ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Bệnh nhân được chẩn đoán xác định ung
thư biểu mô đại tràng bằng mô bệnh học. Xác
định vị trí u ung thư đại tràng theo hiệp hội
ung thư Hoa Kỳ như sau: ung thư đại tràng
phải bao gồm manh tràng, đại tràng lên, đại
tràng góc gan, đại tràng ngang; ung thư đại
tràng trái được xác định là ung thư đại tràng
góc lách, đại tràng xuống, đại tràng sigma.
Các trường hợp ung thư đại tràng 2 vị trí, hai
ung thư trên 1 bệnh nhân bị loại trừ trong
nghiên cứu này.
2. Phương pháp
- Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả
hồi cứu trên 94 bệnh nhân ung thư biểu mô
đại tràng được chia thành 2 nhóm: 48 bệnh
nhân ung thư đại tràng phải và 46 bệnh nhân
ung thư đại tràng trái tại Bệnh viện K Trung
ương từ tháng 01/2015 đến tháng 12/2015.
- Phân tích số liệu: so sánh sự khác nhau
về một số đặc điểm giữa ung thư đại tràng
phải và ung thư đại tràng trái. Các chỉ số
nghiên cứu bao gồm các triệu chứng cơ năng,
tắc ruột hoặc bán tắc ruột, tình trạng gầy sút
thiếu máu, tổn thương trên nội soi đại trực
tràng ống mềm, giải phẫu bệnh, nồng độ CEA,
giai đoạn bệnh đánh giá theo TNM (UICC
2010) dựa vào kết quả mô bệnh học sau mổ.
So sánh, kiểm định sự khác biệt giữa các biến
định tính giữa 2 nhóm bằng test χ2, so sánh
giá trị trung bình, các so sánh có ý nghĩa
thống kê khi p ≤ 0,05.
3. Đạo đức trong nghiên cứu
Nghiên cứu được sự cho phép của bệnh
viện K, không có sự can thiệp nào với người
bệnh và không ảnh hưởng đến việc điều trị
bệnh. Các thông tin cá nhân của đối tượng
nghiên cứu được bảo mật.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự khác biệt về đặc điểm lâm sàng giữa ung thư đại tràng phải và ung thư đại tràng trái, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TCNCYH 113 (4) - 2018 31
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
SỰ KHÁC BIỆT VỀ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG GIỮA UNG THƯ ĐẠI
TRÀNG PHẢI VÀ UNG THƯ ĐẠI TRÀNG TRÁI
Nguyễn Thị Thu Hường1, Lê Văn Quảng1
Bộ môn Ung thư , Trường Đại học Y Hà Nội
Sự khác nhau về vị trí u đại tràng sẽ dẫn đến sự khác nhau về tính chất và sinh lý bệnh. Nghiên cứu
nhằm mô tả sự khác nhau về một số đặc điểm lâm sàng giữa ung thư đại tràng phải và ung thư đại tràng
trái. Nghiên cứu mô tả hồi cứu trên 94 bệnh nhân ung thư biểu mô đại tràng điều trị tại Bệnh viện K năm
2015. Kết quả cho thấy triệu chứng lâm sàng hay gặp ở ung thư đại tràng phải là tiêu chảy (29,17%), thiếu
máu (45,83%), bán tắc ruột (29,17%), tổn thương polyp kèm theo (37,5%). Triệu chứng lâm sàng hay gặp ở
ung thư đại tràng trái là táo bón (30,43%), phân nhày máu (36,96%), tắc ruột (41,3%), tổn thương trĩ kèm
theo (30,43%). U vị trí bên phải thường có các đặc điểm ác tính hơn bên trái như CEA > 10ng/ml (31,25% so
với 10,87%, p = 0,05); độ biệt hoá cao (37,5% so với 13,4%, p = 0,038). Không có sự khác biệt có ý nghĩa về
giai đoạn bệnh, đặc điểm u trên nội soi, thể mô bệnh học với vị trí u.
Từ khóa: Ung thư đại tràng, vị trí u, đặc điểm lâm sàng
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tại Việt Nam, ung thư đại tràng đứng thứ 4
về tỷ lệ mắc ở cả 2 giới [1]. Ung thư đại tràng
được nhìn nhận bao gồm các phân nhóm ung
thư theo vị trí u chứ không phải một bệnh lý
đơn độc [2]. Sự khác biệt giữa ung thư đại
tràng phải và trái không phải chủ đề mới
nhưng những nghiên cứu về vấn đề này vẫn
luôn được chú ý và không ngừng phát triển.
Ngay từ những năm đầu 1990, Bufill đã đề
xuất sự phân chia đại tràng phải và trái với lý
luận sự khác nhau về giải phẫu sẽ đưa đến
sự khác nhau về tính chất khối u, sinh lý bệnh
[3]. Một số nghiên cứu trên thế giới đã cho
thấy ung thư đại tràng phải thường gặp ở tuổi
cao hơn, tỷ lệ gặp ở nữ giới nhiều hơn, kích
thước u lớn hơn so với nhóm u đại tràng trái
[4]. Tiên lượng nhóm bệnh nhân ung thư đại
tràng phải xấu hơn nhóm ung thư đại tràng
trái về sự di căn hạch, thời gian sống [5]. Gần
đây, các nghiên cứu về đặc điểm sinh học
giữa vị trí u cho thấy u đại tràng phải có tỷ lệ
cao đột biến gen liên quan đến sự bất ổn đầu
mút DNA, sự methyl hoá bất thường đảo CpG
và tỷ lệ đột biến gen BRAF cao hơn hẳn ung
thư đại tràng trái. Những nghiên cứu về sự
khác biệt giữa ung thư đại tràng phải và đại
tràng trái mang lại nhiều giá trị, đặc biệt gần
đây một số nghiên cứu đã chứng minh sự
khác biệt về vị trí u trong việc lựa chọn
phương pháp điều trị. Đối với những bệnh
nhân ung thư đại tràng trái không có đột biến
RAS, việc điều trị với các thuốc ức chế EGFR
mang lại kết quả cao hơn ung thư đại tràng
phải [5]. Tại Việt Nam, các nghiên cứu hầu
như ít đề cập đến sự khác biệt về vị trí u cũng
như vai trò của nó trong điều trị ung thư đại
tràng. Vì vậy, nghiên cứu này được thực hiện
với mục tiêu mô tả sự khác nhau về một số
đặc điểm lâm sàng giữa ung thư đại tràng
phải và ung thư đại tràng trái.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Thị Thu Hường, Bộ môn Ung thư,
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: nguyenthu_huong@hmu.edu.vn
Ngày nhận: 10/5/2018
Ngày được chấp thuận: 15/8/2018
32 TCNCYH 113 (4) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bệnh nhân được chẩn đoán xác định ung
thư biểu mô đại tràng bằng mô bệnh học. Xác
định vị trí u ung thư đại tràng theo hiệp hội
ung thư Hoa Kỳ như sau: ung thư đại tràng
phải bao gồm manh tràng, đại tràng lên, đại
tràng góc gan, đại tràng ngang; ung thư đại
tràng trái được xác định là ung thư đại tràng
góc lách, đại tràng xuống, đại tràng sigma.
Các trường hợp ung thư đại tràng 2 vị trí, hai
ung thư trên 1 bệnh nhân bị loại trừ trong
nghiên cứu này.
2. Phương pháp
- Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả
hồi cứu trên 94 bệnh nhân ung thư biểu mô
đại tràng được chia thành 2 nhóm: 48 bệnh
nhân ung thư đại tràng phải và 46 bệnh nhân
ung thư đại tràng trái tại Bệnh viện K Trung
ương từ tháng 01/2015 đến tháng 12/2015.
- Phân tích số liệu: so sánh sự khác nhau
về một số đặc điểm giữa ung thư đại tràng
phải và ung thư đại tràng trái. Các chỉ số
nghiên cứu bao gồm các triệu chứng cơ năng,
tắc ruột hoặc bán tắc ruột, tình trạng gầy sút
thiếu máu, tổn thương trên nội soi đại trực
tràng ống mềm, giải phẫu bệnh, nồng độ CEA,
giai đoạn bệnh đánh giá theo TNM (UICC
2010) dựa vào kết quả mô bệnh học sau mổ.
So sánh, kiểm định sự khác biệt giữa các biến
định tính giữa 2 nhóm bằng test χ2, so sánh
giá trị trung bình, các so sánh có ý nghĩa
thống kê khi p ≤ 0,05.
3. Đạo đức trong nghiên cứu
Nghiên cứu được sự cho phép của bệnh
viện K, không có sự can thiệp nào với người
bệnh và không ảnh hưởng đến việc điều trị
bệnh. Các thông tin cá nhân của đối tượng
nghiên cứu được bảo mật.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm lâm sàng
- Đặc điểm chung: 94 bệnh nhân nghiên
cứu, tỷ lệ ung thư đại tràng phải là 51%, ung
thư đại tràng trái 49%. Tuổi trung bình 58,8 ±
10,2 tuổi. Tỷ lệ nam/nữ ở nhóm ung thư đại
tràng phải là 1,087, ở ung thư đại tràng trái là
1,3.
- Triệu chứng cơ năng
Bảng 1. So sánh triệu chứng cơ năng giữa ung thư đại tràng phải và trái
Triệu chứng
Ung thư đại tràng phải
n = 48
Ung thư đại tràng trái
n = 46
n % n %
Đau bụng 45 93,75 44 95,65 0,095
Phân nhầy máu 6 12,50 17 36,96 0,013
Phân đen 7 14,58 3 6,52 0,359
Tiêu chảy 14 29,17 3 6,52 0,027
Táo bón 5 10,42 14 30,43 0,035
Táo lỏng xen kẽ 5 10,42 5 10,87 0,925
Thay đổi thói quen đại tiện 12 25,00 15 32,61 0,440
p
TCNCYH 113 (4) - 2018 33
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Đau bụng là triệu chứng hay gặp nhất không kể vị trí u. Đối với ung thư đại tràng trái hay gặp
đi ngoài phân nhày máu, trong khi đó ung thư đại tràng phải hay gặp đi ngoài phân lỏng.
Bảng 2. So sánh triệu chứng thực thể giữa ung thư đại tràng phải và trái
Triệu chứng
Ung thư đại tràng phải
(n = 48)
Ung thư đại tràng trái
(n = 46)
p
n % n %
Tắc ruột 6 12,50 19 41,30 0,05
Bán tắc ruột 14 29,17 03 03,52 0,027
Gầy sút 9 18,75 9 19,57 0,98
Thiếu máu 22 45,83 10 21,74 0,042
Ung thư đại tràng trái hay gặp các triệu chứng tắc ruột (41,3% so với 12,5%), trong khi đó bán
tắc hay gặp ở ung thư đại tràng phải (29,1% so với 3,52%). Thiếu máu hay gặp ở ung thư đại
tràng phải (45,83% so với 21,74%).
2. Đặc điểm cận lâm sàng
Đặc điểm tổn thương
Bảng 3. Đặc điểm tổn thương trên nội soi và nồng độ CEA
giữa ung thư đại tràng phải và ung thư đại tràng trái
Ung thư
đại tràng phải
(n = 48)
Ung thư
đại tràng trái
(n = 46)
p
n % n %
Đặc điểm
nội soi
U chiếm toàn bộ chu vi 25 52,08 34 73,91 0,062
U chiếm 3/4 chu vi 12 25 7 15,22 0,52
U chiếm 1/2 chu vi 9 18,75 4 8,7 0,666
U chiếm 1/4 chu vi 2 4,17 1 2,17 0,282
Polyp kèm theo u 18 37,50 6 13,04 0,038
Trĩ kèm theo u 5 10,42 14 30,43 0,035
CEA (ng/
ml)
> 10 ng/ml 15 31,25 5 10,87 0,05
5 - 10 ng/ml 8 16,67 13 28,26 0,188
(Nồng độ CEA bình thường < 5ng/ml)
34 TCNCYH 113 (4) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Trên 50% bệnh nhân được phát hiện khi u chiếm toàn bộ lòng đại tràng, chủ yếu gặp ở đại
tràng trái (73,91%). Tỷ lệ bệnh nhân ung thư đại tràng phải có polyp, nồng độ CEA > 10 ng/ml
cao so với u ở vị trí bên trái (37,5% so với 13,04% và 31,25% so với 10,87% tương ứng). Tỷ lệ
ung thư đại tràng trái có tổn thương trĩ kèm theo cao hơn u vị trí bên phải (30,43% so với
10,42%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Đặc điểm giải phẫu bệnh
Bảng 4. So sánh đặc điểm giải phẫu bệnh giữa ung thư đại tràng phải và trái
Đặc điểm giải phẫu bệnh
Ung thư
đại tràng phải
n = 48
Ung thư
đại tràng trái
n = 46
p
n % n %
Thể mô bệnh học
Biểu mô tuyến 37 77,08 39 84,78 0,4
Tuyến nhầy 10 20,84 7 15,22 0,81
Không biệt hóa 1 02,08 0 0 0,45
Thấp 30 62,50 39 86,96 0,038
Cao 18 37,50 6 13,04 0,038
Độ ác tính
Ung thư biểu mô tuyến chiếm đa số ở cả 2 nhóm. Tỷ lệ u có độ ác tính cao ở bệnh nhân ung
thư đại tràng phải (37,50%) cao hơn ở bệnh nhân ung thư đại tràng trái (13,04%), có ý nghĩa
thống kê.
Giai đoạn bệnh
Bảng 5. So sánh giai đoạn bệnh giữa ung thư đại tràng phải và trái
Giai đoạn
Ung thư đại tràng phải
n = 48
Ung thư đại tràng trái
n = 46
p
n % n %
I 2 04,17 1 02,17 0,282
II 20 41,67 22 47,83 0,587
III 12 25,00 12 26,09 0,929
IV 14 29,17 11 23,91 0,627
Không có sự khác biệt về tỷ lệ giai đoạn bệnh giữa ung thư đại tràng phải và trái.
TCNCYH 113 (4) - 2018 35
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
IV. BÀN LUẬN
Về triệu chứng cơ năng của cả 2 nhóm,
đau bụng là triệu chứng hay gặp nhất chiếm tỷ
lệ hơn 90%, các triệu chứng thường gặp khác
như đi ngoài phân lỏng, táo bón, táo lỏng xen
kẽ, phân nhày máu hoặc phân đen [6]. Trong
đó, ở ung thư đại tràng trái các triệu chứng
như đi ngoài phân nhày máu, táo bón triệu
hay gặp hơn so với ung thư đại tràng phải, sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê. Còn ở ung thư
đại tràng phải tỷ lệ bệnh nhân tiêu chảy cao
hơn, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, có thể
do đặc điểm giải phẫu, mô học, chức năng
sinh lý ở hai đoạn đại tràng khác nhau. Đại
tràng trái có chức năng chứa phân, tiết nhày
bôi trơn lòng ống , u lại có xu hướng phát triển
vào lòng ruột kiểu vòng nhẫn làm bít kín lòng
đại tràng nên rất hay gặp đi ngoài phân nhày
và táo bón. Cũng do sự phát triển u kiểu vòng
nhẫn, tỷ lệ bệnh nhân tắc ruột cao hơn rõ rệt
ở ung thư đại tràng trái. Đại tràng phải có
chức năng hấp thu nước, khối u có thể gây rối
loạn chức năng gây tiêu chảy, đồng thời u có
xu hướng phát triển ra phía ngoài lòng ruột
nên hay gặp hội chứng bán tắc ruột nhiều hơn
rõ rệt [7]. Các khối u đại tràng phải phát triển
theo kiểu loét chảy máu bề mặt, gây mất máu
rỉ rả ở mô u kèm theo đó là thiếu các yếu tố vi
lượng do rối loạn tiêu hoá kéo dài, do vậy tỷ lệ
bệnh nhân thiếu máu cao hơn rõ rệt so với u
đại tràng trái [8].
Về đặc điểm u trên nội soi, trên 50% bệnh
nhân có u chiếm toàn bộ đại tràng, tuy nhiên
tỷ lệ u chiếm toàn bộ lòng đại tràng cao hơn ở
đại tràng trái với 73,91%. Mặc dù sự khác biệt
chưa có ý nghĩa thống kê, tuy nhiên cũng có
thể là một trong những nguyên nhân giải thích
tại sao triệu chứng tắc ruột thường gặp hơn ở
đại tràng trái. Đánh giá các tổn thương đi kèm
với u trên nội soi, chúng tôi nhận thấy polyp là
tổn thương đi kèm hay gặp ở u đại tràng phải
hơn ở đại tràng trái. Giả thuyết đặt ra liên
quan đến cơ chế sinh bệnh ung thư đại tràng
phải liên quan nhiều hơn đến sự mất ổn định
nhiễm sắc thể, sự bất hoạt do đột biến các
gen kìm hãm khối u, đây là con đường hình
thành các polyp tuyến [9]. Trong khi đó các
khối u đại tràng trái thường gây ra triệu chứng
táo bón, do đó trĩ là tổn thương đi kèm hay
gặp đối với u đại tràng bên trái.
Chỉ điểm u CEA đóng vai trò tiên lượng
trong ung thư đại tràng, CEA được cho là tăng
nhẹ khi trong giới hạn 5 - 10 ng/ml, tăng nhiều
khi > 10 ng/ml; có mối liên quan chặt chẽ giữa
nồng độ CEA với giai đoạn u, và sự xâm lấn
hệ bạch huyết; CEA > 10ng/ml có giá trị tiên
đoán di căn hạch với độ nhạy và độ chính xác
79,5% và 70,8%. [10]. Trong nghiên cứu
chúng tôi nhận thấy tỷ lệ CEA > 10ng/ml cao
hơn rõ rệt ở nhóm ung thư đại tràng phải, điều
này gợi ý tiên lượng bệnh xấu hơn ở các khối
u đại tràng bên phải.
Thể mô bệnh học gặp nhiều nhất ở 2 nhóm
là ung thư biểu mô tuyến (77,08% và 84,78%
ở cả hai nhóm). Thể nhày và kém biệt hoá
gặp nhiều hơn ở ung thư đại tràng phải, tuy
nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa. Khi đánh
giá về độ mô học chúng tôi nhận thấy ung thư
đại tràng phải có tỷ lệ độ mô học cao hơn có ý
nghĩa so với các khối u vị trí bên trái; đây là
yếu tố tiên lượng xấu. Một số nghiên cứu khác
cũng cho thấy ung thư đại tràng phải thường
có độ ác tính cao hơn, kém biệt hoá hơn, tỷ lệ
gặp ung thư biểu mô tuyến nhày cao hơn và
thường liên quan đến tỷ lệ cao của di căn
hạch, di căn phúc mạc [11].
Khi đánh giá sự khác nhau về giai đoạn
bệnh giữa hai nhóm, chúng tôi không thấy có
sự khác biệt, tỷ lệ bệnh giai đoạn II chiếm cao
36 TCNCYH 113 (4) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
nhất, giai đoạn IV gặp nhiều hơn ở ung thư
đại tràng phải so với ung thư đại tràng trái
nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa. Theo
SEER, trên nhóm ung thư đại tràng giai đoạn
III,IV, ung thư đại tràng phải có tiên lượng xấu
hơn với tỷ lệ sống sau 3 năm luôn thấp hơn ở
nhóm ung thư đại tràng trái [36]. Bên cạnh vấn
đề tiên lượng bệnh theo vị trí u, gần đây vị trí
u đã được đưa vào 1 tiêu chí để lựa chọn
phác đồ điều trị đối với ung thư đại tràng di
căn. Các khối u đại tràng trái, không có đột
biến RAS có lợi ích cao hơn từ điều trị với các
thuốc ức chế EGFR so với các khối u vị trí
bên phải [12].
V. KẾT LUẬN
Từ những kết quả thu được, nghiên cứu
này rút ra một số kết luận sau: ung thư đại
tràng phải có những đặc điểm ác tính hơn ung
thư đại tràng trái như CEA thường tăng cao >
10ng/ml trước điều trị, độ ác tính cao, thể mô
bệnh học không thuận lợi như thể nhày hoặc
kém biệt hoá. Triệu chứng lâm sàng các khối
u đại tràng phải thường mơ hồ như tiêu chảy,
thiếu máu, bán tắc ruột; làm cho bệnh khó
chẩn đoán được từ giai đoạn sớm. Trong khi
đó ung thư đại tràng trái với các đặc điểm rõ
rệt hơn như đi ngoài phân nhày máu, táo bón
và tắc ruột, điều này có thể giúp cho việc chẩn
đoán bệnh sớm hơn. Tất cả những điều này
gợi ý tiên lượng xấu hơn thuộc về ung thư đại
tràng phải. Cần có những nghiên cứu phân
tích sâu hơn về vấn đề này trên cả phương
diện bệnh học, sinh học phân tử và điều trị.
Lời cảm ơn
Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn Ban lãnh
đạo, phòng Kế hoạch tổng hợp Bệnh viện K
và các khoa lâm sàng bệnh viện K Hà Nội đã
tạo mọi điều kiện giúp tôi hoàn thành nghiên
cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Torre L.A, Bray F, Siegel R.L et al
(2015). Global cancer statistics. Cancer J Clin,
65(2), 87 – 108.
2. Yang J., Du X. lin, Li S. ting et al
(2016). Characteristics of Differently Located
Colorectal Cancers Support Proximal and Dis-
tal Classification: A Population-Based Study of
57,847 Patients. PLoS ONE, 11(12).
3. JA Bufill B (1990). Colorectal cancer:
evidence for distinct genetic categories based
on proximal or distal tumor location.
4. Mik M., Berut M., Dziki L et al (2017).
Right- and left-sided colon cancer – clinical
and pathological differences of the disease
entity in one organ. Arch Med Sci, 1, 157 - 162.
5. Warschkow R., Sulz M.C., Marti L et al
(2016). Better survival in right-sided versus left
-sided stage I - III colon cancer patients. BMC
Cancer, 16.
6. Nguyễn Quang Thái (2002). Nghiên
cứu một số phương pháp chẩn đoán và kết
quả sau 5 năm điều trị phẫu thuật ung thư đại
tràng, Dự thảo luận án tiến sĩ, 68 - 145.
7. Ryska M. và Bauer J (2017). Colorectal
cancer the importance of primary tumor loca-
tion. Rozhl V Chir, 96, 4 – 8.
8. Nguyễn Thị Thu Hường, Lê Văn
Quảng, Nguyễn Tuyết Mai, Hoàng Mạnh
Thắng (2012). Điều trị ung thư đại tràng giai
đoạn III bằng hóa chất bổ trợ sau phẫu thuật.
Tạp chí Nghiên cứu Y học, 80, 22 - 27
9. Markowitz SD, and Bertagnolli (2009).
Molecular basis of colorectal cancer. N Engl J
Med, 361, 2449 - 2460.
TCNCYH 113 (4) - 2018 37
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
10. Bannura G, Cumsille M.A, Contreras
J et al (2004). CEA as an independent
pronostic factor in colorectal carcinoma. Rev
Med Chil, 132(6), 691 - 700.
11. SEER Cancer Stat Facts. <https://
seer.cancer.gov/statfacts/>, accessed: 12/04/
2017.
12. Lee M.S., Menter D.G., và Kopetz S
(2017). Right Versus Left Colon Cancer Biol-
ogy: Integrating the Consensus Molecular
Subtypes. J Natl Compr Cancer Netw JNCCN,
15(3), 411 - 419.
Summary
DIFFERENCES IN CLINICAL CHARACTERISTICS BETWEEN RIGHT
AND LEFT COLON CANCERS
Anatomical location of colon cancer will lead to differences in the nature of the tumors and the
physiopathology. The purpose of the study was to describe the differences in clinical characteris-
tics between right and left colon cancers. A retrospective study was conducted of 94 patients with
colon carcinomas treated in K hospital in 2015. There were 48 cases of right colon cancer and 46
cases of left colon cancer. The symptoms more common in the right colon cancer than the left
colon cancer were diarrhea (29.17%), anemia (45.83%) and incomplete bowel obstruction
(29.17%). The symptoms more common in the left colon cancer than the right colon cancer were
constipation (30.43%), stool with bloody mucus (36.96%) and bowel obstruction (41.3%). Polyps
were more commonly observed in right colon tumors (37.5% vs 13.4%, p = 0.038); hemangiomas
were commonly seen in left colon tumors (30.43% vs 10.42%, p = 0.035). Right colon cancer has
more malignant features than the left colon, including higher 10 ng/ml of CEA level (31.25% vs
10.87%, p = 0.05), high differentiation (37.5% vs 13.4%, p = 0.038). There was no significant
difference in disease stage, endoscopic characteristics, and histopathology by tumor location.
Keywords: colon cancer, tumor location, clinical features
Các file đính kèm theo tài liệu này:
su_khac_biet_ve_dac_diem_lam_sang_giua_ung_thu_dai_trang_pha.pdf