tỷ lệ người lớn
biết chữ và tỷ lệ đi học các cấp giáo dục (xem chi
tiết tại [9]). Cần lưu ý rằng, do bộ dữ liệu sẵn có
chưa đề cập đến tỷ lệ đi học của lao động từ 6 đến
24 tuổi ở bậc đại học và cao đẳng. Ngoài ra, dữ
liệu hiện tại chỉ bao gồm số lượng học sinh học
các cấp tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ
thông theo các vùng và cả Nước. Do đó, để tính
toán chỉ tiêu về tỷ lệ đi học các cấp, nghiên cứu
coi tỷ lệ đi học tiểu học là 100% (theo quy định về
giáo dục Việt Nam là phổ cập cấp tiểu học). Hơn
nữa, để tính toán tỷ lệ đi học trung học cơ sở,
nghiên cứu giả định rằng tỷ lệ đi học tiểu học
(năm thứ n) được coi là tổng số học sinh trung học
cơ sở (năm thứ n +5). Tương tự như tính toán tỷ
lệ đi học trung học phổ thông, đồng thời trong
trường hợp không có năm đối ứng, nghiên cứu sử
dụng dữ liệu năm gốc sát nhất với năm đối ứng để
tính toán. Sau khi tính toán tỷ lệ đi học các cấp,
nghiên cứu sử dụng số bình quân giản đơn để tính
toán tỷ lệ đi học chung. Công thức tính chỉ số giáo
dục do UNDP quy định và theo Viện thống kê
Việt Nam như sau:
𝐼 𝑔𝑖á𝑜 𝑑ụ𝑐 =
2
3
(𝑇ỷ 𝑙ệ 𝑏𝑖ế𝑡 𝑐ℎữ 𝑡ℎự𝑐 𝑡ℎế)
+
1
3
(𝑡ỷ 𝑙ệ đ𝑖 ℎọ𝑐 𝑐á𝑐 𝑐ấ𝑝)
Chỉ số sức khoẻ
Theo tổ chức phát triển Liên hợp quốc, chỉ
số sức khoẻ được đo lường thông qua tuổi thọ
bình quân tính từ lúc mới sinh. Hơn nữa, chỉ số
sức khoẻ được tính toán sử dụng giá trị tuổi thọ
nhỏ nhất là 20 năm kết hợp với giá trị tuổi thọ
lớn nhất là 85 năm làm quyền số. Do đó, phương
thức xác định chỉ số sức khoẻ như sau:
𝐼 𝑠ứ𝑐 𝑘ℎ𝑜ẻ =
𝑇𝑢ổ𝑖 𝑡ℎọ 𝑏ì𝑛ℎ 𝑞𝑢â𝑛 𝑡ℎự𝑐 𝑡ế − 20
85 − 20
Chỉ số mức sống dân cư
Đây là chỉ tiêu đo lường mức sống dân cư
theo giá trị thị trường, theo lý thuyết thì thu nhập
được đo lường thông qua thu nhập bình quân dầu
người một năm được tính toán theo đô la mỹ
(USD) và theo mức giá sức mua tương đương
(PPP). Trong đó, giá trị tối đa của thu nhập là
Chuyên mục: Khoa học xã hội và hành vi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 12 (2020)
26
75000 USD/người/năm và giá trị tối thiểu của
thu nhập là 100 USD/người/năm theo sức mua
tương đương (PPP). Tuy nhiên, do hạn chế về
mặt số liệu, trong nghiên cứu vận dụng tính toán
chỉ số này dựa vào thu nhâp bình quân đầu người
vùng theo giá hiện hành và quy đổi sang USD
dựa vào tỷ giá mua vào và bán ra của
Techcombank ngày 22/9/2019. Phương thức tính
toán chỉ số về thu nhập như sau:
𝐼 𝑚ứ𝑐 𝑠ố𝑛𝑔 =
𝐿𝑛(𝑡ℎ𝑢 𝑛ℎậ𝑝 𝑡ℎự𝑐 𝑡ế) − 𝐿𝑛(100)
𝐿𝑛(75000) − 𝐿𝑛(100)
Chỉ số phát triển con người (HDI)
Sau khi tính toán các chỉ tiêu, chỉ số phát
triển con người (HDI) là gía trị trung bình chỉ số
độ đo (the geometric mean) như sau:
𝐻𝐷𝐼 = (𝐼𝑚ứ𝑐 𝑠ố𝑛𝑔 ∗ 𝐼𝑠ứ𝑐 𝑘ℎ𝑜ẻ ∗ 𝐼𝑔𝑖á𝑜 𝑑ụ𝑐 )
1/3
2.2. Nguồn dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu
Số liệu được sử dụng trong nghiên cứu được
thu thập từ website của Tổng cục thống kê năm
2019. Nghiên cứu sử dụng số liệu hàng năm từ
năm 2009 đến năm 2018 từ Tổng cụ thống kê
[10], [11] và [12]. Bao gồm, tuổi thọ bình quân
đầu người (năm), thu nhập bình quân đầu người
(USD/năm), tỷ lệ biết chữ (%), tỷ lệ đi học cơ sở
(%) và tỷ lệ đi học cấp phổ thông (%) của vùng
TDMNBB và cả Nước. Tuy nhiên, do đặc điểm
bộ dữ liệu sẵn có chỉ số về thu nhập và HDI chỉ
được tính toán hai năm một từ năm 2010. Sau khi
số liệu được thu thập, nghiên cứu sử dụng phương
pháp tính toán như đã trình bày ở phần trên.
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Kết quả tính toán các chỉ số trong HDI
vùng TDMNBB
Kết quả tính toán chỉ số HDI của vùng
Trung du và miền núi bắc bộ và chung cả Nước
được thể hiện qua bảng 1. Kết quả chỉ ra rằng chỉ
số phát triển con người của vùng thấp hơn so với
cả Nước 0,06 điểm năm (2018). Điều này là do
tất cả các chỉ số về giáo dục, sức khoẻ và mức
sống đều thấp hơn so với cả nước. HDI của vùng
mới chỉ đạt ngưỡng HDI trung bình (0,55 –
0,699), do đó để nâng cao chỉ số phát triển con
người trong những năm tới vùng cần tập trung
nâng cao mức sống dân cư và tỷ lệ đi hoc các
cấp. Nhìn chung, vùng TDMNBB đã đạt được
những bước thành công đáng kể trong sự nghiệp
phát triển con người, điểm đáng chú ý là chỉ số
HDI cùa vùng tăng qua các năm. Tuy nhiên, tỷ lệ
tăng giữa các năm còn rất thấp và không đồng
đều từ 0.53 năm 2010 tăng lên 0.68 năm 2018.
Xem xét cụ thể từng chỉ tiêu trong HDI của vùng
TDMNBB: Có thể thấy chỉ số về sức khoẻ đạt
0.78 điểm năm 2018, đây là mức thấp so với mức
bình quân cả Nước. Tuy nhiên, trong ba chỉ số
thành phần, chỉ số về sức khoẻ đóng góp thứ hai
sau chỉ số giáo dục. Hơn nữa, chỉ số sức khoẻ
phản ánh các điều kiện về y tế của vùng. Bên
cạnh đó, những hạn chế về điều kiện y tế, trang
thiết bị y tế hay mức độ an toàn thực phẩm ảnh
hưởng đến tốc độ tăng chỉ số sức khoẻ. Chỉ số
mức sống dân cư, thu nhập bình quân đầu người
của vùng TDMNBB đạt 1270.10 (USD/người/năm)
thấp hơn rất nhiều so với mức bình quân chung
cả Nước. Thực tế này cũng không khó lý giải, vì
điều kiện kinh tế của vùng TDMNBB thuộc vùng
có thu nhập thấp nhất cả Nước. Nền kinh tế chủ
yếu phụ thuộc và nông nghiệp và lao động trong
nông nghiệp chiếm hơn 67%, điều này dẫn đến
tốc độ tăng thu nhập của khu vực rất chậm và
nằm trong mức thấp so với các khu vực khác. Về
chỉ số giáo dục, do tỷ lệ dân số biết chữ cao
(89,7% năm 2018) và tỷ lệ học sinh học các cấp
tăng nhanh trong những năm gần đây, chỉ số về
giáo dục của vùng chiếm tỷ trọng cao nhất trong
HDI của vùng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng phần
lớn trọng số của chỉ số giáo dục bắt nguồn từ tỷ
lệ biết chữ, trong khi đó tỷ lệ người đi học cấp
PTTH của vùng rất thấp mới chỉ đạt khoảng
38,12% năm 2018. Điều này rất đáng quan ngại,
vì chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao chủ
yếu tập trung ở đối tượng tốt nghiệp PTTH trở
lên. Do đó, những năm tiếp theo cần có những
chính sách đẩy mạnh và hỗ trợ học sinh đi học ở
những cấp học cao hơn. Đây là điều kiện tiên
quyết giúp vùng TDMNBB hội nhập và phát
triển kinh tế thành công.
Chuyên mục: Khoa học xã hội và hành vi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 12 (2020)
27
Bảng 1: Kết quả tính toán các chỉ tiêu trong HDI của vùng TDMNBB
Năm
Sức khoẻ Mức sống Giáo dục
HDI
Tuổi
thọ
bình
quân
Chỉ
số
Thu nhập
bình quân
đầu người
(USD/năm)
Chỉ
số
Tỷ lệ biết
chữ (%)
Tỷ lệ
đi học
cơ sở
(%)
Tỷ lệ
đi học
PTTH
(%)
Chỉ
số
2009 70,00 0,77 N/A N/A 88,10 66,28 35,18 0,81 N/A
2010 70,00 0,77 468,20 0,23 88,30 65,75 35,54 0,81 0,53
2011 70,50 0,78 N/A N/A 89,30 67,66 34,81 0,82 N/A
2012 70,30 0,77 650,83 0,28 89,20 70,57 32,19 0,82 0,56
2013 70,40 0,78 N/A N/A 89,50 72,40 31,89 0,82 N/A
2014 70,70 0,78 834,49 0,32 89,00 74,31 32,48 0,82 0,59
2015 70,80 0,78 N/A N/A 89,90 73,29 34,74 0,83 N/A
2016 70,80 0,78 1015,56 0,35 90,00 67,20 36,29 0,83 0,61
2017 71,00 0,78 N/A N/A 89,90 75,52 37,71 0,84 N/A
2018 71,00 0,78 1270,10 0,38 89,70 74,29 38,12 0,83 0,63
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục thống kê năm 2019
Xem xét kỹ hơn xu thế tăng trong các chỉ số
thành phần của HDI, hình 1 trình bày về xu
hướng tăng trưởng các chỉ số của vùng
TDMNBB giai đoạn từ 2010 đến năm 2018. Xét
trong cơ cấu các chỉ số của HDI, trong khi tốc độ
tăng trưởng của chỉ số giáo dục và chỉ số y tế có
xu hướng chậm dần thì và có xu hướng hội tụ,
tốc độ tăng HDI chủ yếu bắt nguồn từ tốc độ tăng
của chỉ số về mức sống dân cư. Đây là dấu hiệu
cho thấy sự tăng trưởng chưa hợp lý và chưa bền
vững của các thành phần trong HDI. Trong khi
chỉ số HDI của vùng thấp thì mức độ đóng góp
của chỉ số giáo dục và chỉ số y tế có xu hướng
hội tụ. Xu hướng tăng trưởng các thành phần
HDI của vùng TDMNBB có cho thấy cả điểm
mạnh và thách thức. Điểm mạnh là vùng
TDMNBB tiệm cận với khả năng tạo lên một
cuộc phát triển về nguồn nhân lực với tốc độ cao
do cả ba chỉ số hiện tại đều chưa cao so với mức
bình quân của cả Nước. Thách thức là vùng
TDMNBB chưa khai thác được triệt để những cơ
hội trong phát triển kinh tế địa phương nhằm tạo
đột phát trong tăng trưởng thu nhập bình quân
đầu người.
Hình 1: Xu hướng và mức độ đóng góp các thành phần vào HDI của vùng TDMNBB
3.2. Xu hướng các thành phần trong HDI của
vùng TDMMBB so với cả Nước
Bảng 2 đưới đây trình bày một số kết quả
phân tích về so sánh các chỉ số về giáo dục, y tế,
mức sống dân cưu và phát triển con người của
vùng TDMNBB so với cả Nước nhằm hiểu rõ
hơn về tình hình cũng như thực trạng về nguồn
nhân lực của vùng trong những năm qua. Nhìn
chung, các chỉ số của vùng TDMNBB đều thấp
hơn so với mức bình quân chung của cả Nước.
Cụ thể, trong khi HDI của cả Nước là 0,69 năm
2018, chỉ số này của vùng TDNMBB chỉ đạt
0.53 0.56
0.59 0.61 0.63
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
0.8
0.9
2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019
Chỉ số sức khoẻ Chỉ số thu nhập Chỉ số giáo dục HDI
Chuyên mục: Khoa học xã hội và hành vi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 12 (2020)
28
0,63 điểm. Xem xét kỹ hơn về các thành phần,
trong khi chỉ số về sức khoẻ và giáo dục tiệm cần
gần với mức bình quân chung của cả Nước, thì
chỉ số về thu nhập có khoảng cách khá lớn giữa
vùng TDMNBB và mức trung bình của cả Nước.
Chỉ số về mức sống thấp có ảnh hưởng rất lớn
đến kết quả về chỉ số phát triển nguồn nhân lực.
Như vậy, qua phân tích ở trên cho thấy rằng tăng
trưởng chỉ số HDI của vùng TDMNBB chủ yếu
bắt nguồn từ tăng trưởng mức sống dân cư. Hơn
nữa, do phần lớn lực lượng lao động ở hầu hết
các tỉnh đều thuộc khu vực nông, lâm nghiệp và
thuỷ sản (hơn 60% lao động trong khu vực nông
nghiệp) và đây được coi là khu vực có NSLĐ
thấp nhất so với các khu vực khác [8]. Do đó,
cần đẩy mạnh công tác đào tạo nhằm nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực để vừa đạt được mục
tiêu nâng cao chỉ số giáo dục, đồng thời tạo cú
hích lớn trong tăng trưởng mức sống đân cư góp
phầm đưa chỉ số HDI của vùng TDMNBB tiệm
cận với mức bình quân chung của cả Nước trong
thời gian tới.
Bảng 2: Kết quả tính toán các thành phần của HDI và so sánh với cả Nước
Vùng Năm
Sức khoẻ Mức sống Giáo dục
HDI
Tuổi
thọ
bình
quân
Chỉ
số
Thu nhập
bình quân
đầu người
(USD/năm)
Chỉ
số
Tỷ lệ
biết
chữ
(%)
Tỷ lệ
đi học
cơ sở
(%)
Tỷ lệ
đi học
PTTH
(%)
Chỉ
số
Trung
du
miền
núi
Bắc bộ
2010 70,00 0,77 468,20 0,23 88,30 65,75 35,54 0,81 0,53
2012 70,30 0,77 650,83 0,28 89,20 70,57 32,19 0,82 0,56
2014 70,70 0,78 834,49 0,32 89,00 74,31 32,48 0,82 0,59
2016 70,80 0,78 1015,56 0,35 90,00 67,20 36,29 0,83 0,61
2018 71,00 0,78 1270,10 0,38 89,70 74,29 38,12 0,83 0,63
Cả
Nước
2010 72,90 0,81 717,57 0,30 93,70 68,59 40,52 0,86 0,59
2012 73,00 0,82 1034,71 0,35 94,70 71,97 38,42 0,87 0,63
2014 73,20 0,82 1364,26 0,39 94,70 74,94 36,79 0,87 0,65
2016 73,40 0,82 1602,76 0,42 95,00 74,03 40,58 0,87 0,67
2018 73,50 0,82 2005,26 0,45 94,80 74,47 41,41 0,87 0,69
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục thống kê năm 2019
4. Kết luận và gợi mở giải pháp
Nghiên cứu tính toán và phân tích những chỉ
số thành phần của chỉ số phát triển con người
vùng TDMNBB giai đoạn từ năm 2009 đến năm
2018. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng tốc động
tăng HDI của vùng tương đối thấp và chủ yếu bắt
nguồn từ tăng trưởng chỉ số mức sống. Hơn nữa,
nghiên cứu cũng chỉ ra rằng trong khi xu hướng
tăng trưởng chỉ số giáo dục và chỉ số sức khoẻ có
xu hướng hội tụ và chậm lại thì chỉ số về mức
sống dân cư có xu hướng tăng lên nhưng ở tỷ lệ
thấp. Một trong những nguyên nhân chủ yếu đẫn
đến xu hướng chậm lại chỉ số HDI là do xu thế
chững lại trong tăng trưởng chỉ số giáo dục và y
tế. Ngoài ra, kết quả các chỉ số của vùng
TDNMBB đều thấp hơn khá xa so với mức bình
quân chung của cả Nước. Điều này được lý giải
bởi đây là vùng phát triển kinh tế gặp nhiều khó
khăn lao động chủ yếu là nông nghiệp, điều kiện
hạ tầng còn thấp và tỷ lệ đi học ở các cấp học cao
thấp hơn so với mức bình quân cả Nước. Do đó,
nhằm nâng cao chỉ số phát triển con người,
nghiên cứu gợi ý một số giải pháp như sau: Một
là, cần có nhận thức đúng đắn và sâu sắc về các
chỉ số liên quan đến phát triển con người trong
quá trình định hướng phát triển. Hai là, cần phát
triển sức sản xuất kinh tế trong kinh tế hộ nông
dân, vì phần lớn dân số vùng trung du và miền
núi bắc bộ chủ yếu tập trung phát triển kinh tế
hộ. Do đó, để tăng cường chỉ số về thu nhập, là
chỉ số thấp nhất của vùng cần phát triển kinh tế
hộ nông dân và giảm nghèo phải được tiến hành
đồng thời. Ba là, với mục tiêu nâng cao kinh tế
hộ và nông sản của vùng, Nhà nước cần có bước
đột phát về thị trường tiêu thụ hàng hoá và tăng
cường tính cạnh tranh của hàng hoá địa phương.
Bốn là, Cần có cơ chế khuyến khích và cung cấp
các dịch vụ đào tạo nghề và khuyến khích nâng
cao trình độ giáo dục đặc biệt là giáo dục trên
phổ thông trung học, trực tiếp góp phần nâng cao
chỉ số giáo dục của vùng. Một trong những phát
biểu của Ông Lý Quang Diệu một nhà chính trị
nổi tiếng của Singapore đã gợi mở “Nếu thắng
trong cuộc đua giáo dục, sẽ thắng trong phát
triển kinh tế” [1].
Chuyên mục: Khoa học xã hội và hành vi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 12 (2020)
29
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Báo dân trí (2015). Lý Quang Diệu: “Nếu thắng trong cuộc đua giáo dục, sẽ thắng trong phát triển
kinh tế”. Xem tại:https://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/ly-quang-dieu-neu-thang-trong-cuoc-dua-
giao-duc-se-thang-trong-phat-trien-kinh-te-1427754383.htm
[2]. Nguyễn Thị Mai Hương và Nguyễn Thị Bích Diệp (2017). Một số vấn đề về phát triển con người ở
Việt Nam, Viện Thống Kê Việt Nam, số 01, tr 28 - 31.
[3]. Trần Quang Huy, Bùi Nữ Hoàng Anh và Trần Văn Nguyện (2019). Thách thức trong tăng trưởng
kinh tế vùng Trung du - Miền núi bắc bộ, Tạp chí Kinh tế và Quản trị Kinh Doanh, số 10, trang 14 - 24.
[4]. Sen A. Development as capabilities expansion. In: Anonymous, editor. Human development and the
inter-national development strategy for the 1990s. London: Macmillan; 1990. p. 41e58.
[5]. Shah, S. (2016). Determinants of human development index: A cross-country empirical analysis.
Munich Personal RePEc Archieve.Xem tại: https://mpra.ub.uni-muenchen.de/73759/
[6]. Tạp chí tài chính (2017). Mối quan hệ giữa chỉ số phát triển con người và giải quyết các vấn đề xã
hội, số 2. Xem tại:
nguoi-va-giai-quyet-cac-van-de-xa-hoi-125069.html
[7]. Hoàng Bá Thịnh và Đoàn Thị Thanh Huyền (2018). Sự phát triển không đồng đều giữa các vùng
miền ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 02, trang 19-29.
[8]. Tuấn Tú (2011). Quy trình tính chỉ số giáo dục trong HDI, Chuyên sang HDI, Viện Khoa Học
Thống Kê. Xem tại:
[9]. Tổng cục Thống kê (2002), Nghiên cứu ứng dụng phương pháp tính chỉ số phát triển con người
(HDI) theo thực trạng số liệu của Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội
[10]. Tổng cục thống kê. (2019a). Thu nhập bình quân đầu người một tháng theo giá hiện hành phân
theo thành thị, nông thôn và phân theo vùng. Xem tại: https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=723
[11]. Tổng cục thống kê. (2019b). Tỷ lệ đi học các cấp theo vùng. Xem tại:
https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=722
[12]. Tổng cục thống kê. (2019c). Các chỉ số về Y tế, Văn hoá và đời sống. Xem tại:
https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=723
[13]. UNDP. Human development report. New York: New York: Oxford University Press for the United
Nations Development Program; 1990. org.
Thông tin tác giả:
1. Trần Văn Nguyện
- - Đơn vị công tác: Khoa Kinh tế - Trường ĐH Kinh tế & QTKD Thái Nguyên;
Khoa Kinh tế và Kinh doanh – Đại học Monash - Australia
- Địa chỉ email: nguyen0241@tueba.edu.vn
2. Trần Văn Dũng
- Đơn vị công tác: Trường ĐH Kinh tế & QTKD
Ngày nhận bài: 02/03/2020
Ngày nhận bản sửa: 20/03/2020
Ngày duyệt đăng: 29/03/2020
Journal of Economics and Business
Administration - TUEBA
100
TABLE OF CONTENTS
ISSN: 2525 – 2569 No. 12, 2020
Trinh Phuoc Nguyen, Nguyen Thi Diem Hang, Nguyen Van Kien - Factors affecting the customers’
intention to buy organic rice at Mekong Deta ............................................................................................ 2
Nguyen Thi Thuy Trang - An analytical framework for the relationship of empowering leadership,
internal motivation and employee creativity ............................................................................................... 9
Nguyen Thi Thuy Linh, Pham Thi Hanh Lan- National target programme on new rural development
in Lao Cai province: Implementation results and lessons ......................................................................... 15
Tran Van Nguyen, Tran Van Dung - Contribution of determinants of human development index in
Northern midlands and Mountainousregion: Issues and recommendations ............................................. 24
Nguyen Thi Thanh Thuy - FDI - An important capital source to promote Vietnam’s economy in
integration period ...................................................................................................................................... 30
Hoang Thi Hue, Tran Thi Kim Oanh - Normative commitment of employees in joint stock commercial
banks ......................................................................................................................................................... 36
Đam Van Khanh - Factors affecting the behavioral intention of cosuming fresh food of apartment
households in Hanoi .................................................................................................................................. 43
Tran Thi Kim Anh - Law on compensation upon land aquisition - Practice of other countries and
lessons for Viet Nam ................................................................................................................................. 52
Ha Thi Thanh Nga, Nguyen Que Anh - Solutions to improve interest rate risk management in the
Vietnam joint stock commercial bank for industry and trade. .................................................................. 58
Mai Thanh Giang - Capital structure of listed plastic and packaging enterprises in stock market
Vietnam - Situation and solutions ............................................................................................................. 67
Nguyen Ngoc Ly, Nguyen Thi Thuy Linh - Decentralization of state budget spending tasks in Thai
Nguyen province ....................................................................................................................................... 74
Le Ngoc Nuong, Ha Thi Hoa - Factors affecting the quality of retail banking services at Vietnam
industrial and commercial joint stock bank - Song Cong branch ............................................................. 83
Nguyen Thi Linh Trang, Nguyen Thi Kim Nhung, Chu Thi Phuong Thao - Development of
consumer loans at Vietnam bank for agriculture and rural development - Thai Nguyen branch ............ 91
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- su_dong_gop_cua_cac_chi_so_vao_hdi_cua_vung_trung_du_va_mien.pdf