Tương tự, trong một nghiên cứu tiền cứu với
qui mô lớn trên trẻ mổ tim bẩm sinh phức tạp,
Polito(8) và cộng sự đã cho thấy nhóm bệnh nhân
có mức đường huyết trên 7 mmol/L trong
khoảng thời gian 72 giờ đầu sau mổ có liên quan
với nhiễm trùng. Ngoài ra, ở thời điểm này,
những bệnh nhân có mức đường huyết trung
bình dưới 6.1 mmol/L hay trên 7.9 mmol/L hoặc
mức đường huyết tối thiểu ≤ 4.1 mmol/L hay tối
đa ≥ 13.9 mmol/L tất cả đều liên quan với nhiễm
trùng và các biến chứng khác.
Nghiên cứu của chúng tôi có vài hạn chế,
thực hiện tại một trung tâm nên đặc điểm bệnh
tật và kết quả sẽ khác với trung tâm khác. Chúng
tôi có sử dụng insulin để kiểm soát đường huyết,
tuy nhiên không có phác đồ cụ thể nào, sử dụng
theo kinh nghiệm từng bác sĩ nên mức đường
huyết có thể khác so với những trung tâm khác.
Diễn tiến của quá trình viêm và nhiễm trùng có
thể thay đổi trong trường hợp có dùng insulin.
Insulin được biết cũng có tác động cải thiện hệ
miễn dịch do tính chất chống viêm, ức chế sản
xuất các sản phẩm tiền viêm và tăng các cytokin
chống viêm(4, 7)
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 265 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự liên hệ giữa tăng đường huyết và biến chứng sau mổ tim trẻ em, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 100
SỰ LIÊN HỆ GIỮA TĂNG ĐƯỜNG HUYẾT
VÀ BIẾN CHỨNG SAU MỔ TIM TRẺ EM
Huỳnh Khiêm Huy*, Nguyễn Thị Quý**, Lê Trung Hiếu*
TÓM TẮT
Mở đầu:tình trạng tăng đường huyết sau mổ tim trẻ em rất phổ biến. Trong khi đó, sự liên hệ giữa tăng
đường huyết và biến chứng sau mổ hiện chưa được sáng tỏ. Việt Nam hiện chưa có phân tích nào về vấn đề này.
Mục Tiêu: tìm mối liên hệ giữa tăng đường huyết sau mổ với biến chứng sau mổ tim trẻ em.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu:nghiên cứu cắt ngang phân tích. Thu thập thông tin trước, trong và
sau mổ bệnh án trẻ từ 1 tháng đến 14 tuổi mổ tim. Các đặc điểm bệnh nhân gồm tuổi, giới, cân nặng, chiều cao.
Đặc điểm bệnh lý: tím, RACHS-1,phương pháp phẫu thuật. Các yếu tố trong và sau mổ: thời gian tuần hoàn
ngoài cơ thể, hạ thân nhiệt, dùng corticoid, truyền máu và thời gian nằm hồi sức. Ghi nhận đường huyết sau mổ.
Tìm mối liên hệ giữa tăng đường huyết sau mổ với biến chứng thông qua tỉ số chênh PRR (Prevalence Rate
Ratio), khoảng tin cậy (KTC) 95%.
Kết quả: Có 274 bệnh nhân tham gia nghiên cứu với 181 trường hợp có biến chứng sau mổ chiếm tỉ lệ
66.1%. Có 226 trường hợp tăng đường huyết sau mổ chiếm 82.5%. Sau khi được kiểm soát bởi các yếu tố trước,
trong và sau mổ, sự liên hệ giữa tăng đường huyết sau mổ với biến chứng sau mổ là PRR = 1.3, KTC 95% (0.9-
1.8), P = 0.2
Kết luận: không có mối liên hệ giữa tăng đường huyết sau mổ tim trẻ em với biến chứng sau mổ theo nghiên
cứu này.
SUMMARY
ASSOCIATION BETWEEN POSTOPERATIVE HYPERGLYCEMIA AND POSTOPERATIVE
COMPLICATIONS IN PEDIATRIC CARDIAC SURGERY
Huynh Khiem Huy, Nguyen Thi Quy, Le Trung Hieu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 4- 2014: 100 - 104
Background –Objectives: Hyperglycemia commonly occurs after pediatric cardiac surgery. In Viet Nam,
data regarding the association between glycemic profiles in children after cardiac operations and posoperative
complications is limit. The aim of this study was to evaluate the association between postoperative hyperglycemia
and complications in children undergoing cardiac surgery.
Method: Cross sectional analysis study. Pediatric cardiac surgery from 1 month to 14 years old were
accepted in study. All serum glucose values in postoperative were documented. Patients characteristic include:
age, sex, weight, height. Characteristics of disease: cyanose, RACHS-1 (Risk Adjustment For Congenital Heart
Surgery), operating methods. Perioperative factors: cadiopulmonary bypass time, hypothermia, corticoids using,
transfusion. Multivariate Poisson regression were used to determine association between hyperglycemia and
postoperative complications.
Results: There are 274 patients admitted to Surgical Intensive Care Unit during study. One hundred and
eighty-one patients were confirmed complication (66.1%), 226 patients were diagnosed hyperglycemia (82.5%).
When controlling for perioperative factors, Prevalence rate ratio is 1.3 (0.9-1.8), P = 0.2.
* Bệnh viện tim Tâm Đức – TP.Hồ Chí Minh, ** Viện Tim – TP.Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Huỳnh Khiêm Huy, ĐT: 0938787220, Email: huynhkhiemhuy@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 101
Conclusion: In children undergoing congenital heart surgery, we did not find association between
hyperglycemia and postoperative complications.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rất nhiều yếu tố có thể gây tăng đường
huyết sau mổ. Tùy theo đối tượng bệnh nhân và
định nghĩa tăng đường huyết, tỉ lệ tăng đường
huyết sau mổ có thể dao động từ 16.7 đến
86,7%(1,2). Đối với trẻ em mổ tim, tăng đường
huyết sau mổ có liên hệ với nhiều biến chứng(12,3).
Tuy nhiên, cũng có nghiên cứu lại cho rằng
không có mối liên hệ này(10, 2). Chúng tôi thực
hiện nghiên cứu này nhằm khảo sát tình trạng
tăng đường huyết sau mổ, đồng thời xác định
xem liệu có sự liên hệ giữa tăng đường huyết sau
mổ với biến chứng sau mổ tim trẻ em.
Mục tiêu nghiên cứu
Tìm mối liên hệ giữa tăng đường huyết sau
mổ với biến chứng sau mổ tim trẻ em.
BỆNH NHÂN VÀ PHƯƠNG PHÁP
Tiêu chí chọn bệnh
Tất cả các bệnh nhân trẻ em từ 1 tháng đến
14 tuổi được phẫu thuật tim bẩm sinh tại bệnh
viện tim Tâm Đức trong thời gian từ 7/2102 đến
tháng 9/2013.
Tiêu chí loại
Có tiền căn đái tháo đường trước mổ
Được chẩn đoán nhiễm trùng trước mổ
Được truyền dung dịch glucose hoặc có
dùng corticoid trước mổ
Bệnh nhân có thở máy trước mổ, hoặc bệnh
nhân đã nằm tại khoa hồi sức trước mổ.
Là bệnh mổ lại của khoa hồi sức và đã tham
gia vào nghiên cứu này trước đây
Bệnh nhân sau khi chuyển sang hồi sức. Tất
cả đều được thở máy và cai máy khi đủ tiêu
chuẩn. Thời gian thở máy được tính từ lúc bệnh
nhân được chuyển qua hồi sức tới khi rút ống
nội khí quản.
Cung cấp dịch chủ yếu là glucose 10% với
liều lượng 2 mL/kg/giờ trong 24 giờ đầu. Thực
hiện đo đường huyết thường qui bằng máy đo
tại giường Medisafe Mini Terumo mỗi 4 giờ
trong 24 giờ đầu sau mổ. Có thể đo đường huyết
mỗi 8 giờ những ngày sau nếu đường huyết ổn
định. Trong trường hợp đường huyết tăng cao
>20 mmol/L, bệnh nhân được kiểm soát đường
huyết bằng cách tạm ngưng truyền glucose và
thay thế dịch bằng lactate ringer. Nếu sau 4 giờ
thử lại đường huyết không giảm, dùng insulin.
Những trường hợp bệnh nhân bị hạ đường
huyết (< 4 mmol/L) đều được dùng glucose 30%
với lượng 5 mL/kg và theo dõi đường huyết mỗi
30 phút đến mỗi giờ. Tăng đường huyết được
xác định khi bệnh nhân có ít nhất hai lần đo bất
kỳ ≥ 7.8 mmol/L (140 mg/dL) trong thời gian
nằm hồi sức.
Xác định có dùng corticoid khi bệnh nhân
được tiêm một trong ba loại thuốc sau đây trong
thời gian mổ hoặc ở giai đoạn hồi sức:
methylprednisolone (30 mg/kg), dexamethasone
(1 mg/kg), hydrocortisone (2 mg/kg).
Bệnh nhân được xác định có truyền máu khi
được dùng một trong những chế phẩm máu
gồm hồng cầu lắng, huyết tương tươi đông lạnh
hoặc tiểu cầu.
Chẩn đoán nhiễm trùng dựa theo tiêu chuẩn
của Cục kiểm soát và phòng bệnh Mỹ(5).
Các yếu tố sau mổ có liên quan đến biến
chứng bao gồm: tử vong, nhiễm trùng, suy thận
cần điều trị thay thế thận, dùng thuốc vận mạch
hay tăng co bóp trên 24 giờ sau mổ, thở máy hơn
48 giờ sau mổ, co giật hoặc hôn mê sau mổ. Bệnh
nhân được xem là có biến chứng khi có một
trong các yếu tố liệt kê trên.
So sánh biến định tính bằng phép kiểm
Fisher chính xác, phân tích mối liên hệ bằng
phép tính hồi qui Poisson đa biến, tính tỉ số PR
và khoảng tin cậy 95%. Các yếu tố kiểm soát bao
gồm: tuổi, cân nặng, chiều cao, tím, chỉ số nguy
cơ phẫu thuật RACHS-1(†), phương pháp phẫu
thuật, thời gian tuần hoàn ngoài cơ thể, hạ thân
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 102
nhiệt, dùng corticoid và truyền máu. Ngưỡng có
ý nghĩa thống kê khi giá trị P < 0.05.
KẾT QUẢ
Từ tháng 7/2012 đến tháng 9/2013 chúng tôi
nhận được 274 bệnh nhân vào nghiên cứu, thu
thập được 3912 mẫu đường huyết thực hiện tại
giường. Tuổi trung vị là 2 tuổi, tuổi nhỏ nhất là
36 ngày tuổi, cao nhất là 14 tuổi. Cân nặng trung
vị là 9.5 kg. Bệnh nhân có cân nặng thấp nhất là
3,5 kg và cao nhất là 43 kg. Chiều cao trung bình
là 86.2cm. Bệnh nhân thấp nhất là 72cm, cao nhất
là 152cm. Đa số bệnh nhân trong nhóm nghiên
cứu là bệnh tim bẩm sinh không tím (65.3%).
Hầu hết được làm phẫu thuật triệt để (92.3%), có
chạy tuần hoàn ngoài cơ thể (94.9%) và có phân
độ nguy cơ phẫu thuật theo bảng phân loại
RACHS-1 là ở mức 2 (76.2%). (bảng 1 và 2)
Bảng 1: Đặc điểm nhân trắc
Đặc điểm Kết quả
Tổng số bệnh nhân 274
Tuổi (năm)(*) 2(1-5)
Giới nam (%) 54.7
Cân nặng (kg)(*) 9.5 (7-14)
Chiều cao (cm)(†) 86.2 ± 23
(*) Trung vị (tứ phân vị) (†) Trung bình ± độ lệch chuẩn
Bảng 2: Đặc điểm bệnh lý tim mạch và phương pháp
phẫu thuật
Đặc điểm n %
Có bệnh tim bẩm sinh tím 95 34.7
PT Tạm thời 21 7.7
PT Triệt để 253 92.3
PT Có THNCT 260 94.9
PT Không THNCT 14 5.1
Chỉ số RACHS-1: 1 22 8
Chỉ số RACHS-1: 2 208 75.9
Chỉ số RACHS-1: 3 44 16.1
Thời gian THNCT, mức độ hạ thân nhiệt,
dùng corticoid và truyền máu ở hai nhóm bệnh
nhân có và không tăng đường huyết 24 giờ đầu
sau mổ được thể hiện qua bảng 3. Bệnh nhân
tăng đường huyết sau mổ có thời gian chạy
THNCT lâu hơn, hạ thân nhiệt sâu hơn, có dùng
corticoid và có truyền máu nhiều hơn.
Bảng 3: Các đặc điểm trong mổ
Kết quả
Đường huyết sau mổ
Giá trị P
Tăng Không tăng
THNCT (phút)(*) 60(42-86) 44(35-52) <0.001
Hạ thân nhiệt(†) 7(14.6) 85(37.6) 0.002
Dùng corticoid(†) 66(29.2) 0 <0.001
Truyền máu(†) 97(43.3) 6(12.5) <0.001
(*) Trung vị (khoảng tứ vị); (†): n (%)
Bảng 4: Các biến chứng sau mổ
Biến chứng n %
Tử vong 6 2.2
Nhiễm trùng 61 22.3
Suy thận 20 7.3
Thở máy > 48 giờ 51 18.6
Vận mạch > 24 giờ 178 65
Co giật hoặc hôn mê 0 0
Biến chứng gộp 181 66.1
Có 181 bệnh nhân xuất hiện một trong các
biến chứng nêu trên chiếm tỉ lệ 66.1%, trong đó
chiếm nhiều nhất là bệnh nhân có dùng thuốc
vận mạch >24 giờ (65%), sau đó đến nhiễm trùng
(22.3%) và thở máy > 48 giờ (18.6%). Có 6 trường
hợp tử vong chiếm tỉ lệ 2.2%.
Biểu đồ 1: Tình trạng đường huyết sau mổ phân bố
theo biến chứng
Ngoài ra, mức đường huyết 24 giờ đầu,
đường huyết đỉnh và đáy trong thời gian nằm
hồi sức ở nhóm bệnh nhân có biến chứng cao
hơn có ý nghĩa. Không có sự khác biệt về mức
đường huyết trung bình giữa hai nhóm.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 103
Bảng 3: Liên quan mức đường huyết 24 giờ đầu với
biến chứng
Biến chứng
Đường huyết sau mổ
PRR
(KTC 95%)
P Tăng n(%) Không tăng
n(%)
Nhiễm trùng 59(26,1) 2(4,2)
1,5
(0,4-5,3)(*)
0,55
Thở máy >
48 giờ
50(22,1) 1(2,1)
2
(0,4-10,8)(*)
0,41
Vận mạch >
24 giờ
161(71,2) 17(35,4)
1,2
(0,9-1,7)(*)
0,27
Suy thận 20(8,9) 0 1(*)
Tử vong 6(2,7) 0 0,59
Co giật, hôn
mê
0 0
Biến chứng
gộp
164(72,6) 17(35,4)
1,3
(0,9-1,8)(*)
0,2
(*): các giá trị sau khi được kiểm soát bởi các yếu tố trước,
trong và sau mổ,
Trong phân tích hồi qui đa biến có kiểm soát
các yếu tố trước, trong và sau mổ như đã nêu
trên. Kết quả cho thấy thấy không có mối liên hệ
giữa tăng đường huyết và biến chứng sau mổ
với PRR = 1.3, KTC 95% (0.9-1.8), P = 0.2
BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi là tiền cứu khảo
sát tình trạng tăng đường huyết sau mổ tim trẻ
em, đồng thời tìm mối liên hệ giữa tăng đường
huyết với biến chứng sau mổ và kết quả cho thấy
không có liên hệ.
Kết quả này tương tự như trong nghiên cứu
của tác giả Rossano(10) trên nhóm bệnh nhân mổ
chuyển vị đại động mạch. Trẻ có mức đường
huyết 24 giờ đầu cao hơn 20 mmol/L không liên
quan với tử vong và các biến chứng sau mổ. Có
thể giải thích tăng đường huyết chỉ là một đáp
ứng bình thường sau đả kích phẫu thuật như
nhiều nghiên cứu đã đề cập(6). Trong quá trình
đả kích do phẫu thuật, có sự gia tăng các hóc
mon cortisol, catecholamine, các cytokin và sự đề
kháng của insulin đưa đến sự tăng sự tạo đường
từ gan, mô ngoại biên giảm sử dụng đường,
thiếu hụt insulin kết quả là tăng đường
huyết(9,11). Tương tự, một phân tích của tác giả
DeCampli(1) trên 144 bệnh nhân trẻ em mổ tim
cho thấy tình trạng tăng đường huyết sau mổ
không có mối liên quan với tỉ lệ tử vong và
nhiễm trùng.
Trái ngược với kết quả của chúng tôi, trong
nghiên cứu của tác giả Yates(12) trên 184 bệnh
nhân nằm hồi sức sau mổ tim cho thấy mức
đường huyết sau mổ trên 7 mmol/L có liên quan
với tỉ lệ nhiễm trùng, suy thận và các biến cố
thần kinh. Ngoài ra, thời gian tăng đường huyết
cũng cho thấy liên quan có ý nghĩa với nhiễm
trùng sau mổ và tử vong. Tuy nhiên, sự khác biệt
về đặc điểm giữa hai nghiên cứu có thể cho kết
quả khác nhau. Nhóm bệnh nhân của tác giả
Yates(12) có tuổi nhỏ hơn, nhỏ ký hơn và phẫu
thuật phức tạp hơn. Tác giả Ghafoori(3) cũng cho
rằng bệnh nhân trẻ em sau mổ tim có tăng
đường huyết với mức đường huyết đỉnh trong
48 giờ đầu > 7.2 mmol/L thì tăng tỉ lệ viêm xương
ức. Chúng tôi cho rằng sự tăng đường huyết xảy
ra tạm thời sau mổ có thể không liên quan với
biến chứng, nếu tình trạng tăng đường huyết
kéo dài hơn 48 giờ như trong nghiên cứu của tác
giả Ghafoori(3) thì lại có liên quan.
Tương tự, trong một nghiên cứu tiền cứu với
qui mô lớn trên trẻ mổ tim bẩm sinh phức tạp,
Polito(8) và cộng sự đã cho thấy nhóm bệnh nhân
có mức đường huyết trên 7 mmol/L trong
khoảng thời gian 72 giờ đầu sau mổ có liên quan
với nhiễm trùng. Ngoài ra, ở thời điểm này,
những bệnh nhân có mức đường huyết trung
bình dưới 6.1 mmol/L hay trên 7.9 mmol/L hoặc
mức đường huyết tối thiểu ≤ 4.1 mmol/L hay tối
đa ≥ 13.9 mmol/L tất cả đều liên quan với nhiễm
trùng và các biến chứng khác.
Nghiên cứu của chúng tôi có vài hạn chế,
thực hiện tại một trung tâm nên đặc điểm bệnh
tật và kết quả sẽ khác với trung tâm khác. Chúng
tôi có sử dụng insulin để kiểm soát đường huyết,
tuy nhiên không có phác đồ cụ thể nào, sử dụng
theo kinh nghiệm từng bác sĩ nên mức đường
huyết có thể khác so với những trung tâm khác.
Diễn tiến của quá trình viêm và nhiễm trùng có
thể thay đổi trong trường hợp có dùng insulin.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 104
Insulin được biết cũng có tác động cải thiện hệ
miễn dịch do tính chất chống viêm, ức chế sản
xuất các sản phẩm tiền viêm và tăng các cytokin
chống viêm(4, 7)
KẾT LUẬN
Ở bệnh nhân trẻ em mổ tim bẩm sinh, tình
trạng tăng đường huyết sau mổ không có mối
liên hệ với biến chứng bao gồm tử vong, nhiễm
trùng, suy thận, thở máy hơn 48 giờ và dùng vận
mạch hơn 24 giờ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. DeCampli WM, Olsen MC, et al (2010) "Perioperative
hyperglycemia: effect on outcome after infant congenital heart
surgery". Ann Thorac Surg, 89: 181–186
2. Faustino EV, Apkon M (2005) "Persistent hyperglycemia in
critically ill children". J Pediatr, 146:30-4
3. Ghafoori A. F, Twite M. D, Friesen R. H (2008) "Postoperative
hyperglycemia is associated with mediastinitis following
pediatric cardiac surgery". Paediatric anaesthesia, 18 (12),
1202-7.
4. Hansen TK, Thiel S, et al (2003) "Intensive insulin therapy
exerts antiinflammatory effects in critically ill patients and
counteracts the adverse effect of low mannose-binding lectin
levels". J Clin Endocrinol Metab, 88:1082-8
5. Horan TC, Andrus Mary, et al (2008) "CDC/NHSN
surveillance definition of health care–associated infection and
criteria for specific types of infections in the acute care setting".
American Journal of Infection Control, 36:309-332
6. Jakob SM, Ensinger H (2001) "Metabolic changes after cardiac
surgery". Curr Opin Clin Nutr Metab Care, 4:149-55
7. Jeschke MG, Klein D, Herndon DN (2004) "Insulin treatment
improves the systemic inflammatory reaction to severe
trauma". Ann Surg, 239:553–60
8. Polito A, Thiagarajan RR, et al (2008) "Association between
intraoperative and early postoperative glucose levels and
adverse outcomes after complex congenital heart surgery".
Circulation, 118: 2235–2243
9. Raghavan M, Marik PE (2006) "Stress hyperglycemia and
adrenal insufficiency in the critically ill". Semin Respir Crit
Care Med, 27(3):274-85
10. Rossano JW, Taylor MD, et al (2008) "Glycemic profile in
infants who have undergone arterial switch operation:
hyperglycemia is not associated with adverse events". J Thorac
Cardiovasc Surg, 135: 739–745
11. Wintergerst KA, Deiss D, et al (2007) "Glucose control in
pediatric intensive care unit patients using an insulin - glucose
algorithm". Diabetes Technology & Therapeutics, 9: 211–222
12. Yates AR, Dyke PC, Taeed R, et al (2006) "Hyperglycemia is a
marker for poor outcome in the postoperative cardiac patient".
Pediatr Crit Care Med, 7: 351–355
Ngày nhận bài báo: 19/04/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 29/04/2014
Ngày bài báo được đăng: 30/6/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- su_lien_he_giua_tang_duong_huyet_va_bien_chung_sau_mo_tim_tr.pdf