Sự hình thành và phát triển của pháp luật về thủ tục hành chính trong hoạt động thanh tra nhà nước

Theo lộ trình, Luật thanh tra dự kiến sẽ được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Phát triển ngành Thanh tra với lộ trình cụ thể, từng bước vững chắc, phù hợp với quá trình đổi mới hệ thống chính trị, cải cách hành chính, đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan thanh tra, là yêu cầu đặt ra đối với ngành thanh tra từ thể chế đến tổ chức, thực hiện trên thực tế. Trên đây là những nét chính trong sự hình thành và phát triển của pháp luật về thủ tục hành chính trong hoạt động thanh tra nhà nước từ năm 1945 đến nay. Nhìn lại lịch sử và đánh giá quá trình hình thành và phát triển của thanh tra nhà nước nói chung và pháp luật thủ tục hành chính trong hoạt động thanh tra nhà nước nói riêng trong hơn 70 năm qua là một việc làm thiết thực cả về lý luận và thực tiễn, góp phần cho việc làm sáng tỏ lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về thanh tra nhà nước nói chung, và pháp luật điều chỉnh thủ tục hành chính trong hoạt động thanh tra nhà nước nói riêng. Qua đó, đánh giá đầy đủ, toàn diện và sâu sắc hơn thực trạng pháp luật cũng như việc tổ chức thực hiện pháp luật về thủ tục hành chính trong hoạt động thanh tra, các ưu điểm, hạn chế của pháp luật và các vấn đề cần hoàn thiện.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 229 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự hình thành và phát triển của pháp luật về thủ tục hành chính trong hoạt động thanh tra nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá 4/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba 69 Các quy định của pháp luật về thủ tục hoạt động thanh tra nhà nước gắn liền với sự hình thành và phát triển của pháp luật thanh tra Việt Nam, bởi pháp luật là cơ sở để hình thành quan hệ thủ tục trong hoạt động thanh tra. Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của pháp luật thanh tra nói chung và pháp luật về thủ tục thực hiện hoạt động thanh tra nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá và hoàn thiện pháp luật thanh tra, góp phần nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra ở Việt Nam hiện nay. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về thủ tục hành chính trong hoạt động thanh tra được chia thành các giai đoạn sau: 1. Giai đoạn trước khi có Pháp lệnh thanh tra 1990 Ngay từ những ngày đầu hoạt động của chính quyền nhân dân mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hoà đã nhận được khá nhiều ý kiến từ các tầng lớp nhân dân phản ảnh bằng thư từ, đơn kiện hoặc gặp gỡ trực tiếp bày tỏ nguyện vọng cần sớm chấm dứt các hiện tượng, việc làm sai trái của một số nhân viên trong bộ máy chính quyền các cấp, nhất là ở các địa phương. Từ thực tế đó, ngày 04/10/1945, lần đầu tiên cuộc họp Hội đồng Chính phủ đã đưa ra vấn đề thành lập tổ chức Thanh tra. Ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 64-SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt. Với nhiệm vụ là giám sát tất cả các công việc và các nhân viên của các ủy ban nhân dân và các Tóm tắt: Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, các cơ quan Thanh tra Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng. Thanh tra là hoạt động liên quan chặt chẽ đến quyền và lợi ích của đối tượng bị thanh tra, cũng như phải đảm bảo các yêu cầu về tính khách quan, pháp chế, hiệu quả của quản lý nhà nước, do đó, trình tự, thủ tục, cách thức thực hiện hoạt động này phải được quy định chặt chẽ, nghiêm túc trong các quy định của pháp luật, trong đó có pháp luật về thủ tục hành chính. Bài viết sau nghiên cứu sự hình thành và phát triển của pháp luật thanh tra nói chung và pháp luật về thủ tục thực hiện hoạt động thanh tra nói riêng nhằm góp phần đánh giá và hoàn thiện pháp luật thanh tra, góp phần nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra ở Việt Nam hiện nay. Từ khóa: thanh tra, thủ tục hành chính, pháp luật thanh tra Nhận bài: 10/05/2018; Hoàn thành biên tập: 13/06/2018; Duyệt đăng: 24/07/2018 Abstract: In the process of developing and finalizing the Vietnam law-governed state of socialism recently, the state examination agencies have an important role. Examination is an activity closely relating to rights and interests of the examinees as well as ensuring requirements of objectiveness, legislation,effectiveness of state management. Therefore, order, procedure and method of implementing this activity must be closely, strictly regulated in legal regulations including the law on administrative procedure. The below article researches the formation and development of examination law in general and the law on procedure of implementing examination activity in particular to contribute to the assessment and finalization of examination law contributing to the improvement of examination activity’s effectiveness in Vietnam recently. Keywords: Examination,administrative procedure, examination law. Date of receipt: 10/05/2018; Date of revision: 13/06/2018; Date of approval: 24/07/2018 SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TRA NHÀ NƯỚC Nguyễn Thị Hồng Thúy1 1 Thạc sỹ, Phó Trưởng Khoa Quản lý nhà nước và Phòng chống tham nhũng, Trường Cán bộ Thanh tra - Thanh tra Chính phủ HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 70 cơ quan của Chính phủ, bản Sắc lệnh này là cơ sở pháp lý cho hoạt động của Ban Thanh tra đặc biệt, đồng thời cũng đặt viên gạch đầu tiên cho việc xây dựng hệ thống pháp luật thanh tra. Tuy nhiên, trong 8 Điều quy định trong Sắc lệnh số 64 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời, vào ngày 23 tháng 11 năm 1945, tại Điều 2, Sắc lệnh mới chỉ dừng lại ở việc quy định các quyền của cơ quan thanh tra duy nhất bấy giờ, là BanThanh tra đặc biệt, bao gồm các quyền: Nhận các đơn khiếu nại của nhân dân; điều tra, hỏi chứng, xem xét các tài liệu giấy tờ của các Uỷ ban nhân dân hoặc các cơ quan của Chính phủ cần thiết cho công việc giám sát; đình chức, bắt giam, tịch biên hoặc niêm phong những tang vật và dùng mọi cách điều tra để lập một hồ sơ mang một phạm nhân ra Toà án đặc biệt;.... Như vậy, về mặt thẩm quyền của cơ quan tiến hành thủ tục thanh tra đã có sự quy định trong Sắc lệnh, Tuy nhiên, mới chỉ dừng lại ở việc quy định các quyền cụ thể, còn thủ tục thực hiện các quyền này chưa có sự hướng dẫn cụ thể chi tiết. Sau năm 1959, nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc được coi là nhiệm vụ quyết định đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta. Hiến pháp 1959 ra đời trở thành cơ sở pháp lý nền tảng cho việc xây dựng nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội. Căn cứ vào Hiến pháp, Luật Tổ chức Hội đồng Chính phủ, ngày 29/9/1961, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 136/CP quyết định thành lập Ủy Ban Thanh tra của Chính phủ thay cho Ban Thanh tra Trung ương của Chính phủ. Nghị định cũng quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban và quy định tổ chức bộ máy của Ủy ban thanh tra. Tiếp theo đó, ngày 4/7/1962, Ban bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 50/CT-TW về việc tăng cường công tác thanh tra việc chấp hành các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Chính phủ và ngày 24/8/1963, Thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị số 87/TTg về tăng cường công tác kiểm tra. Từ năm 1965 đến năm 1968, các cơ quan thanh tra hầu như bị giải thể hoặc hoạt động cầm chừng. Ngày 11/8/1969, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 780/NQ-QH thành lập Ủy ban Thanh tra của Chính phủ và hệ thống thanh tra được củng cố. Tiếp đó, ngày 31/8/1970 Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 165/CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Uỷ ban thanh tra của Chính phủ. Đây là văn bản pháp lý quy định đầy đủ nhất về tổ chức và hoạt động của Uỷ ban thanh tra của Chính phủ trong giai đoạn này. Những quy định sau này được tiếp thu và kế thừa trong Pháp lệnh thanh tra năm 1990 và Luật thanh tra năm 2004. Hiến pháp năm 1980 ra đời làm thay đổi nhiều vấn đề quan trọng của đất nước về chế độ chính trị, chế độ kinh tế, tổ chức bộ máy nhà nước...và các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân. Trong giai đoạn này, tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp, nhất là từ năm 1989 đến năm 1990 chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu có nguy cơ sụp đổ. Trước bối cảnh đó, ngày 01/4/1990, Pháp lệnh Thanh tra được ban hành. Trên cơ sở đó, nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Pháp lệnh thanh tra: Nghị định 244/HĐBT ngày 30/6/1990 của Hội đồng Bộ trưởng về tổ chức của hệ thống thanh tra nhà nước và các biện pháp bảo đảm hoạt động thanh tra; Thông tư 124/TT-TTr ngày 18/7/1990 của Thanh tra nhà nước Hướng dẫn về tổ chức của các tổ chức Thanh tra nhà nước; Quy chế Thanh tra viên ban hành kèm theo Nghị định 191/HĐBT ngày 18/6/1991 của Hội đồng Bộ trưởng Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 ra đời, quy định về hệ thống tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra nhà nước; tổ chức thanh tra nhân dân và trình tự, thủ tục thanh tra. Như vậy, thủ tục thanh tra lúc đó lần đầu tiên đã được quy định trong văn bản có tính chất luật (Pháp lệnh). Pháp lệnh Thanh tra lúc đó quy định về tổ chức hệ thống Thanh tra Nhà nước; Quy định về đối tượng thanh tra theo loại việc, quy định về cơ sở tiến hành thủ tục thanh tra... Rất đáng chú ý là trong Pháp lệnh, đã quy định tập trung các vấn đề thủ tục quan trọng trong công tác thanh tra, theo đó, trong quá trình thanh tra, các tổ chức thanh tra nhà nước có thẩm quyền thực hiện các hành vi thủ tục như: Yêu cầu cơ quan, đơn vị, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin cần thiết phục vụ cho việc thanh tra; yêu cầu cơ quan, đơn vị hữu quan cử người tham gia hoạt động thanh tra; trưng cầu giám định; yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp tài liệu, báo cáo bằng văn bản, trả lời những chất vấn của tổ chức thanh tra hoặc thanh tra viên; khi Soá 4/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba 71 cần thiết tiến hành kiểm kê tài sản; quyết định niêm phong tài liệu, .... Có thể nói, trong giai đoạn này, các thủ tục thực hiện hoạt động thanh tra đã được nâng lên một bước rõ rệt khi được ghi nhận trong một văn bản có giá trị pháp lý cao hơn. Không những thế, xác định rõ được tầm quan trọng của việc quy định cách thức, trình tự thực hiện các quy phạm nội dung về thanh tra, đã giúp cơ quan thanh tra tránh được sự tùy tiện trong thực hiện thẩm quyền. Ngoài ra, việc các Bộ ngành cũng đã cụ thể hóa các quy định của Pháp lệnh, căn cứ vào chức năng, lĩnh vực quản lý, đặc thù đã có những quy định rõ nét hơn về thủ tục, trình tự thực hiện hoạt động thanh tra. 2. Giai đoạn từ khi ban hành Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 đến trước khi có Luật Thanh tra năm 2004 Trong những năm 1992, yêu cầu của công tác thanh tra được mở rộng về đối tượng và phạm vi hoạt động. Để tháo gỡ những khó khăn cho doanh nghiệp và bảo đảm công tác thanh tra đúng mục đích, yêu cầu, ngày 15/8/1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định 61/1998/NĐ-CP về công tác thanh tra, kiểm tra đối với các doanh nghiệp. Nghị định nêu rõ nguyên tắc thanh tra “Việc thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp chỉ được thực hiện khi có quyết định của thủ trưởng cơ quan nhà nước có thẩm quyền; không được tiến hành trùng lặp, không quá một lần về cùng một nội dung trong một năm đối với một doanh nghiệp (trừ trường hợp bất thường)”(Điều 3). Đây cũng được coi là nguyên tắc của việc áp dụng thủ tục hành chính trong hoạt động thanh tra, sẽ được cụ thể hóa trong Luật Thanh tra sau này. Sau hơn mười năm thực hiện hoạt động thanh tra theo Pháp lệnh thanh tra năm 1990, cũng cho thấy nhiều bất cập đặt ra đối với hoạt động thanh tra nhà nước. Điển hình là 2 nhóm vấn đề lớn có liên quan trực tiếp đến việc thực hiện thủ tục thanh tra nhà nước, đó là: Quan hệ độc lập tương đối của các cơ quan thanh tra nhà nước với thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp, trong tổ chức và thực hiện thủ tục thanh tra, dẫn đến có sự phụ thuộc, chi phối, tác động giữa hai hệ thống chủ thể này. Bên cạnh đó, việc hình thành tổ chức thanh tra chuyên ngành, dẫn đến sự chồng chéo về thẩm quyền thực hiện thủ tục thanh tra nhà nước. Vì vậy, ngày 15/6/2004, Quốc Hội thông qua Luật Thanh tra năm 2004, đây là văn bản pháp lý cao nhất của ngành thanh tra, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, hệ thống tổ chức của ngành thanh tra. Căn cứ vào Luật này, Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định quy định và hướng dẫn chi tiết Luật Thanh tra. Tổng thanh tra cũng ban hành nhiều Thông tư, chỉ thị, quyết định hướng dẫn về công tác, tổ chức và nghiệp vụ thanh tra cho thanh tra các cấp, các ngành. Việc Luật Thanh tra năm 2004 ra đời thay thế Pháp lệnh Thanh tra năm 1990, đã khẳng định tầm quan trọng của công tác thanh tra trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, khắc phục những tồn tại hạn chế của Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 về công tác thanh tra. So với Pháp lệnh thanh tra, tổ chức thanh tra được sắp xếp lại thành các cơ quan theo cấp hành chính và cơ quan được thành lập ở cơ quan quản lý theo ngành lĩnh vực gồm: Thanh tra Chính phủ; Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Các cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực bao gồm thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ; Thanh tra sở. Luật Thanh tra năm 2004 đã có quy định về thủ tục thanh tra hành chính và thủ tục thanh tra chuyên ngành. Luật Thanh tra lần này đã có quy định rõ ràng hơn về những yếu tố liên quan đến thủ tục thực hiện hoạt động thanh tra như: Quy định về tiêu chuẩn đội ngũ thực hiện thủ tục thanh tra (đội ngũ công chức, thanh tra viên), quy định về hình thức thanh tra; thủ tục và thẩm quyền phê duyệt chương trình, kế hoạch thanh tra; quyết định việc thanh tra; thẩm quyền, căn cứ ra quyết định thanh tra; nội dung quyết định thanh tra; thời hạn thanh tra; nhiệm vụ, quyền hạn của người ra quyết định thanh tra; nhiệm vụ, quyền hạn của Trưởng Đoàn thanh tra; nhiệm vụ, quyền hạn của thành viên Đoàn thanh tra; Báo cáo kết quả thanh tra; Kết luận thanh tra, việc xem xét, xử lý kết luận thanh tra; quyền và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra; giải quyết khiếu nại, tố cáo về thanh tra và hồ sơ thanh tra. Như vậy, so với Pháp lệnh thanh tra năm 1990, Luật Thanh tra năm 2004 đã có những quy định đầy đủ, chi tiết về những yếu tố cấu thành thủ tục trong thanh tra như: chủ thể HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 72 tham gia quan hệ thủ tục, cách thức, thời hạn thực hiện thẩm quyền của các chủ thể thông qua thủ tục thanh tra, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ thủ tục trong thanh tra... Luật Thanh tra năm 2004 đã góp phần tạo lập khung pháp lý quan trọng trong việc hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra. Hàng năm, thông qua việc thực hiện thủ tục thanh tra, các cơ quan thanh tra nhà nước đã phát hiện, kiến nghị xử lý nhiều hành vi vi phạm pháp luật, kiến nghị sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách phù hợp với yêu cầu thực tiễn, góp phâǹ nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. 3. Giai đoạn từ khi ban hành Luật Thanh tra năm 2004 đến trước khi có Luật Thanh tra năm 2010 Luật Thanh tra năm 2004 được ban hành, đã khẳng định tầm quan trọng của công tác thanh tra trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội mà Đại hội Đảng IX năm 2001 đề ra. Sự ra đời của Luật Thanh tra góp phần hoàn thiện phương thức quản lý nhà nước thông qua cơ chế thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định pháp luật của của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Theo Luật Thanh tra năm 2004, hoạt động thanh tra có nhiều phương thức, nhưng phương thức chủ yếu là tiến hành một cuộc thanh tra. Mỗi cuộc thanh tra đều có những mục đích, yêu cầu, nội dung cụ thể và đều có giới hạn cụ thể về thời kỳ, thời hạn thanh tra. Qua đó, để tiến hành một cuộc thanh tra, các cơ quan thanh tra nhà nước phải sử dụng tổng hợp các biện pháp nghiệp vụ thanh tra từ quá trình thu thập hồ sơ, thông tin, tài liệu nhằm trả lời cho yêu cầu của quyết định thanh tra; đến quá trình đánh giá, kết luận việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ và các quy định của nhà nước đối với các cơ quan, tổ chức và cá nhân là đối tượng thanh tra theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, nhằm phục vụ cho công tác quản lý nhà nước. Kết thúc cuộc thanh tra phải đưa ra được kết luận, kiến nghị, biện pháp chấn chỉnh, phòng ngừa, xử lý các sai phạm. Cụ thể hóa trình tự, thủ tục tiến hành hoạt động thanh tra, Tổng Thanh tra Chính phủ đã Ban hành Quyết định 2151/2006/QĐ-TTCP ngày 10/11/2006 Ban hành Quy chế hoạt động của Đoàn thanh tra đã có những quy định rõ ràng và cụ thể về tổ chức và hoạt động của các chủ thể tiến hành thủ tục thanh tra, quan hệ công tác của đoàn thanh tra, trong đó việc quy định cụ thể về thủ tục tiến hành hoạt động thanh tra được quan tâm, điều chỉnh cụ thể trong Quy chế. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong nhận thức về vai trò của các quy phạm thủ tục thanh tra, đảm bảo thực hiện được mục đích của hoạt động thanh tra nhà nước. Kết quả thực hiện thủ tục thanh tra đã góp phần tăng cường pháp chế, phòng ngừa vi phạm pháp luật, góp phần từng bước lập lại kỷ cương pháp luật, đảm bảo lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân Tuy nhiên, trong việc thực hiện các thủ tục thanh tra, vẫn còn tồn tại những hạn chế cần khắc phục như: Chất lượng một số cuộc thanh tra chưa cao, thời gian tiến hành thủ tục thanh tra còn kéo dài, nhiều kết luận thanh tra còn chung chung, không thực hiện nguyên tắc công khai theo quy định, việc kiểm tra, đôn đốc, việc thực hiện kết luận thanh tra còn nhiều hạn chế Để khắc phục những tồn tại, hạn chế của thực tiễn áp dụng Luật Thanh tra năm 2004, năm 2010, ngành Thanh tra đã trình Quốc hội thông qua Luật Thanh tra số 56/2010/QH12 và có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 01/7/2011, thay thế Luật thanh tra số 22/2004/QH11. Luật thanh tra năm 2010 gồm 7 chương và 78 Điều. Trong đó, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra nhà nước về cơ bản vẫn giữ nguyên, thể hiện trong luật thanh tra năm 2004 để phù hợp với thể chế chính trị và Hiến pháp năm 1992. Liên quan đến thủ tục thực hiện hoạt động thanh tra, Luật thanh tra năm 2010 đã có một bước phát triển lớn, từ việc làm rõ mục đích, nguyên tắc thực hiện hoạt động thanh tra, đến việc thay đổi về mô hình, cơ cấu tổ chức của các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra, bổ sung hoạt động thanh tra của các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, bổ sung thẩm quyền cho các chủ thể tiến hành thủ tục thanh tra (Ví dụ: Tăng thẩm quyền cho Chánh thanh tra các cấp các ngành trong việc thực hiện Soá 4/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba 73 thủ tục Quyết định thanh tra khi phát hiện dấu hiệu vi phạm pháp luật, bổ sung quy định về thẩm quyền thanh tra lại,...). Đặc biệt, để cụ thể hóa các quy định của Luật Thanh tra, các văn bản hướng dẫn thi hành cũng đã quy định rõ hơn, chi tiết hơn về các yếu tố liên quan đến thủ tục thanh tra (Chủ thể, thẩm quyền, thủ tục, hình thức, quy trình.. thực hiện thủ tục thanh tra). 4. Giai đoạn từ khi ban hành Luật Thanh tra năm 2010 đến nay Luật Thanh tra năm 2010, về cơ bản có sự kế thừa Luật Thanh tra năm 2004, bên cạnh đó có một số nội dung được điều chỉnh, bổ sung như: Nguyên tắc hoạt động; tổ chức cơ quan thanh tra nhà nước; cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành; thanh tra viên, cộng tác viên thanh tra, người được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành; nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra nhà nước và người đứng đầu cơ quan thanh ra nhà nước; hoạt động thanh tra; công khai kết luận thanh tra; nhiệm vụ quyền hạn của Trưởng đoàn thanh tra hành chính, đoàn thanh tra chuyên ngành; báo cáo kết quả thanh tra hành chính, do đó, để Luật Thanh tra nhanh chóng đi vào cuộc sống, ngày 22/9/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 86/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra; Nghị định 97/2011/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2011 Quy định về thanh tra viên và cộng tác viên thanh tra. Nghị định 07/2012/NĐ-CP ngày 09 tháng 02 năm 2012 Quy định về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành Bên cạnh đó, để đảm bảo thực hiện kết luận thanh tra, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 33/2015/NĐ-CP ngày 27/3/2015 quy định về việc thực hiện kết luận thanh tra, Nghị định quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức cá nhân trong việc thực hiện kết luận thanh tra và theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận thanh tra. Cụ thể hóa Luật thanh tra năm 2010, điều chỉnh hoạt động cụ thể của các chủ thể thực hiện thủ tục thanh tra, Thanh tra Chính phủ đã ban hành Thông tư 05/2014/TT-TTCP ngày 16/10/2014 Quy định về tổ chức và hoạt động, quan hệ công tác của Đoàn thanh tra và trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra. Từ các bước tiến hành một cuộc thanh tra, đến thủ tục thực hiện các quyền trong quá trình thanh tra đều được quy định cụ thể. Đây được coi là một văn bản pháp lý quan trọng, “cầm tay, chỉ việc” cho cán bộ thanh tra thực hiện các công việc cụ thể, cách thức và trình tự thực hiện cuộc thanh tra cũng như hệ thống các mẫu văn bản điển hình trong quá trình thực hiện thủ tục thanh tra. Như vậy, việc thực hiện thủ tục thanh tra đã có một cơ sở pháp lý khá cụ thể, rõ ràng và minh bạch, điều chỉnh quá trình thực hiện thủ tục của các cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền thực hiện hoạt động thanh tra nhà nước. Luật Thanh tra năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có những quy định cụ thể hơn, rõ ràng hơn về các thủ tục hành chính trong hoạt động thanh tra và các yếu tố đảm bảo cho việc thực hiện thủ tục hành chính trong hoạt động thanh tra nhà nước. Tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thanh tra thực hiện được quyền và trách nhiệm của mình. Trên cơ sở những chủ trương, định hướng lớn của Đảng, Nhà nước về phát triển ngành Thanh tra trong thời gian tới và nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập trong tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra hiện nay. Ngày 08 tháng 12 năm 2015, Chiến lược phát triển ngành thanh tra đến năm 2020 tầm nhìn đến 2030 ban hành kèm theo Quyết định số 2213/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ, một lần nữa khẳng định sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với sự phát triển của ngành thanh tra. Trong lộ trình thực hiện công tác, ngành thanh tra phải có những chuyển biến căn bản theo lộ trình, từ việc hoàn thiện thể chế (sửa đổi bổ sung Luật Thanh tra năm 2010 và các Nghị định hướng dẫn thi hành), nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức thanh tra đến đổi mới phương thức hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước Chiến lược xác định những mục tiêu, giải pháp, nhiệm vụ và lộ trình thực hiện cụ thể theo từng giai đoạn nhằm xây dựng và phát triển ngành Thanh tra trong sạch, vững mạnh, kỷ cương, liêm chính, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 74 Theo lộ trình, Luật thanh tra dự kiến sẽ được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Phát triển ngành Thanh tra với lộ trình cụ thể, từng bước vững chắc, phù hợp với quá trình đổi mới hệ thống chính trị, cải cách hành chính, đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan thanh tra, là yêu cầu đặt ra đối với ngành thanh tra từ thể chế đến tổ chức, thực hiện trên thực tế. Trên đây là những nét chính trong sự hình thành và phát triển của pháp luật về thủ tục hành chính trong hoạt động thanh tra nhà nước từ năm 1945 đến nay. Nhìn lại lịch sử và đánh giá quá trình hình thành và phát triển của thanh tra nhà nước nói chung và pháp luật thủ tục hành chính trong hoạt động thanh tra nhà nước nói riêng trong hơn 70 năm qua là một việc làm thiết thực cả về lý luận và thực tiễn, góp phần cho việc làm sáng tỏ lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về thanh tra nhà nước nói chung, và pháp luật điều chỉnh thủ tục hành chính trong hoạt động thanh tra nhà nước nói riêng. Qua đó, đánh giá đầy đủ, toàn diện và sâu sắc hơn thực trạng pháp luật cũng như việc tổ chức thực hiện pháp luật về thủ tục hành chính trong hoạt động thanh tra, các ưu điểm, hạn chế của pháp luật và các vấn đề cần hoàn thiện./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật Thanh tra năm 2010. 2. Trần Đức Cương, Nguyễn Văn Nhật, Đinh Quang Hải (2015), “Lịch sử Thanh tra Việt Nam 1945- 2015”, Nxb Chính trị Quốc gia. 3. Thanh tra Chính phủ (2005), “60 năm thanh tra Việt Nam, con số và sự kiện, Tạp chí thanh tra. 4. Thanh tra Chính phủ (2014), “Kỷ yếu hội thảo định hướng xây dựng Chiến lược phát triển ngành thanh tra đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”, Hà Nội. 5. Thanh tra Nhà nước (2003), Kỷ yếu nghiên cứu khoa học Thanh tra (1999-2002), tập I, II, III, IV, Viện Khoa học Thanh tra. 6. Đề tài trọng điểm cấp Bộ năm 2009 “Đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra trong cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa – luận cứ khoa học cho việc sửa đổi Luật Thanh tra và hoàn thiện pháp luật về thanh tra” – Chủ nhiệm Đề tài: Nguyên Tổng Thanh tra Chính phủ Trần Văn Truyền; 7. Giáo trình Nghiệp vụ công tác thanh tra - Trường Cán bộ Thanh tra 8. Một số bài viết có liên quan trên Tạp chí Thanh tra, Báo thanh tra Việc quy định này nên phân chia thành hai trường hợp: xử lý với các trường hợp vi phạm có hệ thống của các tổ chức, pháp nhân và vi phạm cá nhân theo từng khung hình phạt cụ thể. Tóm lại, trong thời kỳ hội nhập kinh tế, việc tham gia ngày càng sâu rộng vào các hiệp định song phương và đa phương dẫn đến NTD ngày càng được hưởng nhiều dịch vụ và quyền lợi tốt hơn. Để đảm bảo quá trình hội nhập một cách bền vững yêu cầu hệ thống chính sách pháp luật của Việt Nam phải không ngừng hoàn thiện. Hiệp định CPTPP sẽ mở ra một hướng đi mới với nhiều khởi sắc cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và lĩnh vực thương mại điện tử nói riêng. Hơn lúc nào hết quyền lợi của người tiêu dùng phải được đặt lên hàng đầu. Hy vọng trong tương lai không xa dịch vụ TMĐT ở Việt Nam sẽ thật phát triển, không còn tình trạng lo ngại về việc mất cắp thông tin cá nhân, quấy rối khách hàng bằng những tin nhắn rác hay việc bán hàng hoá sản phẩm kém chất lượng với giá cao./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo người lao động, “Thông tin cá nhân bị mất cắp, nhiều hệ luỵ!”, su-trong-nuoc/thong-tin-ca-nhan-bi-danh-cap- nhieu-he-luy-20160106232110377.htm, truy cập vào 15h30 ngày 01/3/2018; 2. “Bảo vệ người tiêu dùng trong các giao dịch thương mại điện tử” ngày 23/7/2015 nguoi-tieu-dung-trong-cac-giao-dich-thuong-mai- dien-tu.aspx, truy cập vào 7h:02 ngày 02/3/2018; 3. TS. Ao Thu Hoài - PGS. TS Nguyễn Viết Khôi, “Thương mại điện tử” , 2015, Nxb Thông tin và truyền thông; 4. Trần Thị Minh, “Tìm hiểu các quy định pháp luật về bán hàng qua mạng Internet”, 2015, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội xuất bản tháng 9 năm 2015; ẢNH HƯỞNG CỦA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN... (Tiếp theo trang 68)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfsu_hinh_thanh_va_phat_trien_cua_phap_luat_ve_thu_tuc_hanh_ch.pdf
Tài liệu liên quan