Để đánh giá chất lượng HTTTKT, cách tiếp cận phổ
biến hiện nay là đánh giá thông qua sự hài lòng của người
sử dụng đối với HTTTKT. Sự hài lòng của người sử dụng
là cảm nhận của họ về khả năng đáp ứng nhu cầu của
HTTTKT thông qua chất lượng thông tin kế toán, chất
lượng hệ thống xử lý thông tin, chất lượng đội ngũ người
làm công tác kế toán và nhận thức của người sử dụng về
tính hữu ích của HTTTKT.
Để đánh giá chất lượng của HTTTKT tại các doanh
nghiệp trên địa bàn Đà Nẵng, nghiên cứu này đã thực hiện
khảo sát sự hài lòng của lãnh đạo doanh nghiệp và lãnh
đạo bộ phận kế toán đối với HTTTKT. Kết quả cho thấy,
HTTTKT chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu và sự mong
đợi của người sử dụng. Do đó, muốn nâng cao chất lượng
của HTTTKT, các doanh nghiệp cần chú trọng nâng cao
chất lượng đội ngũ người làm công tác kế toán, nhận diện
đầy đủ yêu cầu của người sử dụng thông tin kế toán và
nâng cấp hệ thống xử lý thông tin kế toán theo định hướng
quản lý tổng thể. Đồng thời, lãnh đạo doanh nghiệp và
lãnh đạo bộ phận kế toán cần quan tâm hơn nữa đến việc
đầu tư nâng cao chất lượng HTTTKT, có như vậy,
HTTTKT mới phát huy được đầy đủ chức năng của mình,
góp phần vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động và sự
thành công của doanh nghiệp.
5 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 503 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự hài lòng của người sử dụng hệ thống thông tin kế toán: nghiên cứu tại các doanh nghiệp trên địa bàn Đà Nẵng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 4(125).2018 41
SỰ HÀI LÒNG CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG HỆ THỐNG THÔNG TIN KẾ TOÁN:
NGHIÊN CỨU TẠI CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN ĐÀ NẴNG
USER SATISFACTION OF ACCOUNTING INFORMATION SYSTEMS:
RESEARCH ON ENTERPRISES IN DA NANG
Huỳnh Thị Hồng Hạnh
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng; hanh.hh@due.edu.vn
Tóm tắt - Sự hài lòng của người sử dụng hệ thống thông tin kế
toán (HTTTKT) thể hiện đánh giá của họ đối với chất lượng thông
tin kế toán, chất lượng hệ thống xử lý thông tin, chất lượng đội ngũ
người làm kế toán và nhận thức của người sử dụng về tính hữu
ích của HTTTKT. Nhằm đánh giá chất lượng của HTTTKT tại các
doanh nghiệp trên địa bàn Đà Nẵng, nghiên cứu này thực hiện
khảo sát sự hài lòng của lãnh đạo doanh nghiệp và lãnh đạo bộ
phận kế toán đối với HTTTKT. Kết quả cho thấy, HTTTKT chưa
đáp ứng được đầy đủ yêu cầu và sự mong đợi của người sử dụng.
Do đó, nghiên cứu này đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng của
HTTTKT thông qua việc nâng cao chất lượng đội ngũ kế toán, nhận
diện đầy đủ yêu cầu của người sử dụng và nâng cấp hệ thống xử
lý thông tin kế toán theo định hướng quản lý tổng thể.
Abstract - The user satisfaction of the accounting information
systems (AIS) is reflected in the user assessment of the quality of
accounting information, information processing system and the
quality of the accountants as well as the user awareness of the
usefulness of AIS. In order to assess the quality of AIS of
enterprises in Da Nang, this study has conducted a survey on the
satisfaction of leaders of enterprises and chiefs of accountants.
The results show that the AIS has not met the requirements and
expectations of users. Therefore, this study proposes measures to
improve the quality of the AIS by improving the quality of the
accounting staff, fully identifying the requirements of users and
upgrading the accounting information processing system based on
ERP system.
Từ khóa - sự hài lòng; hệ thống thông tin; kế toán; người sử dụng;
chất lượng; khảo sát
Key words - satisfaction; information system; accounting; user;
quality; survey
1. Đặt vấn đề
HTTTKT là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ
thống thông tin (HTTT) quản lý, có chức năng thu thập, xử
lý dữ liệu kế toán và các dữ liệu liên quan khác để tạo ra
thông tin nhằm góp phần bảo vệ, khai thác và sử dụng hiệu
quả các nguồn lực của tổ chức. HTTTKT tham gia vào tất
cả các khâu của quá trình quản lý, từ việc lập kế hoạch đến
tổ chức thực hiện, kiểm soát, phân tích và ra quyết định.
Như vậy, một HTTTKT được quan tâm xây dựng và vận
hành có chất lượng sẽ góp phần rất lớn trong việc nâng cao
hiệu quả hoạt động của bất kỳ doanh nghiệp nào.
Tuy nhiên, tại Việt Nam có rất ít nghiên cứu về đánh giá
HTTTKT, do bản thân việc đánh giá chất lượng HTTTKT là
một vấn đề khá mới mẻ và phức tạp, xuất phát từ khó khăn
trong việc định lượng các tác động của nhiều nhân tố khác
nhau đến HTTTKT. Đo lường chất lượng của một HTTT nói
chung, HTTTKT nói riêng hiện nay thường dựa vào bản
chất, quá trình xử lý thông tin và kết quả thông tin đầu ra của
HTTT. Theo đó, chất lượng của một HTTT được đánh giá
căn cứ vào khả năng đáp ứng các yêu cầu của người sử dụng
thông tin trong việc thực hiện công việc (Sajady và Dastgis,
2008) hay nói cách khác là thông qua mức độ hài lòng của
người sử dụng để đánh giá chất lượng của HTTT.
Do đó, mục đích của nghiên cứu này trước hết sẽ nhận
diện các nội dung để đánh giá sự hài lòng của người sử
dụng, sau đó sẽ khảo sát những người sử dụng HTTTKT
tại các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng để
phân tích, đánh giá mức độ hài lòng của họ đối với
HTTTKT hiện nay tại các doanh nghiệp, từ đó đưa ra các
khuyến nghị góp phần nâng cao chất lượng của HTTTKT.
2. Sự hài lòng của người sử dụng đối với HTTTKT
Sự hài lòng của người sử dụng là sự đáp ứng mang lại
cảm giác thích thú, nói cách khác, người sử dụng thấy rằng
việc sử dụng sản phẩm/dịch vụ đáp ứng được một số nhu
cầu, mong muốn, mục tiêu của họ và điều đó làm cho họ
cảm thấy thích thú, hài lòng (Oliver, 1989). Sự hài lòng còn
được coi là mức độ trạng thái cảm giác của một người bắt
nguồn từ việc so sánh kết quả thu được từ sản phẩm/dịch
vụ với những kỳ vọng của người đó.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về sự hài lòng, nhưng
tất cả cùng thống nhất sự hài lòng ở ba điểm chung là:
(1) sự hài lòng của người sử dụng là một phản ứng (cảm
xúc hoặc nhận thức) với cường độ khác nhau; (2) phản ứng
dựa trên đánh giá lợi ích, việc đánh giá dựa trên kỳ vọng
của sản phẩm, kinh nghiệm tiêu thụ và (3) phản ứng xảy
ra tại một thời điểm cụ thể (sau khi sử dụng, sau khi lựa
chọn, dựa trên kinh nghiệm tích lũy) (Giese va Joseph,
2000). Như vậy, mức độ hài lòng là sự tương quan giữa kết
quả cảm nhận được (lợi ích thực tế) và kỳ vọng của người
sử dụng. Nếu lợi ích thực tế lớn hơn hoặc bằng kỳ vọng thì
người sử dụng hài lòng cao hơn mong đợi hoặc hài lòng.
Nếu lợi ích thực tế thấp hơn kỳ vọng, người sử dụng sẽ cảm
thấy thất vọng.
Trên thế giới có một số nghiên cứu tiêu biểu đã đề xuất
mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của người
sử dụng đối với HTTT như DeLone và McLean (2003),
Seddon và Kiew (1996), Một số nghiên cứu thực
nghiệm khác vận dụng mô hình đã được xây dựng có điều
chỉnh trong thực tế để kiểm tra mức độ tác động của các
nhân tố đến sự hài lòng của người sử dụng đối với HTTT
như nghiên cứu của Halawi và cộng sự (2007), Rai và cộng
sự (2002), Seddon và Kiew (1996)
Một số nghiên cứu vận dụng mô hình sự hài lòng của
người sử dụng đối với HTTT trong điều kiện Việt Nam như
nghiên cứu của tác giả Ngụy Thị Hiền, Phạm Quốc Trung
42 Huỳnh Thị Hồng Hạnh
(2013), Nguyễn Hữu Hoàng Thọ (2012), Tổng hợp các
nhân tố tác động đến sự hài lòng của người sử dụng HTTT
từ các nghiên cứu trước được trình bày ở Bảng 1.
Bảng 1. Tổng hợp các nghiên cứu về những nhân tố tác động
đến sự hài lòng của người sử dụng HTTT
Nhân tố Nghiên cứu tiêu biểu
Chất
lượng
thông tin
DeLone & McLean (2003), Seddon & Kiew (1996),
Rai và cộng sự (2002), Wu & Wang (2006), Halawi và
cộng sự (2007), Chiu và cộng sự (2007), Hsieh &
Wang (2007)
Chất
lượng hệ
thống
DeLone & McLean (2003), Seddon & Kiew (1996),
Rai và cộng sự (2002), Wu & Wang (2006), Halawi và
cộng sự (2007), Chiu và cộng sự (2007), Hsieh &
Wang (2007), Leclercq (2007), Yael và cộng sự
(2016)
Chất
lượng
dịch vụ
DeLone & McLean (2003), Halawi và cộng sự (2007),
Leclercq (2007), Gorla and Somes (2014)
Sử dụng
hệ thống
DeLone & McLean (2003), Guimaraes và cộng sự
(1996), Chiu và cộng sự (2007), Halawi và cộng sự
(2007)
Chất
lượng
đội ngũ
Zhang và cộng sự (2005), Nguy & Pham (2013), Yael
và cộng sự (2016)
Nhận
thức về
tính hữu
ích
DeLone & McLean (2003), Seddon & Kiew (1996),
Rai và cộng sự (2002), Guimaraes và cộng sự (1996),
Wu & Wang (2006), Hsieh & Wang (2007), Leclercq
(2007), Gorla and Somes (2014), Yael và cộng sự
(2016)
Trên quan điểm xem HTTTKT là một HTTT, các
nghiên cứu trong và ngoài nước về sự hài lòng của người
sử dụng HTTT được kế thừa trong nghiên cứu này. Tuy
nhiên, HTTTKT có những đặc thù riêng nên đánh giá sự
hài lòng của người sử dụng HTTTKT cũng có những khác
biệt so với những nghiên cứu chung về HTTT.
Trước hết, với chức năng quan trọng nhất của HTTTKT
là cung cấp thông tin, do đó nhân tố chất lượng thông tin
sẽ là nội dung quan trọng nhất khi đánh giá sự hài lòng của
người sử dụng HTTTKT. Tiêu chí đo lường chất lượng
thông tin được Bailey và Pearson (1983) đưa ra gồm: chính
xác, đầy đủ, luân chuyển, kịp thời, tin cậy, hoàn thiện, súc
tích, định dạng và phù hợp. Nghiên cứu này sau đó được
tổng hợp và bổ sung thêm bởi DeLone và McLean (2003)
với các tiêu chí: trọng yếu, hữu ích, tính thông tin, tính lợi
ích, dễ hiểu, dễ đọc, rõ ràng, ngắn gọn, độc đáo, so sánh
được Eppler và Wittig (2000) thực hiện tổng hợp các
nghiên cứu về chất lượng thông tin trong khoảng thời gian
10 năm từ 1989 - 1999 cho thấy các tiêu chuẩn chất lượng
thông tin thường bao gồm: kịp thời, có thể truy cập, khách
quan, phù hợp, chính xác, nhất quán và đầy đủ.
Ngoài các tiêu chí đánh giá chất lượng thông tin nói
chung, chất lượng thông tin kế toán có thể có những đặc
thù riêng xuất phát từ chức năng thông tin và kiểm tra về
sự hình thành và vận động của tài sản. Tiêu biểu như quan
điểm của Hội đồng Chuẩn mực kế toán tài chính Hoa Kỳ
(FASB), chất lượng thông tin được chia làm 2 nhóm đặc
điểm bao gồm: (1) đặc điểm cơ bản gồm thích hợp và đáng
tin cậy; (2) nhóm các đặc điểm thứ yếu là nhất quán và có
thể so sánh được. Theo quan điểm của Hội đồng Chuẩn
mực kế toán quốc tế (IASB) thì các đặc điểm của chất
lượng thông tin trên báo cáo tài chính gồm: (1) có thể hiểu
được, (2) thích hợp, (3) đáng tin cậy và (4) có thể so sánh
được. Quan điểm hội tụ IASB-FASB năm 2004 xác định 2
đặc điểm chất lượng cơ bản là: thích hợp và trình bày trung
thực; 4 đặc điểm bổ sung là: có thể so sánh, có thể kiểm
chứng, kịp thời, có thể hiểu được. Chất lượng thông tin
được trình bày ở nội dung “các yêu cầu cơ bản đối với kế
toán” ở Chuẩn mực kế toán Việt Nam bao gồm: trung thực,
khách quan, đầy đủ, kịp thời, dễ hiểu và có thể so sánh.
Thứ hai, thông tin kế toán là kết quả đầu ra của quá trình
xử lý thông tin, trong đó các yếu tố thể hiện trình độ kỹ
thuật của hệ thống sẽ ảnh hưởng quá trình tạo lập thông tin.
Do đó, chất lượng hệ thống sẽ là nhân tố tác động đến sự
hài lòng của người sử dụng vì người sử dụng thông tin
thường có nhận thức rằng thông tin chất lượng chỉ có thể
được cung cấp từ một HTTT có chất lượng.
Một số tiêu chí đánh giá chất lượng hệ thống xử lý
thông tin xuất hiện trong các nghiên cứu của tác giả
DeLone và McLean (2003), Halawi và cộng sự (2007) là
tốc độ xử lý, độ tin cậy, linh hoạt, tích hợp. Dựa trên những
tổng hợp về các nội dung đo lường chất lượng hệ thống của
tác giả DeLone và McLean, các tác giả nghiên cứu sau đó
đã đo lường chất lượng hệ thống với các tiêu chí như: dễ
sử dụng, dễ đọc, tính chính xác của hệ thống, tính linh hoạt,
sự tinh tế, tích hợp Một chỉ tiêu khác là tính bảo mật, tuy
ít xuất hiện trong các nghiên cứu nhưng xét trong điều kiện
ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong quản lý, đặc
tính này cần được bổ sung để phù hợp hơn với bối cảnh
mới của người sử dụng thông tin.
Thứ ba, con người là một trong những yếu tố cấu thành
cơ bản của HTTTKT. Do đó, con người đóng vai trò cực
kỳ quan trọng, tác động đến chất lượng của HTTTKT.
Đáng chú ý, khi nghiên cứu ở Việt Nam, một quốc gia đang
phát triển, đội ngũ kế toán có trình độ chưa đồng đều thì sự
hài lòng của người sử dụng đối với HTTTKT sẽ chịu ảnh
hưởng của nhân tố Chất lượng đội ngũ làm công tác kế
toán. Nghiên cứu của Ngụy Thị Hiền, Phạm Quốc Trung
(2013) đề xuất nội dung đánh giá chất lượng đội ngũ là:
Đào tạo và huấn luyện, sự tham gia của người dùng, và
năng lực và sự hiểu biết của người dùng. Trong nghiên cứu
của Zhang và cộng sự (2005), chất lượng đội ngũ thể hiện
ở: trình độ học vấn, đặc điểm, định hướng kỹ thuật và định
hướng kinh doanh.
Thứ tư, mức độ hài lòng là sự tương quan giữa kết quả
cảm nhận được (lợi ích thực tế) và kỳ vọng của người sử
dụng. Sự hài lòng của người sử dụng còn được quyết định
bởi chính nhận thức của họ về tính hữu ích và hiệu quả mà
HTTTKT mang lại. Đó là nhận thức hay cảm nhận của
người sử dụng về vai trò của HTTTKT trong việc hỗ trợ ra
quyết định, nâng cao năng suất lao động, tăng doanh thu,
giảm chi phí, tạo ra việc làm, tạo ra sự thoải mái trong công
việc, tiết kiệm thời gian, DeLone và McLean (2003),
Seddon và Kiew (1996), Rai và cộng sự (2002).
Trong các nghiên cứu trước đây, nhân tố “Chất lượng
dịch vụ” và “Sử dụng hệ thống” cũng được xem là nhân tố
ảnh hưởng đến sự hài lòng của người sử dụng đối với
HTTT. Điều này xuất phát từ việc đối tượng của các nghiên
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 4(125).2018 43
cứu này hầu hết là người dùng cuối của HTTT đặc thù như
các trang web, phần mềm, Đối với những HTTT này,
người dùng cuối có liên hệ trực tiếp với nhà cung cấp để
phản hồi về chất lượng cung cấp dịch vụ của hệ thống nhằm
nhận được sự hỗ trợ của nhà cung cấp để sử dụng hệ thống
hiệu quả và thuận lợi. Ngoài ra, nhân tố “Sử dụng hệ thống”
không phù hợp khi đánh giá sự hài lòng của người dùng đối
với HTTTKT khi việc sử dụng thông tin kế toán được xem
là bắt buộc đối với người dùng.
3. Đánh giá sự hài lòng của người sử dụng HTTTKT tại
các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
3.1. Thiết kế nghiên cứu
Mặc dù trong doanh nghiệp có nhiều nhóm đối tượng
sử dụng thông tin kế toán như lãnh đạo các phòng, ban chức
năng khác nhau, các bộ phận tác nghiệp, nhưng lãnh đạo
doanh nghiệp và lãnh đạo bộ phận kế toán là hai nhóm đối
tượng sử dụng thông tin kế toán nhiều nhất để ra các quyết
định. Do đó, nghiên cứu này lựa chọn đối tượng khảo sát
là lãnh đạo doanh nghiệp và lãnh đạo bộ phận kế toán tài
chính tại các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng,
nhằm đánh giá mức độ hài lòng của họ đối với HTTTKT
tại đơn vị công tác thông qua đánh giá chất lượng thông tin
kế toán, chất lượng hệ thống xử lý thông tin kế toán, năng
lực đội ngũ làm công tác kế toán và nhận thức về tính hữu
ích của HTTTKT.
Nội dung nghiên cứu được tác giả lựa chọn và thể hiện
dưới dạng Bảng câu hỏi khảo sát với 23 câu hỏi tương ứng
với các nội dung để đánh giá sự hài lòng của người sử dụng
đối với HTTTKT.
Nghiên cứu này dự kiến kích thước mẫu là 200, với
phương pháp chọn mẫu theo mục đích kết hợp với chọn
mẫu thuận tiện dựa trên sự giới thiệu của phần tử này đến
phần tử khác. Phương pháp thu thập thông tin chủ yếu
thông qua phỏng vấn trực tiếp và phỏng vấn bằng thư tín.
3.2. Mẫu nghiên cứu
Việc khảo sát được thực hiện trong năm 2017 với 250
phiếu khảo sát, trong đó có 10 phiếu bị loại do không trả
lời đầy đủ hoặc trả lời không logic. Như vậy, 240 phiếu hợp
lệ được sử dụng cho nghiên cứu chính thức.
Trong 240 người tham gia khảo sát có 115 người là
lãnh đạo doanh nghiệp (giám đốc hoặc phó giám đốc),
chiếm tỷ lệ 47,9%; 125 người là trưởng, phó phòng kế
toán tài chính, chiếm tỷ lệ 52,1%. Những người được
khảo sát làm việc tại các doanh nghiệp trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng, nên các doanh nghiệp thuộc phạm vi khảo
sát mang nhiều đặc thù của địa bàn. Trong tổng số 139
doanh nghiệp được khảo sát có tới 41% là doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực du lịch và dịch vụ, còn lại là các
doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng, sản xuất và các
lĩnh vực khác. Quy mô các doanh nghiệp khảo sát chủ yếu
là doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm tới 85,6%; số doanh
nghiệp có quy mô lớn chiếm chưa tới 15%.
Phần lớn các doanh nghiệp khảo sát đã sử dụng phần
mềm kế toán (chiếm gần 80%), chỉ có khoảng 10/139
(7,2%) doanh nghiệp vẫn còn sử dụng excel trong xử lý
1 Ý nghĩa “Mean” trong thang đo: từ 1,00-1,80: “rất kém”; 1,81-2,60: “kém”; 2,61-3,40: “bình thường”; 3,41-4,20: “tốt”; 4,21-5,00: “rất tốt”.
thông tin kế toán. Số còn lại (khoảng 13%) các doanh
nghiệp đã đầu tư phần mềm quản lý tổng thể.
Với quy mô doanh nghiệp chủ yếu là vừa và nhỏ nên số
lượng người làm công tác kế toán ở mỗi doanh nghiệp khá
ít, với 63,3% doanh nghiệp có dưới 5 người, 21,6% doanh
nghiệp có từ 5-10 người và chỉ có 15,1% doanh nghiệp có
trên 10 người làm công tác kế toán.
3.3. Kết quả nghiên cứu
Để đánh giá mức độ hài lòng của các đối tượng được
khảo sát về HTTTKT, nghiên cứu này thực hiện việc phân
tích dữ liệu bằng phần mềm SPSS với chỉ số cơ bản để đánh
giá là trị số trung bình (Mean). Với Bảng câu hỏi sử dụng
thang đo Likert 5 mức, sắp xếp theo sự tăng dần từ 1 -
“hoàn toàn không đồng ý” đến 5 - “hoàn toàn đồng ý”, đối
với một số câu hỏi, có thể xem mức độ đánh giá của người
sử dụng với các nhận định về sự hài lòng đối với HTTTKT
tương ứng với mức từ “rất kém” đến “rất tốt”1. Kết quả
khảo sát (Bảng 2) cho thấy mức độ hài lòng của người sử
dụng đối với các nội dung khảo sát có sự khác biệt khá lớn.
Bảng 2. Mức độ hài lòng của người sử dụng đối với HTTTKT
Nội dung đánh giá Trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Chất lượng thông tin kế toán
Phù hợp 3,31 0,923
Chính xác 3,34 0,882
Tin cậy 3,51 0,792
Đầy đủ 3,23 0,887
Dễ hiểu 3,06 0,718
Kịp thời 3,35 0,809
So sánh được 3,57 0,879
Chất lượng hệ thống
Tốc độ xử lý 3,77 0,928
Độ tin cậy 3,49 0,887
Linh hoạt 3,51 0,937
Tích hợp 3,60 0,923
Bảo mật 3,73 0,904
Chất lượng đội ngũ làm công tác kế toán
Trình độ chuyên môn 2,72 0,957
Đào tạo và huấn luyện 3,25 0,926
Trình độ công nghệ thông tin 2,64 1,046
Kinh nghiệm công tác 3,03 0,711
Nhận thức về tính hữu ích của HTTTKT
Hỗ trợ tích cực trong hoạt động quản lý 2,61 0,953
Kết nối các hoạt động của DN 2,65 0,894
Nâng cao hiệu quả hoạt động 2,55 0,837
Góp phần vào thành công của DN 2,62 0,893
Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu bằng SPSS
Chất lượng thông tin kế toán và chất lượng hệ thống xử
lý được đánh giá tương đối tốt, trong khi chất lượng đội
ngũ làm công tác kế toán và nhận thức về vai trò của
HTTTKT chỉ nhận được mức đánh giá trung bình. Bên
cạnh đó, với độ lệch chuẩn khá cao, dao động từ mức 0,8
đến 1,0 cho thấy có sự khác biệt trong đánh giá giữa những
người khảo sát ở các doanh nghiệp khác nhau.
Về chất lượng thông tin kế toán, với mức đánh giá ở
thang điểm trung bình dao động từ 3,06 đến 3,57, cho thấy
44 Huỳnh Thị Hồng Hạnh
người sử dụng HTTTKT (lãnh đạo doanh nghiệp và lãnh
đạo bộ phận kế toán tài chính) đánh giá thông tin kế toán
đáp ứng được yêu cầu của họ ở mức độ trung bình đến tốt.
Trong đó, đặc tính “tin cậy” và khả năng “so sánh được”
của thông tin kế toán được người sử dụng hài lòng nhất,
đánh giá tốt nhất với mức đánh giá trung bình là trên 3,5.
Người sử dụng cũng thể hiện ý kiến chưa thật sự hài lòng
với yêu cầu “dễ hiểu” và “đầy đủ” của thông tin kế toán
được cung cấp.
Đáng chú ý từ kết quả nghiên cứu là việc đánh giá khá
tốt của người sử dụng đối với chất lượng hệ thống xử lý
thông tin kế toán. Với mức đánh giá trung bình từ 3,49 đến
3,77 cho thấy, những người được khảo sát hài lòng với chất
lượng hệ thống xử lý thông tin kế toán, nhất là ở tốc độ xử
lý của hệ thống. Mặc dù phần lớn người được khảo sát làm
việc tại các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, việc ứng dụng
thông tin chưa phải ở trình độ cao (cơ bản vẫn chỉ sử dụng
phần mềm kế toán riêng lẻ) nhưng kết quả khảo sát phần nào
cho thấy được cảm nhận của người được khảo sát về sự thay
đổi tích cực, theo chiều hướng tốt hơn trong việc tổ chức hệ
thống xử lý thông tin kế toán so với trước đây.
Kết quả khảo sát cũng ghi nhận những đánh giá của
người được khảo sát về chất lượng đội ngũ những người
làm công tác kế toán tại đơn vị - là nhân tố trung tâm, góp
phần rất quan trọng trong việc tạo lập chất lượng của
HTTTKT. Kết quả khảo sát cho thấy thực trạng về nguồn
nhân lực kế toán tại các doanh nghiệp trên địa bàn Đà Nẵng
không được đánh giá cao. Với mức đánh giá chỉ từ 2,64
đến 3,25 cho các nội dung đánh giá chất lượng đội ngũ
(thông qua trình độ chuyên môn, trình độ công nghệ thông
tin, kinh nghiệm công tác và công tác đào tạo bồi dưỡng
của đơn vị) cho thấy, lãnh đạo đơn vị và lãnh đạo bộ phận
kế toán đánh giá chất lượng đội ngũ ở mức “bình thường”,
chỉ đáp ứng những yêu cầu cơ bản của công việc, chứ chưa
thật sự hài lòng về đội ngũ, chưa đáp ứng đúng kỳ vọng của
người được khảo sát.
Trong nghiên cứu này, tác giả cũng khảo sát sự cảm
nhận của người sử dụng về vai trò, tính hữu ích của
HTTTKT. Kết quả khảo sát cho thấy mức độ đồng ý với
các phát biểu về vai trò, tính hữu ích của HTTTKT đều rất
thấp, chỉ trong khoảng 2,55 đến 2,65. Điều đó cho thấy có
khá nhiều người được khảo sát chọn thang điểm 2/5, tương
ứng mức “không đồng ý” với nhận định cho rằng HTTTKT
có vai trò hỗ trợ tích cực trong hoạt động quản lý, giúp nâng
cao hiệu quả hoạt động, góp phần vào thành công của
doanh nghiệp. Nói cách khác, những người được khảo sát
không đánh giá cao vai trò và tính hữu ích của HTTTKT
đối với hoạt động của doanh nghiệp.
Bên cạnh việc ghi nhận ý kiến của người được khảo sát
về chất lượng thông tin kế toán, chất lượng hệ thống xử lý
thông tin, chất lượng đội ngũ người làm công tác kế toán
và nhận thức về tính hữu ích của HTTTKT, nghiên cứu này
cũng khảo sát về mức độ hài lòng chung của người được
khảo sát đối với HTTTKT. Các tiêu chí đo lường có thể
thông qua đánh giá việc thực hiện chức năng của hệ thống,
khả năng đáp ứng sự mong đợi của người sử dụng hay sự
hài lòng chung của họ đối với hệ thống (Ives và cộng sự,
1983; Seddon và Kiew, 1996; DeLone và McLean, 2003).
Kết quả khảo sát thể hiện ở Bảng 3.
Bảng 3. Mức độ hài lòng chung của người sử dụng
đối với HTTTKT
Nội dung đánh giá Trung bình Độ lệch chuẩn
Thực hiện tốt chức năng 2,76 0,842
Đáp ứng được mong đợi 2,88 0,886
Hài lòng về HTTTKT 2,73 0,898
Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu bằng SPSS
Mặc dù những người được khảo sát có đánh giá tương
đối tốt về chất lượng hệ thống xử lý thông tin kế toán hiện
nay tại các doanh nghiệp, nhưng họ không đánh giá cao
chất lượng thông tin kế toán, chất lượng đội ngũ kế toán,
và nhất là cảm nhận của họ về vai trò và tính hữu ích của
HTTTKT trong hoạt động của doanh nghiệp còn khá mờ
nhạt. Chính vì vậy, mức độ hài lòng chung của lãnh đạo
doanh nghiệp, lãnh đạo bộ phận kế toán tại các doanh
nghiệp trên địa bàn Đà Nẵng chưa cao, thể hiện qua thang
điểm đánh giá trung bình đối với các nội dung đánh giá, chỉ
trong khoảng từ 2,73 đến 2,88 (ở mức “bình thường”).
3.4. Hàm ý từ kết quả nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu mức độ hài lòng đối với HTTTKT
tại các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng cho
thấy, người sử dụng HTTTKT chưa thật sự hài lòng về chất
lượng của HTTTKT, nhất là chất lượng đội ngũ những
người làm công tác kế toán. Bên cạnh đó, thông tin kế toán
cũng chỉ mới đáp ứng được ở mức “bình thường” những
yêu cầu thông tin của người sử dụng, do đó vai trò và tính
hữu ích của HTTTKT đối với hoạt động của doanh nghiệp
là khá mờ nhạt.
Trong hoạt động của bất kỳ doanh nghiệp nào, vai trò
của HTTTKT là rất quan trọng trong việc cung cấp thông
tin kế toán hữu ích để quản lý, điều hành hiệu quả tất cả
các hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, vai trò đó chỉ
thực sự phát huy và được nhìn nhận khi doanh nghiệp có
một HTTTKT chất lượng, đáp ứng được mong muốn, yêu
cầu của những người sử dụng.
Từ kết quả khảo sát cho thấy, muốn nâng cao chất lượng
HTTTKT trước hết phải chú trọng cải thiện chất lượng đội
ngũ những người làm công tác kế toán tại doanh nghiệp. Khi
tuyển dụng mới doanh nghiệp cần chú trọng tiêu chuẩn tuyển
dụng cả về năng lực chuyên môn lẫn trình độ công nghệ
thông tin phù hợp với vị trí tuyển dụng. Đồng thời, doanh
nghiệp phải chú trọng khâu đào tạo, bồi dưỡng cho người
làm công tác kế toán trong suốt quá trình làm việc để đảm
bảo năng lực của đội ngũ đáp ứng tốt yêu cầu công việc.
Phân tích kết quả khảo sát cho thấy chất lượng thông
tin kế toán chưa đáp ứng tốt kỳ vọng của người sử dụng,
nhất là yêu cầu về sự đầy đủ, dễ hiểu và sự phù hợp. Do đó,
việc tìm hiểu tất cả những yêu cầu thông tin của các “khách
hàng” là rất quan trọng. Mỗi nhóm khách hàng từ lãnh đạo
cấp cao đến các bộ phận tác nghiệp có những yêu cầu rất
khác nhau đối với thông tin kế toán, về nội dung thông tin,
tính chính xác, tính kịp thời, dễ hiểu, tính tổng hợp và chi
tiết, mà trong quá trình hoàn thiện HTTTKT phải nhận
thức được đầy đủ những yêu cầu này.
Thêm vào đó, mặc dù kết quả khảo sát ghi nhận sự đánh
giá khá tốt của người sử dụng đối với chất lượng hệ thống,
nhưng thực tế với gần 80% doanh nghiệp sử dụng phần
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 4(125).2018 45
mềm kế toán riêng lẻ cho thấy việc đầu tư hệ thống xử lý
thông tin còn rất khiêm tốn. Có thể so với hệ thống xử lý
thủ công hay bằng excel trước đây thì việc ứng dụng phần
mềm kế toán là một bước tiến trong nâng cấp hệ thống xử
lý thông tin nhanh hơn, chính xác hơn, nhưng theo xu
hướng ứng dụng công nghệ thông tin hiện nay thì việc ứng
dụng phần mềm quản lý tổng thể mới có thể mang lại hiệu
quả toàn diện cho việc tổ chức thông tin quản lý nói chung,
HTTTKT nói riêng.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy chưa có đánh giá tích
cực của người được khảo sát về vai trò của HTTTKT. Điều
này có thể được giải thích là do chất lượng HTTTKT thực
sự chưa tốt, nên chưa phát huy được đầy đủ chức năng,
nhiệm vụ của hệ thống. Tuy nhiên, nếu sự đánh giá này
xuất phát từ nhận thức chủ quan của người được khảo sát
về tính hữu ích của HTTTKT thì việc hoàn thiện HTTTKT
tại doanh nghiệp sẽ khó khăn. Bởi lẽ, chỉ khi nào người
lãnh đạo nhận thức đầy đủ, đúng đắn vai trò, tầm quan
trọng của HTTTKT thì họ mới có những quyết định để đầu
tư thích đáng, nhằm nâng cao chất lượng của HTTTKT.
4. Kết luận
Để đánh giá chất lượng HTTTKT, cách tiếp cận phổ
biến hiện nay là đánh giá thông qua sự hài lòng của người
sử dụng đối với HTTTKT. Sự hài lòng của người sử dụng
là cảm nhận của họ về khả năng đáp ứng nhu cầu của
HTTTKT thông qua chất lượng thông tin kế toán, chất
lượng hệ thống xử lý thông tin, chất lượng đội ngũ người
làm công tác kế toán và nhận thức của người sử dụng về
tính hữu ích của HTTTKT.
Để đánh giá chất lượng của HTTTKT tại các doanh
nghiệp trên địa bàn Đà Nẵng, nghiên cứu này đã thực hiện
khảo sát sự hài lòng của lãnh đạo doanh nghiệp và lãnh
đạo bộ phận kế toán đối với HTTTKT. Kết quả cho thấy,
HTTTKT chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu và sự mong
đợi của người sử dụng. Do đó, muốn nâng cao chất lượng
của HTTTKT, các doanh nghiệp cần chú trọng nâng cao
chất lượng đội ngũ người làm công tác kế toán, nhận diện
đầy đủ yêu cầu của người sử dụng thông tin kế toán và
nâng cấp hệ thống xử lý thông tin kế toán theo định hướng
quản lý tổng thể. Đồng thời, lãnh đạo doanh nghiệp và
lãnh đạo bộ phận kế toán cần quan tâm hơn nữa đến việc
đầu tư nâng cao chất lượng HTTTKT, có như vậy,
HTTTKT mới phát huy được đầy đủ chức năng của mình,
góp phần vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động và sự
thành công của doanh nghiệp.
Lời cảm ơn
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển Khoa
học và Công nghệ Đại học Đà Nẵng trong đề tài mã số
B2016-DNA-13-TT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bailey, J. E. and Pearson, S. W., “Development of a Tool for
Measuring and Analyzing Computer User Satisfaction”,
Management Science, 29(5), 1983, pp. 530-545.
[2] Chiu C. M, Chiu C. S and Chang H. C., “Examining the Integrated
Influence of Fairness and Quality on Learners’ Satisfaction and Web Based
Learning Continuance Intention”, IS Journal, 17(3), 2007, pp. 271-287.
[3] DeLone, D. W. and McLean, E. R., “The DeLone and McLean
Model of Information Systems Success: A Ten-year Update”,
Journal of Management Information Systems, 19(4), 2003, pp. 9-30.
[4] Eppler, M. J., Wittig, D., A Review of Information Quality
Frameworks from The Last Ten Years, Net Academy, 2000.
[5] Giese, J. L. and Joseph, A. C. (), “Defining Consumer Satisfaction”,
Academy of Marketing Science Review, 1, 2000, pp.1-24.
[6] Gorla. M. and Somes. T. M, “The Impact of IT Outsourcing on IS
success”, Information and Management, 51(3), 2014, pp. 320-335.
[7] Guimaraes T., Yoon Y. and Clevenson A., “Factors Inportant to
Expert System Success: A Field Test”, Information and
Management, 30(3), 1996, pp. 119-130.
[8] Halawi, L. A., McCarthy, R. V. and Aronson, J. E., “An Empirical
Investigation of Knowledge Management Systems’ Success”, The
Journal of Computer Information Systems, 48(2), 2007, pp. 121-135.
[9] Hsieh JJPA and Wang W., “Explaining Employees’ Extended Use
of Complex IS”, European Journal of IS, 16(3), 2007, pp. 216-277.
[10] Ives, B. , Olson, M. H. and Baroudi, J. J., “The Measurement of User
Information Satisfaction”, Communications of the ACM, 26(10),
1983, pp. 785-793.
[11] Leclercq A., “The Perceptual Evaluation of IS Using The Construct
of User Satisfaction: Case Study of A LARGE FRENCH GROUP”,
The Database for Advances in IS, 38(2), 2007, pp. 27-60.
[12] Ngụy Thị Hiền, Phạm Quốc Trung, “Các nhân tố ảnh hưởng đến sự
thành công của dự án ERP tại Việt Nam”, Tạp chí Phát triển Khoa
học và Công nghệ, 16 (Q2-2013), 2013, pp. 57-66.
[13] Nguyễn Hữu Hoàng Thọ, “Các yếu tố tác động đến triển khai thành
công ERP tại Việt Nam: Một áp dụng cải tiến các yếu tố của mô hình
HTTT thành công”, Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, 72(3), 2012,
trang 343-353.
[14] Oliver, R. L., “Processing of the Satisfaction Response in
Consumption: A Suggested Framework and Research Propositions”,
Journal of Consumer Satisfaction, Dissatisfaction, and Complaining
Behaviour, 2(1), 1989, pp. 1-16.
[15] Rai A, Lang S. S. and Welker R. B., “Assessing The Validity of IS
Success Models: An Empirical Test and Theoretical Analysis”,
Information Systems Research, 13 (1), 2002, pp. 5-69.
[16] Sajady, H., Dastgir, M., “Evaluation of The Effectiveness of AIS”,
International Journal of Information Science & Technology, 6(2),
2008, pp. 49-59.
[17] Seddon P. B. and Kiew M.Y., “A Partial Test and Development of
DeLone McLean’s Model of IS Success”, Australian Journal of IS,
2, 1996, pp. 2-39.
[18] Wu J-H and Wang Y-M, “Measuring KMS Success: A
Respecification of The DeLone and McLean Model”, Information
and Management, 43(6), 2006, pp. 728-739.
[19] Yael Karlinsky-Shichor, M. Zviran, “Factor Influencing Perceived
Benefits and User Satisfaction in Knowledge Management
Systems”, IS management Journal, 33, Issue 1, 2016, pp. 55-73.
[20] Zhang, Z., Lee, M., Huang, P., Zhang L. & Huang, X., “A
Framework of ERP Systems Implementation Success in China: An
Empirical Study” , International Journal of Production Economics,
98, 2005, pp. 56-80.
(BBT nhận bài: 30/3/2018, hoàn tất thủ tục phản biện: 26/4/2018)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- su_hai_long_cua_nguoi_su_dung_he_thong_thong_tin_ke_toan_ngh.pdf