Sử dụng răng trong suốt trong giảng dạy nội nha

Trong quá trình sử dụng răng trong suốt trong giảng dạy, đa số sinh viên (18/20) khi đến quan sát các tiêu bản răng trong suốt cảm thấy dễ hiểu hơn về giải phẫu hốc tủy sau khi quan sát các tiêu bản. Tất cả đều thấy hệ thống các ống tủy quá phức tạp, điều này có thể làm sinh viên e ngại đối với điều trị nội nha vì thấy công việc phức tạp, khó khăn. Tuy nhiên, nhận thức được sự phức tạp của hệ thống ống tủy sẽ giúp sinh viên có ý thức hơn về các biến thể có thể gặp trong điều trị, tránh bỏ sót ống tủy và tỉ mỉ hơn trong hành nghề Nội nha sau này. Bước đầu mới chỉ có một số sinh viên được thao tác trên tiêu bản, nhưng hầu hết nhóm sinh viên này (17/20) cho biết răng trong suốt giúp việc học dễ dàng hơn. Quan sát trong khi thao tác dụng cụ trong các ống tủy, nhất là những ống tủy cong, những ống tủy phân nhánh giúp sinh viên hiểu được các thao tác thực hành và chú ý, cẩn trọng hơn trong thao tác. Nói chung, phản ứng của sinh viên là thuận lợi, hứng thú với việc sử dụng răng trong suốt, khuyến khích chúng tôi sẽ tiếp tục thực hiện thêm nhiều tiêu bản nữa để có thêm phương tiện phục vụ giảng dạy Nội nha được tốt hơn. KẾT LUẬN Thực nghiệm nhuộm màu hốc tủy và làm trong răng được 60 tiêu bản răng trong suốt gồm tất cả các nhóm răng, chúng tôi nhận thấy: - Đây là phương pháp có tỉ lệ thành công cao, sản phẩm thu được là các răng trong suốt bộc lộ đầy đủ các chi tiết của hốc tủy và đủ cứng để áp dụng trong thực hành tiền lâm sàng cho sinh viên. - Sử dụng tiêu bản răng trong suốt trong giảng dạy Nội nha nhận được phản hồi tích cực từ người học. Nên tiếp tục thực hiện thêm nhiều tiêu bản để làm phương tiện giảng dạy.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 131 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sử dụng răng trong suốt trong giảng dạy nội nha, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 6 SỬ DỤNG RĂNG TRONG SUỐT TRONG GIẢNG DẠY NỘI NHA Huỳnh Hữu Thục Hiền*, Phạm Văn Khoa* TÓM TẮT Phương pháp nhuộm màu hốc tủy và làm trong răng đã được sử dụng trong rất nhiều nghiên cứu về giải phẫu hốc tủy và được xem là phương pháp chuẩn vàng trong nghiên cứu hình thái hốc tủy. Mục tiêu: Nghiên cứu này được thực hiện nhằm thử nghiệm phương pháp nhuộm màu hốc tủy và làm trong răng trong điều kiện thực tế để tạo ra các tiêu bản răng trong suốt và đánh giá khả năng sử dụng răng trong suốt trong giảng dạy Nội nha. Phương pháp nghiên cứu: Các tiêu bản răng trong suốt được thực hiện bằng cách nhuộm màu hốc tủy bằng mực tàu, khử khoáng bằng axit nitric 5% và axit dormic 17%, làm trong và làm cứng bằng xylene, sau đó ngâm trong methyl salicylate. Một nhóm 20 sinh viên quan sát thực tế về giải phẫu hốc tủy và thực hiện các thao tác sửa soạn và trám bít ống tủy trên tiêu bản, sau đó trả lời bảng câu hỏi cho biết ý kiến về việc sử dụng răng trong suốt. Kết quả: Đã thực hiện được 60 tiêu bản răng trong suốt gồm răng thuộc các loại khác nhau, các răng trong suốt này thể hiện rõ giải phẫu hốc tủy và đủ cứng để thực hành tiền lâm sàng nội nha. Ý kiến phản hồi của sinh viên là tích cực và ủng hộ việc sử dụng răng trong suốt. Kết luận: Răng trong suốt là một phương tiện hữu ích trong giảng dạy nội nha. Từ khóa: răng trong suốt, giảng dạy nội nha ABSTRACT THE USE OF TRANSPARENT TOOTH MODEL IN THE ENDODONTICS TRAINING Huynh Huu Thuc Hien, Pham Van Khoa * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 2 - 2015: 6 - 11 The tooth-clearing technique has been utilised in many studies on dental pulp morphology, and it is the gold standard in this field of study. Objectives: To experiment with an inexpensive technique to make transparent tooth models, and to attempt to use transparent teeth in the training of endodontics. Method: Dye the pulp by China ink with a vacumm machine, demineralise the teeth in 5% nitric acid and 17% formic acid, harden and clear with xylene and methyl salicylate. The transparent tooth models were used for demonstration of pulp anatomy, and a group of 20 students were asked to observe the pulp system and perform root canal treatment on those models. The students then answered a questionnaire on the use of transparent tooth models in endodontics training. Results: 60 transparent tooth models of different types were performed. Their root canal anatomy was clearly visualised, and the hardness were sufficient for pre-clinical practice. The reaction of students was favorable with positive support for the use of transparent teeth. Conclusion: Transparent tooth models are useful in teaching of endodontics. Keywords: transparent tooth model, endodontics training * Bộ môn Chữa răng- Nội nha- Khoa RHM, Đại học Y Dược TP. HCM Tác giả liên lạc: ThS Huỳnh Hữu Thục Hiền ĐT: 0903673767 Email: huynhthuchien@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 7 MỞ ĐẦU Làm trong răng và nhuộm màu hốc tủy là một phương pháp bộc lộ hình thái hốc tủy. Trong phương pháp này để làm trong răng, người ta sử dụng các axit để khử khoáng mô cứng răng, sau đó ngâm vào các dung dịch thích hợp để phần khung hữu cơ còn lại của răng trở nên trong suốt, có thể nhìn xuyên qua để quan sát hốc tủy. Đồng thời để làm nổi bật hình ảnh hốc tủy bên trong cho dễ quan sát, người ta bơm mực vào để nhuộm màu hốc tủy. Đây là một phương pháp thường sử dụng để nghiên cứu hình thái hốc tủy các nhóm răng của các chủng tộc khác nhau. Lịch sử Năm 1913, Adloff đã mô tả phương pháp làm trong răng. Ông bơm kim loại nóng chảy vào hốc tủy, sau đó làm trong răng theo phương pháp của Spalteholz (1911). Fasoli và Arlotta (1913) cũng thử phương pháp này và chụp ảnh những mẫu răng làm trong. Moral (1915) bơm mực vào hốc tủy, sau đó làm trong răng theo phương pháp của Krause (1909). Tuy nhiên, phương pháp làm trong răng của các tác giả vừa đề cập còn nhiều vấn đề như không bơm mực vào toàn bộ hốc tủy và răng chưa thật trong suốt(2). Okumura (1927) bơm thuốc nhuộm vào tủy răng và làm trong một số lượng lớn các răng để quan sát hốc tủy và ông cũng đưa ra một phân loại ống tủy liên quan với phân bố giải phẫu. Okumura đã nhận thấy đây là một phương pháp tối ưu để khảo sát giải phẫu học hốc tủy vì hình dạng răng ban đầu của răng được duy trì, có thể thấy rõ các ống tủy kể cả ống tủy có kích thước nhỏ, tỉ lệ thành công cao và mẫu sau cùng có thể sử dụng trong một thời gian dài(8). Năm 1973, Seelig và Gillis giới thiệu một phương pháp giản lược để làm trong răng. Theo phương pháp này, các răng được ngâm trong HCl 5% cho đến khi khử khoáng hết mô răng. Tiếp theo rửa bằng nước trong 2 giờ, rồi kiềm hóa lại bằng NaOH trong 6 giờ. Sau đó rửa lại và bơm thuốc nhuộm haematoxylin vào hốc tủy cho đến khi thuốc nhuộm chảy ra lỗ chóp. Các răng lại được rửa sạch và ngâm trong cồn để khử nước, sau cùng cho răng vào một khuôn nhựa trong(6). Năm 1974, Vertucci sử dụng phương pháp của Seelig và Gillis trong một vài nghiên cứu bao gồm khảo sát giải phẫu học của 100 răng cối lớn thứ nhất hàm trên, 200 răng cối nhỏ thứ hai hàm trên, 100 răng cửa và nanh hàm dưới, và 100 răng cối lớn thứ nhất hàm dưới. Năm 1978, Vertucci tiếp tục khảo sát 400 răng cối nhỏ thứ nhất và 400 răng cối nhỏ thứ hai hàm dưới, và giới thiệu một phân loại ống tủy gồm 5 loại. Năm 1979, Vertucci lại tiếp tục công trình của mình với 400 răng cối nhỏ thứ nhất hàm trên. Năm 1984, Vertucci trình bày tất tả kết quả công trình nghiên cứu của mình trong một bài báo với tổng cộng 2.400 răng các loại đã được làm trong. Ông đã thể hiện sự đánh giá rất toàn diện về giải phẫu học hốc tủy đại thể và đưa ra một phân loại ống tủy gồm 8 loại(7). Phân loại của Vertucci có thể được xem như một đột phá trong nghiên cứu hình thái ống tủy, được sử dụng trong hầu hết các nghiên cứu giải phẫu hốc tủy sau đó và cho đến hiện nay vì tính đơn giản và tổng quát của nó. Và công trình nghiên cứu của Vertucci về giải phẫu hốc tủy tất cả các răng được xem là một tài liệu tham chiếu cơ bản để so sánh với các nghiên cứu khác sau đó. Tại Việt Nam, phương pháp này đã được áp dụng trong một số nghiên cứu về hình thái hốc tủy một vài nhóm răng. Năm 1994, Nguyễn Văn Phước thực hiện trên các răng cối nhỏ hàm trên có so sánh với phương pháp chụp phim. Tác giả đã nhận thấy đây là phương pháp ưu điểm hơn so với phương pháp chụp phim vì cho phép mô tả hốc tủy chi tiết và toàn diện hơn(3). Năm 2004, Tạ Tố Trân thực hiện trên răng cửa giữa và răng nanh hàm trên. Nghiên cứu này đã có nhiều đóng góp về những cải tiến về phương pháp nhuộm màu và làm trong răng, tẩm nhựa trong cho phần ngà, tái tạo lại phần men răng(5). Năm Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 8 2011, Phan Thùy Ngân và Ngô Thị Quỳnh Lan thực hiện trên các răng cối nhỏ thứ nhất hàm dưới(4). Khả năng ứng dụng trong giảng dạy Nội nha Răng được làm trong và nhuộm màu hốc tủy có thể là một phương tiện rất giá trị trong giảng dạy Nội nha cho sinh viên Răng Hàm Mặt. Điều trị nội nha thành công đòi hỏi cao kiến thức về giải phẫu và sinh lý của hệ thống hốc tủy răng cũng như kỹ năng thực hành. Người điều trị phải nắm vững các kỹ thuật để mở tủy, làm sạch, tạo dạng, trám bít và phục hồi răng sau nội nha. Răng sau khi được nhuộm màu hốc tủy và làm trong sẽ bộc lộ hệ thống ống tủy phức tạp, có thể quan sát dễ dàng bằng mắt thường giúp sinh viên hiểu rõ hơn về giải phẫu hốc tủy so với những hình thức mô tả hốc tủy khác như hình vẽ, hình X quang răng Tiêu bản răng trong suốt cho phép quan sát các đặc điểm giải phẫu trong ba chiều không gian và trong mối liên hệ với hình thể ngoài của răng. Năm 1975, Hasselgren và Tronstad đã giới thiệu phương pháp làm trong răng đơn giản bao gồm khử khoáng bằng axit nitric, khử nước bằng cồn, ngâm trong xylene 2 tuần để cho phần răng còn lại đủ cứng, sau đó làm trong răng bằng cách ngâm methyl salicylate. Các răng làm trong theo phương pháp này đã được dùng để giảng dạy tiền lâm sàng nội nha cho sinh viên, và hầu hết sinh viên đều cảm thấy học nội nha trên răng làm trong giúp dễ hiểu hơn nhất là khi thao tác trên các răng có vấn đề như ống tủy cong, lỗ chóp rộng Các tác giả nhận thấy bơm mực vào hốc tủy giúp dễ quan sát hốc tủy hơn, và các răng đã khử khoáng thì mềm hơn răng thông thường nhưng ngâm trong xylene 2 tuần cũng đủ đạt đến độ cứng có thể sử dụng cho thực tập nội nha, các răng khi lấy ra khỏi dung dịch methyl salicylate bị đục dần đi nhưng trở nên trong suốt trở lại khi ngâm vào dung dịch(5). Răng trong suốt là một phương tiện tốt trong giảng dạy Nội nha, để giúp sinh viên có được kiến thức về hệ thống hốc tủy phức tạp trong ba chiều. Bên cạnh đó, răng trong suốt khi được làm cứng thích hợp có thể sử dụng là phương tiện trong thực hành tiền lâm sàng nội nha. Trong đào tạo bác sĩ Răng Hàm Mặt, giai đoạn Tiền lâm sàng là một giai đoạn quan trọng để sinh viên có được những kỹ năng cần thiết trước khi bắt đầu thực hành trên bệnh nhân. Hiện nay, tại Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TPHCM cũng như hầu hết các trường Nha trên thế giới thường sử dụng răng thật của người trong thực hành Tiền lâm sàng Nội nha. Đối với sinh viên mới bắt đầu làm quen với hệ thống ống tủy, sử dụng tiêu bản răng trong suốt có thể giúp sinh viên dễ quan sát trong khi mở tủy, sửa soạn và trám bít ống tủy trong thực hành Tiền lâm sàng nội nha. Chúng tôi nhận thấy có thể sử dụng răng trong suốt làm phương tiện giảng dạy Nội nha cho sinh viên Răng Hàm Mặt tại Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với những mục tiêu sau: 1- Thực nghiệm phương pháp nhuộm màu hốc tủy và làm trong răng phù hợp để có thể thực hiện nhiều tiêu bản răng trong suốt phục vụ cho công việc giảng dạy Nội nha tại tại Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh. 2- Đánh giá hiệu quả của việc sử dụng răng trong suốt trong nâng cao kiến thức và kỹ năng của sinh viên trong chuyên ngành Nội nha. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Răng người đã nhổ được thu thập, làm sạch và bảo quản trong Chloramine T. Răng đã đóng chóp, chân răng và chóp răng còn nguyên vẹn. Trang thiết bị, vật liệu - Máy rửa siêu âm KQ318T, Trung Quốc. - Máy hút chân không 1,5 HP tự chế tạo. - Dung dịch làm sạch: Chloramin T, NaClO 5,25%. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 9 - Dung dịch nhuộm màu: mực tàu. - Dung dịch khử khoáng: axit Formic 17%, acid Nitric 5%. - Dung dịch khử nước: Ethanol 700, 900, 960. - Dung dịch làm cứng, làm trong: Xylene - Dung dịch làm trong: Methylsalicylate. Quy trình thực hiện tiêu bản răng trong suốt Làm tan mô tủy Ngâm trong NaOCl 5,25% trong 24 giờ để làm tan mô tủy. Rửa răng bằng máy rửa siêu âm trong 30 phút. Rửa răng dưới vòi nước trong 4 giờ. Để răng khô tự nhiên. Nhuộm màu hốc tủy Ngâm răng vào dung dịch mực tàu đen được làm ấm đến 50-60°C. Bơm hút chân không bằng máy hút chân không, cho răng và mực vào buồng hút chân không. Khi hút hết không khí trong buồng, tắt máy, mở nắp buồng hút đưa nhanh khí vào buồng tạo áp lực đẩy mực vào hốc tủy. Thực hiện lập lại 3 lần. Khử khoáng răng Ngâm trong dung dịch axit nitric 6% 1 ngày. Ngâm trong dung dịch axit formic 17% cho đến khi khử khoáng hoàn toàn. Axit formic được thay mới mỗi 5 ngày. Đánh giá sự khử khoáng bằng mắt thường. Rửa sạch dưới vòi nước trong 8 giờ. Khử nước Ngâm răng trong dung dịch ethanol với nồng độ tăng dần: 70° trong 12 giờ 90° và 96°, mỗi nồng độ trong 1 giờ Làm cứng và làm trong răng Sau khi khử nước, cho răng vào xylene ngâm trong 4 tuần cho cứng. Sau đó ngâm vào methyl salicylate để duy trì tiêu bản được trong suốt, nhưng methyl salicylate ít độc hơn xylene. Sử dụng tiêu bản răng trong suốt trong giảng dạy Nội nha Sinh viên RHM năm thứ 4 được học lý thuyết về giải phẫu hốc tủy: các thành phần của hốc tủy, các phân loại hốc tủy, đặc điểm giải phẫu hốc tủy theo nhóm răng cửa nanh, răng cối nhỏ hàm trên và hàm dưới, răng cối lớn hàm trên và hàm dưới. Bài giảng lý thuyết được minh họa bằng các hình vẽ, hình chụp răng thật và tiêu bản răng trong suốt, phim X quang răng. Sinh viên được giới thiệu về tiêu bản răng trong suốt, và tự đến (không bắt buộc) quan sát tiêu bản tiêu bản răng trong suốt của các nhóm răng tại bộ môn Chữa răng – Nội nha. Sinh viên được quan sát bằng mắt thường và bằng kính lúp x 3 lần. Sinh viên nào đến quan sát trả lời các câu hỏi cho biết ý kiến về các tiêu bản, về việc sử dụng tiêu bản trong học tập giải phẫu hốc tủy. Chọn ngẫu nhiên một nhóm thực tập gồm 20 sinh viên RHM 4, các sinh viên này được thực tập theo nhóm 3 người 1 tiêu bản để thực hiện các thao tác sửa soạn ống tủy, trám bít ống tủy trên tiêu bản. Sau khi thực tập, sinh viên trả lời câu hỏi cho biết ý kiến về việc thực hành trên tiêu bản răng trong suốt. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Chúng tôi đã tiến hành làm được 60 tiêu bản răng trong suốt. Trong đó gồm 5 răng cửa và nanh, 15 răng cối nhỏ, 40 răng cối lớn. Với phương pháp nhuộm màu hốc tủy dưới áp lực từ máy hút chân không tự chế tạo và làm trong răng như đã mô tả trong quy trình thực hiện, chúng tôi đã thực hiện được các tiêu bản răng trong suốt có hốc tủy nhuộm màu rõ, có thể quan sát dễ dàng các thành phần của hốc tủy bao gồm các ống tủy phụ. Chúng tôi đã thực hiện làm tiêu bản răng của tất cả các nhóm răng để có thể có được nhiều tiêu bản cho sinh viên quan sát. Quy trình thực hiện ở các giai đoạn nhuộm màu hốc tủy, làm cứng và làm trong là tương tự đối răng ở tất cả các nhóm. Chúng tôi thực hiện đưa mực vào hốc tủy dưới áp lực dương đạt được khi mở nhanh Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 10 nắp của buồng hút chân không. Các nghiên cứu trước đây tại Khoa RHM như nghiên cứu của Tạ Tố Trân, Phan Thùy Ngân cũng thực hiện tương tự như vậy, nhưng với máy hút chân không tại Khoa Dược, ĐH Y Dược TPHCM. Do mục đích của nghiên cứu là muốn thực hiện nhiều tiêu bản răng làm trong để sử dụng trong giảng dạy về giải phẫu hốc tủy cũng như cho sinh viên thực tập trên tiêu bản, nên chúng tôi đã mạnh dạn chế tạo một máy hút chân không từ động cơ 1,5 hp. Qua quá trình thực hiện, chúng tôi nhận thấy máy hoạt động tốt, kết quả cho thấy mực vào hốc tủy đầy đủ. Nhờ tự chế tạo, chúng tôi đã có thể chủ động trong thực hiện tiêu bản với kinh phí hợp lý. Riêng giai đoạn khử khoáng, thời gian khử khoáng đối với nhóm răng cối lớn dài hơn hẳn so với các nhóm khác, do phần thân răng có thể tích lớn cần nhiều thời gian để khử khoáng hơn. Trong khi khử khoáng các răng cối lớn cũng dễ gặp thất bại hơn,ví dụ như khử khoáng quá mức đến phân hủy một phần chân răng mà phần thân răng vẫn chưa khử khoáng hết. Để khử khoáng có thể sử dụng axit nitric 5- 10% (Gulabivala 2000 và 2002, Wasti 2001, Chen 2009,), axit formic 15-20% (O’Neill và cộng sự 1983), dung dịch trao đổi ion resin và axit formic (Felton và cộng sự 1997) hoặc axit hydrochloric 5% (Vertucci 1978, Peroca 1992). Sử dụng dung dịch axit mạnh như hydrochloric, nitric làm rút ngắn thời gian khử khoáng trong vòng vài ngày, nhưng dễ dẫn đến hòa tan luôn cả một phần khuôn hữu cơ; trong khi dùng dung dịch axit yếu như formic thì thời gian khử khoáng dài hơn, nhưng ổn định hơn. Sự co lại của mô hữu cơ của răng có thể xảy ra trong quá trình khử khoáng, và để làm giảm bớt tác dụng này theo Robertson 1980 nên sử dụng dung dịch axit nồng độ thấp. Ngược lại, Gupta và cộng sự (2014) khuyên nên sử dụng axit nitric để khử khoáng vì nhận thấy một số mẫu răng khử khoáng bằng axit formic có hiện tượng tắc nghẽn ống tủy sau khử khoáng, nhưng không thấy ở những mẫu khử khoáng bằng axit nitric. Các tác giả cũng nhận thấy axit nitric có nhược điểm khác là làm mẫu răng trong hơi ngả vàng(1). Tuy nhiên, thiết kế nghiên cứu của Gupta là khử khoáng, làm trong rồi mới bơm mực vào ống tủy. Do đó, nếu thiết kế theo kiểu khác như bơm mực trước khi khử khoáng và làm trong khi hiện tượng tắc nghẽn ống tủy này không ảnh hưởng gì đến chất lượng mẫu răng. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng axit nitric 5% ngâm trong 1 ngày, sau đó ngâm trong axit formic vì ngâm trong axit nitric thì khử khoáng nhanh hơn, dễ dẫn đến phân hủy phần chóp chân răng trong khi phần thân răng chưa khử khoáng đủ. Vấn đề này thường gặp khi thực hiện tiêu bản các răng cối lớn hàm trên và dưới. Còn nếu chỉ sử dụng axit formic thì thời gian khử khoáng quá dài, hơn một tháng. Để làm trong tiêu bản có thể sử dụng methyl salicylate, xylene, eugenol, benzene. Hasselgren và Tronstad (1975) nhận thấy ngâm răng sau khử khoáng vào xylene trong 2 tuần hoặc lâu hơn thì tiêu bản có độ cứng đủ cho sinh viên có thể thực hành tiền lâm sàng Nội nha trên tiêu bản. Trong nghiên cứu này, các răng được làm trong và làm cứng bằng xylene trong 4 tuần. Chúng tôi nhận thấy tiêu bản có độ cứng vừa phải, chấp nhận được, có thể đưa trâm nội nha vào sửa soạn ống tủy. Tuy nhiên tiêu bản dễ bị phá hủy khi sinh viên thực hiện trám bít do động tác lèn ngang khá mạnh. Sau khi ngâm trong xylene, tiêu bản được ngâm trong methyl salicylate để bảo quản. Trong khi quan sát hoặc thực hành, tiêu bản bị mờ dần, chỉ cần nhúng vào methyl salicylate thì tiêu bản trở lại trong suốt. Trong quá trình sử dụng răng trong suốt trong giảng dạy, đa số sinh viên (18/20) khi đến quan sát các tiêu bản răng trong suốt cảm thấy dễ hiểu hơn về giải phẫu hốc tủy sau khi quan sát các tiêu bản. Tất cả đều thấy hệ thống các ống tủy quá phức tạp, điều này có thể làm sinh viên e ngại đối với điều trị nội nha vì thấy công việc phức tạp, khó khăn. Tuy nhiên, nhận thức được Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 11 sự phức tạp của hệ thống ống tủy sẽ giúp sinh viên có ý thức hơn về các biến thể có thể gặp trong điều trị, tránh bỏ sót ống tủy và tỉ mỉ hơn trong hành nghề Nội nha sau này. Bước đầu mới chỉ có một số sinh viên được thao tác trên tiêu bản, nhưng hầu hết nhóm sinh viên này (17/20) cho biết răng trong suốt giúp việc học dễ dàng hơn. Quan sát trong khi thao tác dụng cụ trong các ống tủy, nhất là những ống tủy cong, những ống tủy phân nhánh giúp sinh viên hiểu được các thao tác thực hành và chú ý, cẩn trọng hơn trong thao tác. Hình 1: Một số tiêu bản răng trong suốt minh họa 4 phân loại ống tủy theo Weine 1969, từ trái sang phải: loại I một ống tủy, loại II hai ống tủy nhập lại thành một, loại III hai ống tủy riêng biệt, loại IV một ống tủy tách thành hai. Hình 2: Thực hành sửa soạn ống tủy trên tiêu bản răng trong suốt Nói chung, phản ứng của sinh viên là thuận lợi, hứng thú với việc sử dụng răng trong suốt, khuyến khích chúng tôi sẽ tiếp tục thực hiện thêm nhiều tiêu bản nữa để có thêm phương tiện phục vụ giảng dạy Nội nha được tốt hơn. KẾT LUẬN Thực nghiệm nhuộm màu hốc tủy và làm trong răng được 60 tiêu bản răng trong suốt gồm tất cả các nhóm răng, chúng tôi nhận thấy: - Đây là phương pháp có tỉ lệ thành công cao, sản phẩm thu được là các răng trong suốt bộc lộ đầy đủ các chi tiết của hốc tủy và đủ cứng để áp dụng trong thực hành tiền lâm sàng cho sinh viên. - Sử dụng tiêu bản răng trong suốt trong giảng dạy Nội nha nhận được phản hồi tích cực từ người học. Nên tiếp tục thực hiện thêm nhiều tiêu bản để làm phương tiện giảng dạy. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Gupta B, Tiwari B, Raj V, Kashyap B, Chandra S, Dwivedi N (2014). Transparent tooth model: A study of root canal morphology using different reagents. European Journal of General Dentistry 3(1): 66-70. 2. Hasselgren G, Tronstad L (1975). The use of transparent teeth in the teaching of preclinical endodontics. J Endod 1(8): 278- 280. 3. Nguyễn Văn Phước (1994). Bước đầu nghiên cứu giải phẫu hốc tủy và liên quan của nó với hình thể ngoài của răng cối nhỏ thứ nhất hàm trên. Luận văn chuyên khoa cấp 1, Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y dược TPHCM. 4. Phan Thùy Ngân (2011). Đặc điểm hình thái hốc tủy răng cối nhỏ thứ nhất hàm dưới. Luận văn thạc sỹ, Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TPHCM. 5. Tạ Tố Trân (2004). Hình thái hốc tủy răng cửa giữa và răng nanh hàm trên. Nghiên cứu trên răng thật được làm trong suốt. Khóa luận tốt nghiệp bác sĩ RHM, Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TPHCM. 6. Versiani M (2012). anatomy-brief-history.html 7. Vertucci FJ (1984). Root canal anatomy of the human permanent teeth. Oral Surg. 58: 589-599. 8. Walker RT (1987). A comparative investigation of the root number and canal anatomy of permanent teeth in a Southern Chinese. PhD dissertation at Hong Kong University. Ngày nhận bài báo: 09/02/2015 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/02/2015 Người phản biện: PGS-TS Hoàng Đạo Bảo Trâm Ngày bài báo được đăng: 10/04/2015

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfsu_dung_rang_trong_suot_trong_giang_day_noi_nha.pdf