Trong quá trình sử dụng răng trong suốt
trong giảng dạy, đa số sinh viên (18/20) khi đến
quan sát các tiêu bản răng trong suốt cảm thấy
dễ hiểu hơn về giải phẫu hốc tủy sau khi quan
sát các tiêu bản. Tất cả đều thấy hệ thống các ống
tủy quá phức tạp, điều này có thể làm sinh viên e
ngại đối với điều trị nội nha vì thấy công việc
phức tạp, khó khăn. Tuy nhiên, nhận thức được
sự phức tạp của hệ thống ống tủy sẽ giúp sinh
viên có ý thức hơn về các biến thể có thể gặp
trong điều trị, tránh bỏ sót ống tủy và tỉ mỉ hơn
trong hành nghề Nội nha sau này. Bước đầu mới
chỉ có một số sinh viên được thao tác trên tiêu
bản, nhưng hầu hết nhóm sinh viên này (17/20)
cho biết răng trong suốt giúp việc học dễ dàng
hơn. Quan sát trong khi thao tác dụng cụ trong
các ống tủy, nhất là những ống tủy cong, những
ống tủy phân nhánh giúp sinh viên hiểu được
các thao tác thực hành và chú ý, cẩn trọng hơn
trong thao tác.
Nói chung, phản ứng của sinh viên là
thuận lợi, hứng thú với việc sử dụng răng
trong suốt, khuyến khích chúng tôi sẽ tiếp tục
thực hiện thêm nhiều tiêu bản nữa để có thêm
phương tiện phục vụ giảng dạy Nội nha được
tốt hơn.
KẾT LUẬN
Thực nghiệm nhuộm màu hốc tủy và làm
trong răng được 60 tiêu bản răng trong suốt gồm
tất cả các nhóm răng, chúng tôi nhận thấy:
- Đây là phương pháp có tỉ lệ thành công cao,
sản phẩm thu được là các răng trong suốt bộc lộ
đầy đủ các chi tiết của hốc tủy và đủ cứng để áp
dụng trong thực hành tiền lâm sàng cho sinh
viên.
- Sử dụng tiêu bản răng trong suốt trong
giảng dạy Nội nha nhận được phản hồi tích cực
từ người học. Nên tiếp tục thực hiện thêm nhiều
tiêu bản để làm phương tiện giảng dạy.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 100 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sử dụng răng trong suốt trong giảng dạy nội nha, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 6
SỬ DỤNG RĂNG TRONG SUỐT TRONG GIẢNG DẠY NỘI NHA
Huỳnh Hữu Thục Hiền*, Phạm Văn Khoa*
TÓM TẮT
Phương pháp nhuộm màu hốc tủy và làm trong răng đã được sử dụng trong rất nhiều nghiên cứu về giải
phẫu hốc tủy và được xem là phương pháp chuẩn vàng trong nghiên cứu hình thái hốc tủy.
Mục tiêu: Nghiên cứu này được thực hiện nhằm thử nghiệm phương pháp nhuộm màu hốc tủy và làm
trong răng trong điều kiện thực tế để tạo ra các tiêu bản răng trong suốt và đánh giá khả năng sử dụng răng
trong suốt trong giảng dạy Nội nha.
Phương pháp nghiên cứu: Các tiêu bản răng trong suốt được thực hiện bằng cách nhuộm màu hốc tủy
bằng mực tàu, khử khoáng bằng axit nitric 5% và axit dormic 17%, làm trong và làm cứng bằng xylene, sau đó
ngâm trong methyl salicylate. Một nhóm 20 sinh viên quan sát thực tế về giải phẫu hốc tủy và thực hiện các thao
tác sửa soạn và trám bít ống tủy trên tiêu bản, sau đó trả lời bảng câu hỏi cho biết ý kiến về việc sử dụng răng
trong suốt.
Kết quả: Đã thực hiện được 60 tiêu bản răng trong suốt gồm răng thuộc các loại khác nhau, các răng trong
suốt này thể hiện rõ giải phẫu hốc tủy và đủ cứng để thực hành tiền lâm sàng nội nha. Ý kiến phản hồi của sinh
viên là tích cực và ủng hộ việc sử dụng răng trong suốt.
Kết luận: Răng trong suốt là một phương tiện hữu ích trong giảng dạy nội nha.
Từ khóa: răng trong suốt, giảng dạy nội nha
ABSTRACT
THE USE OF TRANSPARENT TOOTH MODEL IN THE ENDODONTICS TRAINING
Huynh Huu Thuc Hien, Pham Van Khoa
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 2 - 2015: 6 - 11
The tooth-clearing technique has been utilised in many studies on dental pulp morphology, and it is the gold
standard in this field of study.
Objectives: To experiment with an inexpensive technique to make transparent tooth models, and to attempt
to use transparent teeth in the training of endodontics.
Method: Dye the pulp by China ink with a vacumm machine, demineralise the teeth in 5% nitric acid and
17% formic acid, harden and clear with xylene and methyl salicylate. The transparent tooth models were used for
demonstration of pulp anatomy, and a group of 20 students were asked to observe the pulp system and perform
root canal treatment on those models. The students then answered a questionnaire on the use of transparent tooth
models in endodontics training.
Results: 60 transparent tooth models of different types were performed. Their root canal anatomy was clearly
visualised, and the hardness were sufficient for pre-clinical practice. The reaction of students was favorable with
positive support for the use of transparent teeth.
Conclusion: Transparent tooth models are useful in teaching of endodontics.
Keywords: transparent tooth model, endodontics training
* Bộ môn Chữa răng- Nội nha- Khoa RHM, Đại học Y Dược TP. HCM
Tác giả liên lạc: ThS Huỳnh Hữu Thục Hiền ĐT: 0903673767 Email: huynhthuchien@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 7
MỞ ĐẦU
Làm trong răng và nhuộm màu hốc tủy là
một phương pháp bộc lộ hình thái hốc tủy.
Trong phương pháp này để làm trong răng,
người ta sử dụng các axit để khử khoáng mô
cứng răng, sau đó ngâm vào các dung dịch thích
hợp để phần khung hữu cơ còn lại của răng trở
nên trong suốt, có thể nhìn xuyên qua để quan
sát hốc tủy. Đồng thời để làm nổi bật hình ảnh
hốc tủy bên trong cho dễ quan sát, người ta bơm
mực vào để nhuộm màu hốc tủy. Đây là một
phương pháp thường sử dụng để nghiên cứu
hình thái hốc tủy các nhóm răng của các chủng
tộc khác nhau.
Lịch sử
Năm 1913, Adloff đã mô tả phương pháp
làm trong răng. Ông bơm kim loại nóng chảy
vào hốc tủy, sau đó làm trong răng theo
phương pháp của Spalteholz (1911). Fasoli và
Arlotta (1913) cũng thử phương pháp này và
chụp ảnh những mẫu răng làm trong. Moral
(1915) bơm mực vào hốc tủy, sau đó làm trong
răng theo phương pháp của Krause (1909).
Tuy nhiên, phương pháp làm trong răng của
các tác giả vừa đề cập còn nhiều vấn đề như
không bơm mực vào toàn bộ hốc tủy và răng
chưa thật trong suốt(2).
Okumura (1927) bơm thuốc nhuộm vào tủy
răng và làm trong một số lượng lớn các răng để
quan sát hốc tủy và ông cũng đưa ra một phân
loại ống tủy liên quan với phân bố giải phẫu.
Okumura đã nhận thấy đây là một phương pháp
tối ưu để khảo sát giải phẫu học hốc tủy vì hình
dạng răng ban đầu của răng được duy trì, có thể
thấy rõ các ống tủy kể cả ống tủy có kích thước
nhỏ, tỉ lệ thành công cao và mẫu sau cùng có thể
sử dụng trong một thời gian dài(8).
Năm 1973, Seelig và Gillis giới thiệu một
phương pháp giản lược để làm trong răng.
Theo phương pháp này, các răng được ngâm
trong HCl 5% cho đến khi khử khoáng hết mô
răng. Tiếp theo rửa bằng nước trong 2 giờ, rồi
kiềm hóa lại bằng NaOH trong 6 giờ. Sau đó
rửa lại và bơm thuốc nhuộm haematoxylin
vào hốc tủy cho đến khi thuốc nhuộm chảy ra
lỗ chóp. Các răng lại được rửa sạch và ngâm
trong cồn để khử nước, sau cùng cho răng vào
một khuôn nhựa trong(6).
Năm 1974, Vertucci sử dụng phương pháp
của Seelig và Gillis trong một vài nghiên cứu bao
gồm khảo sát giải phẫu học của 100 răng cối lớn
thứ nhất hàm trên, 200 răng cối nhỏ thứ hai hàm
trên, 100 răng cửa và nanh hàm dưới, và 100
răng cối lớn thứ nhất hàm dưới. Năm 1978,
Vertucci tiếp tục khảo sát 400 răng cối nhỏ thứ
nhất và 400 răng cối nhỏ thứ hai hàm dưới, và
giới thiệu một phân loại ống tủy gồm 5 loại.
Năm 1979, Vertucci lại tiếp tục công trình của
mình với 400 răng cối nhỏ thứ nhất hàm trên.
Năm 1984, Vertucci trình bày tất tả kết quả công
trình nghiên cứu của mình trong một bài báo với
tổng cộng 2.400 răng các loại đã được làm trong.
Ông đã thể hiện sự đánh giá rất toàn diện về giải
phẫu học hốc tủy đại thể và đưa ra một phân loại
ống tủy gồm 8 loại(7). Phân loại của Vertucci có
thể được xem như một đột phá trong nghiên cứu
hình thái ống tủy, được sử dụng trong hầu hết
các nghiên cứu giải phẫu hốc tủy sau đó và cho
đến hiện nay vì tính đơn giản và tổng quát của
nó. Và công trình nghiên cứu của Vertucci về
giải phẫu hốc tủy tất cả các răng được xem là
một tài liệu tham chiếu cơ bản để so sánh với các
nghiên cứu khác sau đó.
Tại Việt Nam, phương pháp này đã được
áp dụng trong một số nghiên cứu về hình thái
hốc tủy một vài nhóm răng. Năm 1994,
Nguyễn Văn Phước thực hiện trên các răng cối
nhỏ hàm trên có so sánh với phương pháp
chụp phim. Tác giả đã nhận thấy đây là
phương pháp ưu điểm hơn so với phương
pháp chụp phim vì cho phép mô tả hốc tủy chi
tiết và toàn diện hơn(3). Năm 2004, Tạ Tố Trân
thực hiện trên răng cửa giữa và răng nanh
hàm trên. Nghiên cứu này đã có nhiều đóng
góp về những cải tiến về phương pháp nhuộm
màu và làm trong răng, tẩm nhựa trong cho
phần ngà, tái tạo lại phần men răng(5). Năm
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 8
2011, Phan Thùy Ngân và Ngô Thị Quỳnh Lan
thực hiện trên các răng cối nhỏ thứ nhất hàm
dưới(4).
Khả năng ứng dụng trong giảng dạy Nội nha
Răng được làm trong và nhuộm màu hốc tủy
có thể là một phương tiện rất giá trị trong giảng
dạy Nội nha cho sinh viên Răng Hàm Mặt. Điều
trị nội nha thành công đòi hỏi cao kiến thức về
giải phẫu và sinh lý của hệ thống hốc tủy răng
cũng như kỹ năng thực hành. Người điều trị
phải nắm vững các kỹ thuật để mở tủy, làm sạch,
tạo dạng, trám bít và phục hồi răng sau nội nha.
Răng sau khi được nhuộm màu hốc tủy và làm
trong sẽ bộc lộ hệ thống ống tủy phức tạp, có thể
quan sát dễ dàng bằng mắt thường giúp sinh
viên hiểu rõ hơn về giải phẫu hốc tủy so với
những hình thức mô tả hốc tủy khác như hình
vẽ, hình X quang răng Tiêu bản răng trong
suốt cho phép quan sát các đặc điểm giải phẫu
trong ba chiều không gian và trong mối liên hệ
với hình thể ngoài của răng.
Năm 1975, Hasselgren và Tronstad đã giới
thiệu phương pháp làm trong răng đơn giản bao
gồm khử khoáng bằng axit nitric, khử nước bằng
cồn, ngâm trong xylene 2 tuần để cho phần răng
còn lại đủ cứng, sau đó làm trong răng bằng cách
ngâm methyl salicylate. Các răng làm trong theo
phương pháp này đã được dùng để giảng dạy
tiền lâm sàng nội nha cho sinh viên, và hầu hết
sinh viên đều cảm thấy học nội nha trên răng
làm trong giúp dễ hiểu hơn nhất là khi thao tác
trên các răng có vấn đề như ống tủy cong, lỗ
chóp rộng Các tác giả nhận thấy bơm mực vào
hốc tủy giúp dễ quan sát hốc tủy hơn, và các
răng đã khử khoáng thì mềm hơn răng thông
thường nhưng ngâm trong xylene 2 tuần cũng
đủ đạt đến độ cứng có thể sử dụng cho thực tập
nội nha, các răng khi lấy ra khỏi dung dịch
methyl salicylate bị đục dần đi nhưng trở nên
trong suốt trở lại khi ngâm vào dung dịch(5).
Răng trong suốt là một phương tiện tốt trong
giảng dạy Nội nha, để giúp sinh viên có được
kiến thức về hệ thống hốc tủy phức tạp trong ba
chiều. Bên cạnh đó, răng trong suốt khi được làm
cứng thích hợp có thể sử dụng là phương tiện
trong thực hành tiền lâm sàng nội nha. Trong
đào tạo bác sĩ Răng Hàm Mặt, giai đoạn Tiền lâm
sàng là một giai đoạn quan trọng để sinh viên có
được những kỹ năng cần thiết trước khi bắt đầu
thực hành trên bệnh nhân. Hiện nay, tại Khoa
Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TPHCM cũng
như hầu hết các trường Nha trên thế giới thường
sử dụng răng thật của người trong thực hành
Tiền lâm sàng Nội nha. Đối với sinh viên mới bắt
đầu làm quen với hệ thống ống tủy, sử dụng tiêu
bản răng trong suốt có thể giúp sinh viên dễ
quan sát trong khi mở tủy, sửa soạn và trám bít
ống tủy trong thực hành Tiền lâm sàng nội nha.
Chúng tôi nhận thấy có thể sử dụng răng
trong suốt làm phương tiện giảng dạy Nội nha
cho sinh viên Răng Hàm Mặt tại Khoa Răng
Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh. Do
đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với
những mục tiêu sau:
1- Thực nghiệm phương pháp nhuộm màu
hốc tủy và làm trong răng phù hợp để có thể
thực hiện nhiều tiêu bản răng trong suốt phục vụ
cho công việc giảng dạy Nội nha tại tại Khoa
Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP Hồ Chí
Minh.
2- Đánh giá hiệu quả của việc sử dụng răng
trong suốt trong nâng cao kiến thức và kỹ năng
của sinh viên trong chuyên ngành Nội nha.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Răng người đã nhổ được thu thập, làm sạch
và bảo quản trong Chloramine T.
Răng đã đóng chóp, chân răng và chóp răng
còn nguyên vẹn.
Trang thiết bị, vật liệu
- Máy rửa siêu âm KQ318T, Trung Quốc.
- Máy hút chân không 1,5 HP tự chế tạo.
- Dung dịch làm sạch: Chloramin T, NaClO
5,25%.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 9
- Dung dịch nhuộm màu: mực tàu.
- Dung dịch khử khoáng: axit Formic 17%,
acid Nitric 5%.
- Dung dịch khử nước: Ethanol 700, 900, 960.
- Dung dịch làm cứng, làm trong: Xylene
- Dung dịch làm trong: Methylsalicylate.
Quy trình thực hiện tiêu bản răng trong suốt
Làm tan mô tủy
Ngâm trong NaOCl 5,25% trong 24 giờ để
làm tan mô tủy. Rửa răng bằng máy rửa siêu âm
trong 30 phút.
Rửa răng dưới vòi nước trong 4 giờ.
Để răng khô tự nhiên.
Nhuộm màu hốc tủy
Ngâm răng vào dung dịch mực tàu đen được
làm ấm đến 50-60°C.
Bơm hút chân không bằng máy hút chân
không, cho răng và mực vào buồng hút chân
không. Khi hút hết không khí trong buồng, tắt
máy, mở nắp buồng hút đưa nhanh khí vào
buồng tạo áp lực đẩy mực vào hốc tủy. Thực
hiện lập lại 3 lần.
Khử khoáng răng
Ngâm trong dung dịch axit nitric 6% 1 ngày.
Ngâm trong dung dịch axit formic 17% cho
đến khi khử khoáng hoàn toàn. Axit formic được
thay mới mỗi 5 ngày. Đánh giá sự khử khoáng
bằng mắt thường.
Rửa sạch dưới vòi nước trong 8 giờ.
Khử nước
Ngâm răng trong dung dịch ethanol với
nồng độ tăng dần:
70° trong 12 giờ
90° và 96°, mỗi nồng độ trong 1 giờ
Làm cứng và làm trong răng
Sau khi khử nước, cho răng vào xylene ngâm
trong 4 tuần cho cứng. Sau đó ngâm vào methyl
salicylate để duy trì tiêu bản được trong suốt,
nhưng methyl salicylate ít độc hơn xylene.
Sử dụng tiêu bản răng trong suốt trong
giảng dạy Nội nha
Sinh viên RHM năm thứ 4 được học lý
thuyết về giải phẫu hốc tủy: các thành phần của
hốc tủy, các phân loại hốc tủy, đặc điểm giải
phẫu hốc tủy theo nhóm răng cửa nanh, răng cối
nhỏ hàm trên và hàm dưới, răng cối lớn hàm
trên và hàm dưới. Bài giảng lý thuyết được minh
họa bằng các hình vẽ, hình chụp răng thật và
tiêu bản răng trong suốt, phim X quang răng.
Sinh viên được giới thiệu về tiêu bản răng trong
suốt, và tự đến (không bắt buộc) quan sát tiêu
bản tiêu bản răng trong suốt của các nhóm răng
tại bộ môn Chữa răng – Nội nha. Sinh viên được
quan sát bằng mắt thường và bằng kính lúp x 3
lần. Sinh viên nào đến quan sát trả lời các câu hỏi
cho biết ý kiến về các tiêu bản, về việc sử dụng
tiêu bản trong học tập giải phẫu hốc tủy.
Chọn ngẫu nhiên một nhóm thực tập gồm 20
sinh viên RHM 4, các sinh viên này được thực
tập theo nhóm 3 người 1 tiêu bản để thực hiện
các thao tác sửa soạn ống tủy, trám bít ống tủy
trên tiêu bản. Sau khi thực tập, sinh viên trả lời
câu hỏi cho biết ý kiến về việc thực hành trên
tiêu bản răng trong suốt.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Chúng tôi đã tiến hành làm được 60 tiêu bản
răng trong suốt. Trong đó gồm 5 răng cửa và
nanh, 15 răng cối nhỏ, 40 răng cối lớn.
Với phương pháp nhuộm màu hốc tủy dưới
áp lực từ máy hút chân không tự chế tạo và làm
trong răng như đã mô tả trong quy trình thực
hiện, chúng tôi đã thực hiện được các tiêu bản
răng trong suốt có hốc tủy nhuộm màu rõ, có thể
quan sát dễ dàng các thành phần của hốc tủy bao
gồm các ống tủy phụ.
Chúng tôi đã thực hiện làm tiêu bản răng của
tất cả các nhóm răng để có thể có được nhiều
tiêu bản cho sinh viên quan sát. Quy trình thực
hiện ở các giai đoạn nhuộm màu hốc tủy, làm
cứng và làm trong là tương tự đối răng ở tất cả
các nhóm. Chúng tôi thực hiện đưa mực vào hốc
tủy dưới áp lực dương đạt được khi mở nhanh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 10
nắp của buồng hút chân không. Các nghiên cứu
trước đây tại Khoa RHM như nghiên cứu của Tạ
Tố Trân, Phan Thùy Ngân cũng thực hiện tương
tự như vậy, nhưng với máy hút chân không tại
Khoa Dược, ĐH Y Dược TPHCM. Do mục đích
của nghiên cứu là muốn thực hiện nhiều tiêu
bản răng làm trong để sử dụng trong giảng dạy
về giải phẫu hốc tủy cũng như cho sinh viên
thực tập trên tiêu bản, nên chúng tôi đã mạnh
dạn chế tạo một máy hút chân không từ động cơ
1,5 hp. Qua quá trình thực hiện, chúng tôi nhận
thấy máy hoạt động tốt, kết quả cho thấy mực
vào hốc tủy đầy đủ. Nhờ tự chế tạo, chúng tôi đã
có thể chủ động trong thực hiện tiêu bản với
kinh phí hợp lý.
Riêng giai đoạn khử khoáng, thời gian khử
khoáng đối với nhóm răng cối lớn dài hơn hẳn
so với các nhóm khác, do phần thân răng có thể
tích lớn cần nhiều thời gian để khử khoáng hơn.
Trong khi khử khoáng các răng cối lớn cũng dễ
gặp thất bại hơn,ví dụ như khử khoáng quá mức
đến phân hủy một phần chân răng mà phần
thân răng vẫn chưa khử khoáng hết.
Để khử khoáng có thể sử dụng axit nitric 5-
10% (Gulabivala 2000 và 2002, Wasti 2001, Chen
2009,), axit formic 15-20% (O’Neill và cộng sự
1983), dung dịch trao đổi ion resin và axit formic
(Felton và cộng sự 1997) hoặc axit hydrochloric
5% (Vertucci 1978, Peroca 1992). Sử dụng dung
dịch axit mạnh như hydrochloric, nitric làm rút
ngắn thời gian khử khoáng trong vòng vài ngày,
nhưng dễ dẫn đến hòa tan luôn cả một phần
khuôn hữu cơ; trong khi dùng dung dịch axit
yếu như formic thì thời gian khử khoáng dài
hơn, nhưng ổn định hơn. Sự co lại của mô hữu
cơ của răng có thể xảy ra trong quá trình khử
khoáng, và để làm giảm bớt tác dụng này theo
Robertson 1980 nên sử dụng dung dịch axit nồng
độ thấp.
Ngược lại, Gupta và cộng sự (2014) khuyên
nên sử dụng axit nitric để khử khoáng vì nhận
thấy một số mẫu răng khử khoáng bằng axit
formic có hiện tượng tắc nghẽn ống tủy sau khử
khoáng, nhưng không thấy ở những mẫu khử
khoáng bằng axit nitric. Các tác giả cũng nhận
thấy axit nitric có nhược điểm khác là làm mẫu
răng trong hơi ngả vàng(1). Tuy nhiên, thiết kế
nghiên cứu của Gupta là khử khoáng, làm trong
rồi mới bơm mực vào ống tủy. Do đó, nếu thiết
kế theo kiểu khác như bơm mực trước khi khử
khoáng và làm trong khi hiện tượng tắc nghẽn
ống tủy này không ảnh hưởng gì đến chất lượng
mẫu răng.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng
axit nitric 5% ngâm trong 1 ngày, sau đó ngâm
trong axit formic vì ngâm trong axit nitric thì
khử khoáng nhanh hơn, dễ dẫn đến phân hủy
phần chóp chân răng trong khi phần thân răng
chưa khử khoáng đủ. Vấn đề này thường gặp
khi thực hiện tiêu bản các răng cối lớn hàm trên
và dưới. Còn nếu chỉ sử dụng axit formic thì thời
gian khử khoáng quá dài, hơn một tháng.
Để làm trong tiêu bản có thể sử dụng
methyl salicylate, xylene, eugenol, benzene.
Hasselgren và Tronstad (1975) nhận thấy
ngâm răng sau khử khoáng vào xylene trong 2
tuần hoặc lâu hơn thì tiêu bản có độ cứng đủ
cho sinh viên có thể thực hành tiền lâm sàng
Nội nha trên tiêu bản. Trong nghiên cứu này,
các răng được làm trong và làm cứng bằng
xylene trong 4 tuần. Chúng tôi nhận thấy tiêu
bản có độ cứng vừa phải, chấp nhận được, có
thể đưa trâm nội nha vào sửa soạn ống tủy.
Tuy nhiên tiêu bản dễ bị phá hủy khi sinh viên
thực hiện trám bít do động tác lèn ngang khá
mạnh. Sau khi ngâm trong xylene, tiêu bản
được ngâm trong methyl salicylate để bảo
quản. Trong khi quan sát hoặc thực hành, tiêu
bản bị mờ dần, chỉ cần nhúng vào methyl
salicylate thì tiêu bản trở lại trong suốt.
Trong quá trình sử dụng răng trong suốt
trong giảng dạy, đa số sinh viên (18/20) khi đến
quan sát các tiêu bản răng trong suốt cảm thấy
dễ hiểu hơn về giải phẫu hốc tủy sau khi quan
sát các tiêu bản. Tất cả đều thấy hệ thống các ống
tủy quá phức tạp, điều này có thể làm sinh viên e
ngại đối với điều trị nội nha vì thấy công việc
phức tạp, khó khăn. Tuy nhiên, nhận thức được
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 11
sự phức tạp của hệ thống ống tủy sẽ giúp sinh
viên có ý thức hơn về các biến thể có thể gặp
trong điều trị, tránh bỏ sót ống tủy và tỉ mỉ hơn
trong hành nghề Nội nha sau này. Bước đầu mới
chỉ có một số sinh viên được thao tác trên tiêu
bản, nhưng hầu hết nhóm sinh viên này (17/20)
cho biết răng trong suốt giúp việc học dễ dàng
hơn. Quan sát trong khi thao tác dụng cụ trong
các ống tủy, nhất là những ống tủy cong, những
ống tủy phân nhánh giúp sinh viên hiểu được
các thao tác thực hành và chú ý, cẩn trọng hơn
trong thao tác.
Hình 1: Một số tiêu bản răng trong suốt minh họa 4
phân loại ống tủy theo Weine 1969, từ trái sang phải:
loại I một ống tủy, loại II hai ống tủy nhập lại thành
một, loại III hai ống tủy riêng biệt, loại IV một ống
tủy tách thành hai.
Hình 2: Thực hành sửa soạn ống tủy trên tiêu bản
răng trong suốt
Nói chung, phản ứng của sinh viên là
thuận lợi, hứng thú với việc sử dụng răng
trong suốt, khuyến khích chúng tôi sẽ tiếp tục
thực hiện thêm nhiều tiêu bản nữa để có thêm
phương tiện phục vụ giảng dạy Nội nha được
tốt hơn.
KẾT LUẬN
Thực nghiệm nhuộm màu hốc tủy và làm
trong răng được 60 tiêu bản răng trong suốt gồm
tất cả các nhóm răng, chúng tôi nhận thấy:
- Đây là phương pháp có tỉ lệ thành công cao,
sản phẩm thu được là các răng trong suốt bộc lộ
đầy đủ các chi tiết của hốc tủy và đủ cứng để áp
dụng trong thực hành tiền lâm sàng cho sinh
viên.
- Sử dụng tiêu bản răng trong suốt trong
giảng dạy Nội nha nhận được phản hồi tích cực
từ người học. Nên tiếp tục thực hiện thêm nhiều
tiêu bản để làm phương tiện giảng dạy.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Gupta B, Tiwari B, Raj V, Kashyap B, Chandra S, Dwivedi N
(2014). Transparent tooth model: A study of root canal
morphology using different reagents. European Journal of
General Dentistry 3(1): 66-70.
2. Hasselgren G, Tronstad L (1975). The use of transparent teeth
in the teaching of preclinical endodontics. J Endod 1(8): 278-
280.
3. Nguyễn Văn Phước (1994). Bước đầu nghiên cứu giải phẫu
hốc tủy và liên quan của nó với hình thể ngoài của răng cối
nhỏ thứ nhất hàm trên. Luận văn chuyên khoa cấp 1, Khoa
Răng Hàm Mặt, Đại học Y dược TPHCM.
4. Phan Thùy Ngân (2011). Đặc điểm hình thái hốc tủy răng cối
nhỏ thứ nhất hàm dưới. Luận văn thạc sỹ, Khoa Răng Hàm
Mặt, Đại học Y Dược TPHCM.
5. Tạ Tố Trân (2004). Hình thái hốc tủy răng cửa giữa và răng
nanh hàm trên. Nghiên cứu trên răng thật được làm trong
suốt. Khóa luận tốt nghiệp bác sĩ RHM, Khoa Răng Hàm Mặt,
Đại học Y Dược TPHCM.
6. Versiani M (2012).
anatomy-brief-history.html
7. Vertucci FJ (1984). Root canal anatomy of the human
permanent teeth. Oral Surg. 58: 589-599.
8. Walker RT (1987). A comparative investigation of the root
number and canal anatomy of permanent teeth in a Southern
Chinese. PhD dissertation at Hong Kong University.
Ngày nhận bài báo: 09/02/2015
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/02/2015
Người phản biện: PGS-TS Hoàng Đạo Bảo Trâm
Ngày bài báo được đăng: 10/04/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- su_dung_rang_trong_suot_trong_giang_day_noi_nha.pdf