KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu sử dụng nẹp vít nhỏ trên 68
bệnh nhân gãy xương gò má tại khoa Tai mũi
họng bệnh viện Chợ Rẫy chúng tôi rút ra một số
kết luận sau:
Gãy phức hợp xương gò má thường gặp ở
nam nhiều hơn nữ
Nguyên nhân thương gặp nhất là do tai nạn
giao thông, đặc biệt là do xe gắn máy.
Nhóm tuổi thường gặp nhất là lứa tuổi
trưởng thành 20-40.
Sử dụng nẹp vít nhỏ trong điều trị gãy
xương gò má là phương pháp tối ưu cố định các
ổ gãy tránh bị di lệch thứ phát sau chỉnh hình.
Làm bằng chất liệu Titanium, nẹp vít nhỏ
này có thể để lại trong cơ thể, không cần lấy ra
và chưa có trường hợp nào phản ứng hay nhiễm
trùng sau mổ do nẹp vít
Trong những trường hợp gãy phức hợp
xương gò má- cung tiếp thì những đường rạch
xuyên kết mạc, hay phối hợp sẹo cũ trên ổ gãy
nếu có, đường rạch rãnh lợi môi hay phối hợp
nâng chỉnh từ ngoài đủ để bộc lộ cho việc nắn
chỉnh. Đường rạch này có kết quả cao về mặt
thẩm mỹ và rất ít hoặc không có biến chứng.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 29 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sử dụng hệ thống nẹp vít nhỏ trong điều trị gãy xương hàm gò má, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 409
SỬ DỤNG HỆ THỐNG NẸP VÍT NHỎ
TRONG ĐIỀU TRỊ GÃY XƯƠNG HÀM GÒ MÁ
Trần Phan Chung Thủy*, Nguyễn Thanh Tùng*
TÓM TẮT
Trong những năm gần đây, việc sử dụng hệ thống nẹp vít nhỏ trong phẫu thuật hàm mặt đã đạt được kết
quả đáng tin cậy.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả phẫu thuật chỉnh hình xương hàm gò má bằng nẹp vít nhỏ.
Đối tượng nghiên cứu: Qua khảo sát 68 trường hợp vỡ xương hàm gò má được phẫu thuật chỉnh hình
xương hàm gò má bằng nẹp vít nhỏ tại khoa tai mũi họng bệnh viện Chợ Rẫy trong 3 năm (1/2009 đến 12/2011)
Thiết kế nghiên cứu: thực nghiệm lâm sàng tiến cứu mô tả
Kết quả: Tuổi trung bình 26 ± 9 tuổi (từ 16-56 tuổi), chủ yếu tập trung trong nhóm từ 20-40 tuổi. Nam
chiếm nhiều hơn nữ, gấp 5 lần nữ. Đa số các trường hợp do nguyên nhân tai nạn giao thông 60/68 chiếm 88,2%.
Không di lệch thứ phát sau phẫu thuật chỉnh hình. Không nhiễm trùng do nẹp vít, không viêm xương, không một
trường hợp nào phải tháo nẹp do không dung nạp.
Kết luận: Phẫu thuật này bước đầu thu được kết quả khả quan.
Từ khóa: Vỡ xương hàm gò má, nẹp vít nhỏ.
ABSTRACT
USING THE MINIPLATE IN ZYGOMATICO-MAXILLARY FRACTURE
Tran Phan Chung Thuy, Nguyen Thanh Tung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 409 - 415
In recent years, using the miniplate in zygomatico-maxillary has good results.
Objective: Evaluate the result of maxillary reconstructive surgery using the miniplate.
Patients: 68 maxillary fractures reconstructed using the miniplate at ENT Department, Cho ray Hospital
from 01/2009 to 12/2011.
Methods: Prospective, descriptive clinical trial.
Results: Mean age 26 ± 9 (16-56), most common age 20-40. Male /Female: 5/1. Most common cause: traffic
accident (60/68 cases, 88.2%). No post-op dislocation. No infection caused by plates, no osteitis, no removal
because of intolerance.
Conclusion: The surgery has good result.
Keywords: zygomatico- maxillary complex fracture, miniplate.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cùng với sự gia tăng của dân số và phương
tiện giao thông ở nước ta đặc biệt ở Thành phố
Hồ Chí Minh nơi có mật độ dân cư đông nhất
trong cả nước và cũng là nơi có số lượng xe gắn
máy lưu hành lớn nhất thì tần xuất chấn thương
vỡ xương hàm gò má ngày càng tăng.
Vỡ xương hàm gò má thường để lại hậu quả
lâu dài về mặt thẩm mỹ và chức năng nếu không
được điều trị tốt. Trước đây, việc sử dụng kỹ
* Khoa Tai-Mũi-Họng - BV Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: TS.BS. Trần Phan Chung Thủy ĐT: 0979917777 Email: thuytpc@hotmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 410
thuật nắn kín đơn thuần để điều trị vỡ xương
hàm gò má và đặt bấc để cố định xương sau khi
nắn chỉnh xương bị gãy là phương pháp nắn
chỉnh thường làm nhưng tỷ lệ di lệch thứ phát
sau nắn chỉnh cao, nhất là ở các trường hợp gãy
phức tạp phức tạp vỡ xương hàm gò má. Di
chứng do đa chấn thương gây biến dạng và mất
chất xương vùng mặt như sụp vùng mũi trán, vỡ
hốc mắt, vỡ sụp xương hàm trên là những bệnh
lý thường gặp. Những bệnh lý này ảnh hưởng
trầm trọng đến chức năng và thẩm mỹ vùng
mặt, kéo theo những tổn thương về tâm lý nặng
nề, làm người bệnh khó hòa nhập với xã hội.
Sự ra đời của nẹp vít nhỏ giúp cố định vững
chắc xương hàm gò má bị gãy vào thập niên
1970, đây là cuộc cách mạng hóa điều trị vỡ
xương hàm gò má. Phẫu thuật viên nhiều khi
phải chọn lựa những đường vào phẫu thuật có
thể bộc lộ được tất cả những đoạn xương gãy
nhằm nắn chỉnh và cố định cứng chắc vỡ xương
hàm gò má bị gãy.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
68 Bệnh nhân vỡ phức tạp xương hàm gò má
1 bên (gãy nhiều mảnh đặc biệt ở vùng bờ ngoài
ổ mắt, thân xương gò má và cung tiếp) được
chọn khi điều trị nội trú tại khoa Tai mũi họng
bệnh viện Chợ Rẫy từ 1/2010 đến 12/2011 thỏa
mãn các điều kiện sau:
Bệnh nhân đã được ổn định về chấn thương
các chuyên khoa có liên quan
Không lệch khớp cắn.
Bệnh nhân phải có đủ sức khỏe để có thể
chịu đựng được cuộc mổ mê.
Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu và
tái khám định kỳ theo lịch hẹn.
Dụng cụ và vật liệu nghiên cứu
Bộ dụng cụ phẫu thuật hàm mặt.
Bộ dụng cụ kết hợp xương.
Bộ dụng cụ sử dụng nẹp vít nhỏ.
Hình 1: Nẹp và vít bằng titanium
Hình 2: Bộ dụng cụ phẫu thuật.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 411
Phương pháp nghiên cứu
* Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu lâm sàng,
phương pháp tiến cứu.
* Lựa chọn bệnh nhân:
Tất cả các trường hợp vỡ xương hàm gò má
thỏa mãn các điều kiện trên được điều trị nội trú
tại khoa Tai mũi họng bệnh viện Chợ Rẫy.
Lập hồ sơ theo dõi: Những bệnh nhân có chỉ
định phẫu thuật điều trị vỡ xương hàm gò má
với kỹ thuật đường rạch bờ ngoài ổ mắt liên tục
đường xuyên kết mạc, phối hợp nắn chỉnh ngoài
hay đường rạch trong miệng phối hợp nếu cần.
Các bệnh nhân này được lập hồ sơ nghiên cứu
theo mẫu và theo dõi đầy đủ theo lịch hẹn.
KẾT QUẢ
Bảng 1: Phân bố bệnh nhân theo độ tuổi
Số trường hợp Tỷ lệ (%)
<20 tuổi 12 17,6
20–40 tuổi 48 70,5
41–60 tuổi 8 11,8
Tuổi trung bình 26 ± 9 tuổi (từ 16 – 56 tuổi),
chủ yếu tập trung trong nhóm từ 20 – 40 tuổi.
Bảng 2: Phân bố bệnh nhân theo giới tính
Giới Số trường hợp Tỷ lệ (%)
Nam 57 83,8
Nữ 11 16,2
Tổng số 68 100
Nam chiếm nhiều hơn nữ, gấp 5 lần nữ.
Bảng 3: Nguyên nhân
Nguyên nhân Số trường hợp Tỷ lệ (%)
Tai nạn giao thông 60 88,2
Tai nạn sinh hoạt 6 8,8
Tai nạn lao động 2 2,9
Đa số các trường hợp do nguyên nhân tai
nạn giao thông 59/67 chiếm 88,1%
Bảng 4: Triệu chứng lâm sàng:
Số trường hợp Tỷ lệ (%)
Sụp tam giác gò má 68 100
Chảy máu mũi 48 70,5
Mất liên tục xương, có điểm
đau chói
68 100
Tràn khí dưới da vùng má, mi
mắt dưới
26 38,2
Giảm hoặc mất cảm giác ở
vùng da
60 88,2
Số trường hợp Tỷ lệ (%)
Chảy máu dưới kết mạc 56 82,3
Song thị 3 4,4
Há miệng hạn chế 42 61,7
Bảng 5: Các tổn thương được ghi nhận trên Xquang
và CTscan
Số trường
hợp
Tỷ lệ (%)
Gãy gờ dưới ổ mắt đơn thuần 8 11,7
Gãy dưới ổ mắt và gờ ngoài 16 23, 5
Gãy dưới ổ mắt, gờ ngoài và cung
gò má mỏm tiếp
26 38,2
Gãy phức tạp (trên 3 mảnh) 15 22,0
Phối hợp vỡ sàn ổ mắt 3 4,41
Bảng 6: Theo dõi sau phẫu thuật chỉnh hình xương
hàm gò má bằng nẹp vít nhỏ:
Số trường hợp Tỷ lệ (%)
Nhiễm trùng 0 0
Tiếp hợp không tốt hay khớp
giả
0 0
Không dung nạp nẹp vít, phải
lấy ra
0 0
Sẹo xấu khóe mắt 1 1,5
Biến chứng mắt 0 0
Giảm hoặc mất cảm giác ở
vùng da
18 26,5
Hình 3: Đường rạch xuyên kết mạc
Hình 4: Khâu bảo vệ kết mạc.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 412
Hình 5: Đặt nẹp vít bờ dưới ổ mắt
Hình 6: Đặt nẹp vít bờ ngoài ổ mắt
BÀN LUẬN
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và
phương tiện giao thông, xuất độ chấn thương vỡ
xương hàm gò má ngàycàng gia tăng.
Đánh giá kết quả nghiên cứu:
- Giới: Theo kết quả nghiên cứu của chúng
tôi, vỡ xương hàm gò má ở nam gấp 5 lần nữ. Tỷ
lệ này phù hợp với nghiên cứu của tác giả Lâm
Hoài Phương(2). Kết quả này cũng phù hợp với
tình hình chấn thương chung vì nam giới
thường là người điều khiển các phương tiện giao
thông. Về mặt tâm lý nam thường chạy xe nhanh
hơn nữ và hay uống rượu.
- Tuổi: Theo nghiên cứu của chúng tôi, lứa
tuổi trung bình 26 ± 9 tuổi, nhỏ nhất là 16 tuổi,
lớn nhất là 56 tuổi, chủ yếu tập trung trong
nhóm từ 20 – 40 tuổi chiếm 70,5 %. Kết quả
nghiên cứu này cho thấy gãy xương gò má
thường gặp ở người trẻ. Đây là lứa tuổi trong độ
tuổi lao động chính, tham gia vào giao thông. Tỷ
lệ này cũng phù hợp với nghiên cứu của nhiều
tác giả khác(16)
- Nguyên nhân gây chấn thương: Trong
nghiên cứu này, tai nạn giao thông thường gặp
nhất chiếm 88,2 %. Số liệu này phù hợp với thực
tế vì xe gắn máy là phương tiện đi lại chủ yếu
của người dân. Kết quả này cho thấy mối nguy
hiểm khi điều khiển các phương tiện giao thông,
đặc biệt là xe gắn máy.
Qua nghiên cứu tài liệu cho thấy ở bất cứ
quốc gia nào trên thế giới, nguyên nhân gây
chấn thương do tai nạn giao thông cũng chiếm
tỷ lệ cao nhất và ở nước ta chủ yếu là do xe gắn
máy(5).
- Phối hợp chẩn đoán lâm sàng và X
quang, chụp cắt lớp điện toán. Tất cả những
bệnh nhân bị vỡ xương hàm gò má đều được
khám lâm sàng tỉ mỉ kết hợp với các X quang:
Water’s hoặc Blondeau, Hirtz, CTscan
multislices có hay không tái tạo không gian ba
chiều. CTscan có tái tạo không gian ba chiều là
một kỹ thuật hiện đại. Nó giúp cho việc khảo
sát toàn bộ xương gò má bị gãy một cách rõ
ràng. Ngày nay chụp Chụp CTscan có tái tạo
không gian ba chiều đang được sử dụng rộng
rãi ở nhiều nước trên thế giới ngay cả những
nước còn nghèo như Việt Nam chúng ta.
Vỡ xương hàm gò má chiếm tỷ lệ cao nhất
trong chấn thương gãy xương mặt. Vị trí chúng
tôi thường gặp và được xếp loại như sau: Gãy gờ
dưới ổ mắt đơn thuần, gãy dưới ổ mắt và gờ
ngoài, gãy dưới ổ mắt, gờ ngoài và cung gò má
mỏm tiếp, gãy phức tạp (trên 3 mảnh), gãy phối
hợp vỡ sàn ổ mắt.
Những bệnh nhân bị vỡ xương hàm gò má
phức tạp cần phải được sử dụng nẹp vít nhỏ để
cố định vững chắc những đoạn xương gãy về
đúng vị trí giải phẫu. Cố định xương bằng nẹp
vít được Duker báo cáo từ năm 1972. Đây tỏ ra là
một phương pháp có nhiều ưu điểm, đảm bảo cố
định vững mảnh gãy, phục hồi cấu trúc giải
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 413
phẫu, dễ thực hiện, nhưng có nhược điểm là tốn
kém. Trong suốt thập kỷ qua, điều trị phẫu thuật
chỉnh hình xương hàm gò má đã đạt được sự
tiến bộ đáng kể. Phương pháp cố định vững
chắc xương gãy bằng nẹp vít nhỏ và sớm thực
hiện chức năng đã thay thế được phương pháp
kết hợp xương bằng chỉ thép(3,11).
- Kỹ thuật chỉnh hình trong điều trị vỡ
xương hàm gò má:
Bệnh nhân nằm ngửa gây mê nội khí quản.
Mở đường vào tiếp cận ổ gãy bằng đường:
qua đường rạch xuyên kết mạc, hay phối hợp
sẹo cũ trên ổ gãy nếu có, đường rạch rãnh lợi
môi hay phối hợp nâng chỉnh từ ngoài:
+ Rạch da khóe mắt ngoài 1cm, bóc tách bộc
lộ tới gờ ngoài ổ mắt. Từ vết rạch bờ khóe mắt
ngoài, bọc lộ ổ gãy mỏm trán gò má của xương
hàm trên, kéo cố định ổ gãy, kết hợp xương bờ
ngoài ổ mắt bằng nẹp vít.
+ Rạch bóc tách kết mạc, bóc tách qua vách ổ
mắt và cơ vòng mi vào đến màng xương của bờ
dưới ổ mắt thấy bờ dưới ổ mắt gãy, rạch màng
xương bộc lộ sàn và bờ dưới ổ mắt, hút hết máu
tụ, bộc lộ ổ gãy.
Sau khi bộc lộ ổ gãy tiến hành kết hợp
xương: dùng nẹp vít nhỏ, cố định tạo hình
những mảnh xương vỡ bờ ngoài ổ mắt, gờ dưới
ổ mắt, ổ gãy giữa xương gò má và mỏm gò má
của xương hàm trên: kết hợp xương bằng nẹp vít
nhỏ những ổ gãy này.
Trường hợp bệnh nhân có vỡ sàn ổ mắt di
lệch nhiều, gây song thị thì chúng tôi phối hợp
tái tạo sàn ổ mắt bằng nẹp sàn ổ mắt.
Người ta đã từng nghĩ rằng cố định xương
bằng một nẹp vít ở khớp trán gò má hay bằng
chỉ thép ở ba điểm gãy của xương gò má đủ để
cố định xương gãy, nhưng theo những nghiên
cứu mới đây cho thấy cách cố định này không
đủ vững do hoạt động của các cơ nhai sẽ làm di
lệch. Cố định xương gò má bằng nẹp vít ở tối
thiểu hai vị trí gãy đã được nhiều tác giả chấp
nhận, thường thì ở khớp trán - gò má và bờ dưới
ổ mắt, vì đường mổ vào ở những vị trí này ít bị
thấy và có thể kết hợp kiểm tra sàn ổ mắt trong
khi mổ. Đây là một ưu điểm của đường rạch
xuyên kết mạc bờ dưới ổ mắt(9).
Để phẫu thuật đạt được hiệu quả tối đa,
chúng tôi kết hợp nắn chỉnh xương hàm gò má
để các ổ gãy di lệch trở về đúng vị trí. Có nhiều
phương pháp và dụng cụ nắn chỉnh khác nhau:
+ Có thể đưa dụng cụ nâng xương xuyên qua
vách mũi xoang, đi vào trong xoang để nắn
xương gò má gãy. Tăng cường cố định thêm
đường gãy mõm gò má xương hàm trên và
xương gò má, và cố định xương hàm bằng ống
Foley với nước muối qua nội soi bằng đường
mũi(10).
+ Đi đường trong miệng, qua ngách tiền đình
dùng cây bóc tách để nắn chỉnh. Sử dụng đường
rạch niêm mạc ngách lợi hàm trên từ khoảng
răng 2 đến răng 6 (Caldwell-Luc), bóc tách và
luồn cây nâng xương lên phía dưới cung tiếp để
nắn chỉnh cung tiếp hay mở của sổ xoang hàm
để nắn chỉnh nguyên khối hàm gò má và bơm
rửa sạch xoang nếu có máu tụ(7).
Nắn chỉnh gián tiếp qua đường da: Hiện nay
thường sử dụng móc loại lớn Ginester xuyên
qua da, luồn dưới thân xương, sau đó kéo nắn.
Điểm mốc đặt móc nằm vuông góc giữa đường
thẳng đứng dọc qua đuôi mắt và đường ngang
qua cánh mũi, dùng móc xuyên qua da ở phía
dưới, luồn phía sau xương gò má rồi dùng tay
nắn ngược chiều theo hướng di lệch của xương
gò má gãy.
Gần đây một số tác giả đề nghị sử dụng nội
soi để nắn chỉnh và kết hợp xương gãy.
Tuỳ theo loại di lệch mà có thể dùng một hay
nhiều phương pháp phối hợp nhau để nắn
xương gãy và cũng tuỳ theo loại di lệch mà
hướng kéo nắn khác nhau. Khi nắn thì phải kiểm
soát được lực kéo, tránh kéo không kiểm soát
làm bật mảnh xương gò má ra ngoài.
Việc đánh giá và phân loại biến dạng mặt
sau chấn thương sẽ ảnh hưởng đến sự chọn lựa
phương pháp phẫu thuật. Phương pháp được
chọn lựa sẽ quyết định sự dễ dàng trong việc sửa
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 414
chữa và cố định những đoạn xương bị di lệch,
thời gian phẫu thuật và kết quả thẩm mỹ. Bất
chấp việc sử dụng 1 hoặc nhiều đường rạch,
chúng nên cung cấp sự bộc lộ đủ của những
đoạn xương gãy, sẹo tối thiểu và nguy cơ chấn
thương thần kinh hay những cấu trúc sống khác
là nhỏ nhất(7).
Hình 1: Chỉnh gián tiếp qua đường da sử dụng móc
loại lớn Ginester
Trong lô nghiên cứu của chúng tôi, gồm các
trường hợp vỡ xương hàm gò má, không lệch
khớp cắn nên sau khi nắn chỉnh gián tiếp bằng
Ginester, cố định trực tiếp bằng phương pháp
kết hợp xương thông qua đường mổ rạch bờ
ngoài khóe mắt và xuyên kết mạc, có hay không
kết hợp đường đường rạch niêm mạc ngách lợi
hàm trên là phương pháp điều trị tốt, đã được áp
dụng rộng rãi ở một số trung tâm trên thế giới.
Với những đường rạch thêm vào này, toàn
bộ những ổ gãy ở những điểm cố định vững của
khối xương mặt hàm trên: khớp cố định mõm
thái dương xương gò má và cung tiếp, tạo hình
những mảnh xương vỡ bờ ngoài ổ mắt, mõm gò
má xương hàm trên và xương gò má.
M.Krimmel và cộng sự đã sử dụng nội soi hỗ
trợ trong điều trị gãy phức hợp xương hàm gò
má trong một số trường hợp(4).
Arnulf Baumann và cộng sự đã sử dụng
đường rạch lột găng tầng mặt giữa (midfacial
degloving) kết hợp với đường rạch chân mày và
đường rạch dưới mi để đi vào tầng mặt giữa và
xương gò má-cung tiếp(8,12). Đường rạch này
không bộc lộ được phần xương thái dương của
cung tiếp và gờ dưới ổ mắt vì vậy đường rạch
này không thể giải quyết được những trường
hợp gãy phức hợp xương hàm gò má cung tiếp ở
phía thái dương.
Trong đa số các trường hợp gãy xương gò
má thì những đường rạch phối hợp như: đường
rạch xuyên kết mạc và đường rạch trong miệng
hay nắn chỉnh ngoài đủ để bộc lộ cho việc nắn
chỉnh. Đường rạch xuyên kết mạc đem lại một
kết quả thẩm mỹ cao tuy nhiên cần nắm rõ giải
phẫu học vùng xương hàm trên, hốc mắt. Động
tác phẫu thuật nhẹ nhàng, chính xác.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu sử dụng nẹp vít nhỏ trên 68
bệnh nhân gãy xương gò má tại khoa Tai mũi
họng bệnh viện Chợ Rẫy chúng tôi rút ra một số
kết luận sau:
Gãy phức hợp xương gò má thường gặp ở
nam nhiều hơn nữ
Nguyên nhân thương gặp nhất là do tai nạn
giao thông, đặc biệt là do xe gắn máy.
Nhóm tuổi thường gặp nhất là lứa tuổi
trưởng thành 20-40.
Sử dụng nẹp vít nhỏ trong điều trị gãy
xương gò má là phương pháp tối ưu cố định các
ổ gãy tránh bị di lệch thứ phát sau chỉnh hình.
Làm bằng chất liệu Titanium, nẹp vít nhỏ
này có thể để lại trong cơ thể, không cần lấy ra
và chưa có trường hợp nào phản ứng hay nhiễm
trùng sau mổ do nẹp vít
Trong những trường hợp gãy phức hợp
xương gò má- cung tiếp thì những đường rạch
xuyên kết mạc, hay phối hợp sẹo cũ trên ổ gãy
nếu có, đường rạch rãnh lợi môi hay phối hợp
nâng chỉnh từ ngoài đủ để bộc lộ cho việc nắn
chỉnh. Đường rạch này có kết quả cao về mặt
thẩm mỹ và rất ít hoặc không có biến chứng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kruger E, Schilli W (1986) Oral and Maxillofacial
Traumatology, Chicago, Quintessence, pp. 19-43.
2. Lâm Hoài Phương, Nguyễn Văn Tuấn (2007), Bước đầu đánh
giá hiệu quả sử dụng hệ thống nẹp ốc nhỏ trong điều trị gãy
xương hàm dưới, Y học TP. Hồ Chí Minh * Vol. 11 –
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 415
Supplement of No 2: tr. 248 – 251
3. Lâm Huyền Trâm (1996) Nghiên cứu về điều trị gãy xương gò
má bằng phương pháp kết hợp xương cố định bằng chỉ thép.
4. Manson P, Glassman D, Vanderkolk C et al (1990): Rigid
stabilization of sagittal fractures of the maxilla and palate.
Plast Reconstr Surg.; 85: 711.
5. Manson P, Crawley W, Yaremchuck M et al (1985): Midface
fractures: Advantages of immediate extended open reduction
and bone grafting. Plast Reconstr Surg.; 76: 1
6. Marciani R, Gonty A (1993): Principles of management of
complex craniofacial trauma. J Oral maxillofac Surg.; 51: 535.
7. Markowitz B, Manson P (1989): Panfacial fractures:
Organization of treatment. Clin Plast Surg.;16:105 -114
8. Michelet F, Deymes J, Dessus B (1973), Osteosynthesis with
miniaturized screwed plates in maxillofacial surgery. J
Maxillofac Surg.; 1:79.
9. Nguyễn Quốc Trung (1997) Nghiên cứu hình thái lâm sàng,
phương pháp điều trị gãy xương gò má, cung tiếp tại viện
Răng Hàm Mặt Hà Nội.
10. Nguyễn Thế Dũng (1994) Nghiên cứu về gãy xương gò má,
kết quả điều trị qua 72 trường hợp tại bệnh viện Khánh Hòa.
11. Rix L, Stevenson RL, Bunia-Moorthy A (1991), An analysis of
80 cases of mandibular fractures treated with miniplate
osteosynthesis. Int J Oral Maxillofacial Surg 20: 337.
12. Zide M (1997): Long-term unfavorable result in midface
trauma. In Complications in Oral and maxillofacial Surgery.
Philadelphia, WB Saunders, p 312-313.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- su_dung_he_thong_nep_vit_nho_trong_dieu_tri_gay_xuong_ham_go.pdf