So sánh kết quả dương tính với PCV2
giữa mẫu dịch xoang miệng với mẫu máu,
phủ tạng
Trong điều kiện thực tế, lợn bệnh được mổ
khám và lợn được chọn để thu mẫu dịch xoang
miệng được nuôi cùng một dãy chuồng. Tuy
nhiên những lợn bệnh được nuôi cách ly trong ô
chuồng cuối cùng trong dãy. Trong nghiên cứu
này, chúng tôi tiến hành lấy mẫu đồng thời ở cả
3 nguồn bệnh phẩm (mẫu huyết thanh, mẫu phủ
tạng và mẫu dịch xoang miệng ) để xác định tỷ
lệ nhiễm virus PCV2 nhằm tìm mối tương quan
giữa ba nguồn bệnh phẩm này.
Bảng 4 cho thấy tỷ lệ dương tính với PCV2
ở mẫu phủ tạng là cao nhất (24,2%), cao hơn
so với dịch xoang miệng (23,7%), mẫu huyết
thanh có tỷ lệ dương tính với PCV2 là 22,7% .
Tuy nhiên sự sai khác này lại không có ý nghĩa
về mặt thống kê (p= 0,21).
IV. KẾT LUẬN
Tất cả các xã lấy mẫu thuộc 2 huyện Yên
Thành và Nam Đàn, Nghệ An đều bị nhiễm
PCV2, điều này chứng tỏ sự lưu hành PCV2 rất
rộng rãi, là mối nguy hại cho ngành chăn nuôi
lợn ở tỉnh Nghệ An.
Không những lợn có dấu hiệu hô hấp điển
hình bị nhiễm PCV2 mà ngay cả những lợn
không có dấu hiệu hô hấp điển hình cũng có
nhiễm PCV2 với tỷ lệ nhiễm khác nhau và
không có ý nghĩa thống kê.
Ngoài việc sử dụng phương pháp lấy mẫu
huyết thanh và phủ tạng để chẩn đoán bệnh do
PCV2 gây ra thì lấy mẫu dịch xoang miệng cũng
là một phương pháp hữu hiệu để chẩn đoán bệnh
này. Tỷ lệ nhiễm PCV2 phân lập được từ mẫu
dịch xoang miệng là 23,7%.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự lưu hành của porcine circovirus type 2 trên lợn nuôi tại một số trại thuộc huyện Nam Đàn và Yên Thành, tỉnh Nghệ An, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
10
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 1 - 2018
SÖÏ LÖU HAØNH CUÛA PORCINE CIRCOVIRUS TYPE 2 TREÂN LÔÏN NUOÂI TAÏI
MOÄT SOÁ TRAÏI THUOÄC HUYEÄN NAM ÑAØN VAØ YEÂN THAØNH, TÆNH NGHEÄ AN
Phạm Hoàng Sơn Hưng1, Nguyễn Xuân Hòa1,
Dương Tất Thắng2 , Đinh Văn Tài2, Phan Vũ Hải 1
TÓM TẮT
Porcine Circovirus type 2 (PCV2) là một mầm bệnh truyền lây và là tác nhân gây bệnh quan
trọng trên lợn gây nên hội chứng sau cai sữa và các bệnh khác được gọi là "bệnh Circovirus lợn”.
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định tình hình nhiễm PCV2 ở đàn lợn nuôi tại 6 xã thuộc
huyện Yên Thành và Nam Đàn, tỉnh Nghệ An bằng kỹ thuật Real time PCR với tổng số 93 mẫu bệnh
phẩm. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mẫu thu từ xã Hoa Thành (huyện Yên Thành) có tỷ lệ nhiễm
PCV2 cao nhất (29,4%), tiếp đến là xã Phú Thành (huyện Yên Thành) và xã Nam Anh (huyện Nam
Đàn) (25,0%). Tỷ lệ mẫu dương tính với PCV2 từ lợn không có dấu hiệu của bệnh hô hấp điển hình
là 22,2% và từ lợn có biểu hiện của bệnh hô hấp điển hình là 25,0%. Mẫu thu từ dịch xoang miệng,
huyết thanh và mẫu phủ tạng cho kết quả dương tính với PCV2 lần lượt là 23,7%; 22,7% và 24,2%.
Như vậy, ngoài việc sử dụng phương pháp lấy mẫu máu và phủ tạng hiện đang phổ biến sử dụng để
chẩn đoán bệnh do PCV2 gây ra thì lấy mẫu dịch xoang miệng cũng là một phương pháp hữu hiệu
để chẩn đoán bệnh này. Kết quả của nghiên cứu này sẽ là tài liệu tham khảo có ý nghĩa cho những
nghiên cứu tiếp theo về PCV2 lưu hành tại tỉnh Nghệ An và giúp đề xuất biện pháp phòng chống bệnh
do PCV2 gây ra trên những đàn lợn nuôi tại Việt Nam.
Từ khóa: lợn, Porcine circovirus type 2, PCR, tỷ lệ nhiễm, tỉnh Nghệ An
Prevalence of porcine circovirus type 2 in swine populations
in Nam Dan and Yen Thanh district, Nghe An province
Pham Hoang Son Hung, Nguyen Xuan Hoa,
Duong Tat Thang , Dinh Van Tai, Phan Vu Hai
SUMMARY
Porcine circovirus type 2 (PCV2) is a wide spread, important pathogen of domestic swine
and the causative agent of post-weaning syndrome and other diseases, known as "porcine
circovirus diseases". The objective of this study was to evaluate the prevalence of infection
with porcine circovirus-2 (PCV-2) in the post-weaning pigs in 6 communes of Nam Dan and
Yen Thanh district, Nghe An province. Result of analyzing 93 samples collected in 2015 by
Real time PCR technique showed that all of the investigated communes were infected by PCV2
with an average infection rate of 23.7%. Of which, Hoa Thanh commune accounted for the
highest prevalence (29.4%), followed by Phu Thanh and Nam Anh commune (25.0%). The
rate of positive samples with PCV2 collecting from pigs with and without symptom of the typical
respiratory diseases was 25.0% and 22.2%, respectively. Samples collected from oral cavity,
serum and innards were positive with PCV2 to be 23.7%; 22.7% and 24.2%, respectively.
Therefore, in order to diagnose PCV diseases, apart from common methods of serum and
innards collection, sample collecting from oral cavity is also an effective method. This result
seems to be meaningful for the subsequent studies on the prevalence of PCV2 in Nghe An
province and for the prevention of diseases caused by PCV2 in the swine herds in Viet Nam.
Keywords: pigs, PCV2, PCR, prevalence, Nghe An province.
1. Đại học Nông Lâm - Đại học Huế
2. Cơ quan Thú y vùng III
11
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 1 - 2018
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngành chăn nuôi lợn ngày càng phát triển và
giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta.
Đặc biệt ngành chăn nuôi lợn đã có nhiều thay
đổi đáng kể, đáp ứng nhu cầu thực phẩm của
người dân. Chăn nuôi lợn đã trở thành nguồn
thu nhập quan trọng và là một trong những
ngành nghề góp phần dịch chuyển cơ cấu nền
kinh tế nông nghiệp. Cùng với sự phát triển của
ngành chăn nuôi, kéo theo đó là sự gia tăng về
tình hình dịch bệnh. Ngoài những dịch bệnh đã
được nhiều nhà nghiên cứu đề cập trong các
nghiên cứu như tai xanh, lở mồm long móng
hay cúm lợn và hiện đã có phương pháp phòng
bệnh hữu hiệu. Bệnh mới nổi gây ra do Porcine
Circovirus (PCV) tuy không gây nên những đợt
dịch lớn, nhưng nó lại ngấm ngầm gây thiệt hại
kinh tế nghiêm trọng cho chăn nuôi lợn, do tiêu
tốn thức ăn cao, lợn chậm lớn.
PCV là virus thuộc họ Circoviridae, bao gồm
Porcine circovirus type 1 (PCV1) và Porcine
circovirus type 2 (PCV2) [10]. Năm 1971,
PCV1 được tìm thấy nhưng được xác định là
không gây bệnh. Đến năm 1997, các nhà khoa
học mới phân lập thành công PCV2 từ một ổ
dịch. Virus sau đó đã được cấy chuyển vào lợn
sau cai sữa ở phòng thí nghiệm và đã phát hiện
một loạt các triệu chứng của bệnh được báo cáo
lại như: gầy yếu, viêm da, có triệu chứng hô hấp,
dấu hiệu thần kinh, sưng hạch bạch huyết [9].
Trong các triệu chứng bệnh do PCV2 gây ra, thì
hiện tượng gầy yếu ở lợn sau cai sữa được coi là
nguyên nhân gây thiệt hại kinh tế nghiêm trọng
cho ngành chăn nuôi. Khi mắc bệnh này, lợn
bệnh có thể chỉ đạt trọng lượng khoảng 30kg,
trong khi lợn không mắc bệnh ở cùng lứa tuổi
có thể đạt 90-100kg.
Nguyễn Thị Thu Hồng và cộng sự (2006) cho
biết PCV2 xuất hiện ở Việt Nam từ năm 2000
với tỷ lệ nhiễm 38,97% và tăng dần đến 90,26%
(năm 2005) [6]. Huỳnh Thị Mỹ Lệ và cộng sự
(2012) đã xác định được sự lưu hành và genotype
của PCV2 ở đàn lợn nuôi tại một số tỉnh miền
Bắc Việt Nam [4]. Theo khảo sát của chúng tôi,
trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 9/2014, lợn
được nuôi tại các trại thuộc 2 huyện Nam Đàn
và Yên Thành, tỉnh Nghệ An có một số các triệu
chứng về hô hấp rất điển hình, ngoài ra lợn gầy
yếu, bỏ ăn...Điều này làm cho các chủ chăn nuôi
rất lo lắng và hoang mang. Nghiên cứu này nhằm
xác định tình hình nhiễm PCV2 ở một số trại
lợn thuộc 2 huyện Nam Đàn và Yên Thành, tỉnh
Nghệ An, từ đó chuẩn hóa phương pháp lấy mẫu
dịch xoang miệng trong việc chẩn đoán bệnh do
PCV2 gây ra. Nội dung nghiên cứu được thực
hiện thành công sẽ tạo ra nguồn giống virus phục
vụ cho những nghiên cứu sản xuất vacxin phòng
bệnh do PVC2 gây ra trong tương lai.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
- Mẫu bệnh phẩm: gồm mẫu huyết thanh,
mẫu phủ tạng và mẫu dịch xoang miệng của
lợn sau cai sữa, được nuôi tại một số trại lợn
thuộc địa bàn huyện Nam Đàn và Yên Thành,
tỉnh Nghệ An.
- Hoá chất dùng tách chiết DNA tổng số gồm:
(1) dung dịch ly giải mẫu có chứa 27% sucrose;
15 mM trisodium citrate; 0,15 M NaCl, 1 mM
ethylene diaminetetraacetic acid, 1% sodium
dodecyl sulphate, 200 µg/ml proteinase K; (2)
phenol-chloroform-isoamyl alcohol (25:24:1);
(3) isopropyl; (4) cồn 70%; (5) dung dịch đệm
TE (pH = 8).
Sinh phẩm, hóa chất dùng cho phản ứng
PCR: Hóa chất tách DNA từ bệnh phẩm (Cart
No.74106). Nguyên liệu nhân gen PCR Qiagen
(Cart No.210210).
- Các loại máy móc thiết bị: máy vortex, máy
ly tâm mini (spin down), thùng đá, micropipet,
PCR cabinet.
2.2. Địa điểm, thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại Trạm chẩn
đoán xét nghiệm bệnh động vật - Cơ quan Thú y
vùng III, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
Thời gian nghiên cứu từ 10/1/2015 đến
8/5/2015.
12
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 1 - 2018
2.3. Phương pháp nghiên cứu 2.3.1. Phương pháp thu mẫu
Hình 1. Bố trí thu mẫu dịch xoang miệng
ngay tại chuồng nuôi
Hình 2. Thu mẫu dịch xoang miệng để
chuyển về phòng xét nghiệm
Dịch xoang miệng: được lấy ngẫu nhiên
từ các ô chuồng có lợn đang có biểu hiện
hoặc không có biểu hiện hô hấp điển hình.
Cách lấy mẫu dịch xoang miệng: Sử dụng
dây thừng cotton (đã xử lý bằng cách ngâm
dung dịch đệm PBS, pH =7,2, hấp khử trùng
1210C, sấy khô) có khả năng thấm nước tốt,
treo ngang tầm vai của lợn. Thời gian đặt dây
thừng khoảng 30 phút, đảm bảo tất cả lợn trong
ô chuồng có thể tiếp cận và nhai được dây. Sau
đó, dây thừng được thu lại và vắt lấy dịch xoang
miệng trực tiếp vào túi nylon (túi zip) vô trùng.
- Mẫu huyết thanh: Được lấy từ lợn đang bị
bệnh (có biểu hiện hô hấp, còi cọc, viêm da và
sốt). Máu: lấy máu tĩnh mạch tai hoặc vịnh tĩnh
mạch cổ, để đông tự nhiên trong 1 giờ ở nhiệt độ
phòng, sau đó để qua đêm ở 40C. Tiến hành chắt
huyết thanh vào ống eppendorf và bảo quản ở
-200C cho đến khi kiểm tra [6].
- Mẫu phủ tạng: Được lấy từ lợn bị bệnh
nặng hoặc đã chết. Mẫu bao gồm gan, hạch
amidan, hạch lympho, thận, lách, phổi, ruột
của lợn. Tiến hành đồng nhất mẫu và bảo quản
ở -200C cho đến khi kiểm tra [3].
2.3.2. Phương pháp tách chiết DNA
Bảng 1. Trình tự cặp mồi dùng trong chẩn đoán và xác định genotype PCV2
PPP Name
(Source)
Primer/
Probe Trình tự mồi (5
’-3’)
Modification
5’ 3’
PCV2-1
(JVDI)
Probe CCAGCAATCAGACCCCGTTAATG FAM BHQ1
Forward TGGCCCCGCAGTATTCTGATT None None
Reverse CAGCTGGGACAGCAGTTGAG None None
Chuẩn bị mẫu
- Mẫu phủ tạng: đồng nhất mẫu bằng máy
nghiền. Lấy 0,1-0,2 g mẫu đã đồng nhất cho vào
ống eppendorf 1,5 ml chứa bột thủy tinh đã ghi
sẵn ký hiệu. Cho thêm vào 600µl PBS và tiến
hành nghiền mẫu bằng máy trong 2 phút. Sau
khi nghiền mẫu, tiến hành ly tâm trong vòng 15
giây, sau đó cho vào tủ đông -400C trong 1 giờ.
Sau 1 giờ, lấy mẫu ra giải đông, trộn đều mẫu
13
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 1 - 2018
và cho vào máy ly tâm 9000 vòng/phút trong 5
phút, thu dịch nổi lên bề mặt trên để chiết tách
DNA [8]chicken anaemia virus (CAV).
- Mẫu huyết thanh: Sử dụng huyết thanh đã
được chiết tách như đã nêu ở trên.
Hóa chất chiết tách: Bộ Kit chiết tách DNA
theo hướng dẫn của nhà sản xuất Qiagen RNeasy
Extraction. DNA sau khi tách có thể giữ ở 4oC
trong vài giờ nếu sử dụng ngay. Cất giữ ở nhiệt
độ -20oC nếu chưa dùng ngay trong ngày [8].
Sau khi có DNA mẫu, tiến hành phản ứng
Realtime-PCR trên máy Biorad IQ5 hoặc
Smartcycler [8].
Sau khi kết thúc phản ứng Realtime-PCR,
nếu có mặt của virus PCV2, sẽ được khuếch đại
đặc hiệu của trình tự nucleotid thông qua những
đoạn mồi chuyên biệt. Việc xác định sự có mặt
của virus thông qua phần mềm tạo ra đường
cong các đồ thị và chu kỳ ngưỡng (Ct). Đối
chứng không có mẫu DNA (NTC) phải không
có sự khuếch đại đặc hiệu và không có Ct.
Kết quả được xác định dương tính khi có sự
khuếch đại đặc hiệu, đường cong khuếch đại
tương tự như đường cong đối chứng dương và
giá trị Ct ≤ 35. Kết quả được xem là âm tính, khi
không có sự khuếch đại đặc hiệu, đường cong
khuếch đại giống như đối chứng âm tính và
không cho giá trị Ct. Mẫu được xác định là nghi
ngờ khi có đường cong khuếch đại giống đối
chứng dương nhưng giá trị ngưỡng nằm trong
khoảng 35< Ct≤ 40. Những mẫu nghi ngờ cần
tiếp tục xét nghiệm lại và tiến hành phân lập
virus.
Phản ứng có giá trị khi mẫu đối chứng dương
cho giá trị Ct ngưỡng dao động + 2 so với giá
trị Ct đã định ban đầu và có đường cong chuẩn.
Đối chứng âm tính không có tín hiệu khuếch đại
đặc hiệu và giá trị Ct. Đối chứng không có mẫu
RNA, không có tín hiệu khuếch đại đặc hiệu và
giá trị Ct.
- Mẫu dịch xoang miệng: Sử dụng dịch được
thu lại và bảo quản trong túi zip như đã nêu ở
bước trên.
2.4. Xử lý số liệu
Số liệu thu thập được quản lý bằng phần
mềm Excel (2013) và xử lý thống kê bằng phần
mềm SPSS 18.0.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả phát hiện PCV2 tại địa phương
lấy mẫu thuộc 2 huyện Nam Đàn, Yên Thành
tỉnh Nghệ An
Tiến hành phân lập trên 93 mẫu bệnh phẩm
gồm 22 mẫu huyết thanh và 33 mẫu phủ tạng của
lợn bệnh (có triệu chứng và bệnh tích điển hình)
và 38 mẫu dịch xoang miệng (DXM) của cả lợn
có và không có triệu chứng điển hình được thu
thập tại 2 huyện Nam Đàn và Yên Thành. Kết
quả phân lập được thể hiện ở bảng 2.
Bảng 2. Kết quả phát hiện PCV2 tại các địa phương lấy mẫu
Địa điểm lấy mẫu Huyết thanh Phủ tạng Dịch xoang miệng Tỷ lệ
(%)Huyện Xã Số mẫu (+) Số mẫu (+) Số mẫu (+)
Nam Đàn Nam Anh 4 1 6 1 6 2 25,0
Hùng Tiến 4 0 6 2 6 1 18,8
Nam Tân 3 1 5 1 7 1 20,0
Yên Thành Hoa Thành 4 1 6 2 7 2 29,4
Đồng Thành 4 1 4 1 5 1 23,1
Phú Thành 3 1 6 1 7 2 25,0
Tổng 22 5 33 8 38 9 23,7
Tỷ lệ % 22,7 24,2 23,7
14
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 1 - 2018
Qua bảng 2 cho thấy, có tổng số 22/93 mẫu
dương tính với PCV2, tỷ lệ trung bình là 23,7%.
Có thể thấy, 100% xã được thu mẫu đều phát hiện
thấy PCV2 bằng các nguồn thu mẫu khác nhau,
trong đó xã Hoa Thành có tỷ lệ nhiễm cao nhất
(29,4%), tiếp đến là xã Phú Thành (25,0%) và xã
Nam Anh (25,0%). Đây là các xã xảy ra dịch năm
2014 và là xã có mật độ chăn nuôi lợn cao của
huyện Yên Thành và Nam Đàn. Từ đây cảnh báo
một điều rằng sự có mặt PCV2 là rộng rãi, điều
này là nguy cơ rất lớn đến nền chăn nuôi lợn. Vì
vậy, việc tiêm phòng đầy đủ và đúng thời gian là
điều rất quan trọng mà người chăn nuôi cần phải
thực hiện để giảm tối thiểu mối đe doạ này. Toàn
bộ mẫu huyết thanh được sử dụng để phân lập
virus đều cho kết quả âm tính, có thể do lượng
virus trong huyết thanh quá ít.
Tại Việt Nam, Nguyễn Thị Thu Hồng và cộng
sự (2008) cũng đã phân lập được 2 trong tổng số
6 mẫu (33,33%) bệnh phẩm của lợn con có biểu
hiện còi cọc sau cai sữa ở các tỉnh phía Nam [3].
Phạm Thị Kiều Anh và cộng sự (2014) cho biết
đã phân lập được 2 chủng PCV2 từ 3 mẫu bệnh
phẩm và 3 mẫu huyết thanh [1]. Guo và cộng sự
(2010) cũng cho biết phân lập PCV2 khá khó
khăn, chỉ thu được 19 chủng PCV2 từ 42 mẫu
bệnh phẩm lợn còi cọc của Trung Quốc, chiếm tỷ
lệ 45,24% [7].
3.2. Kết quả phát hiện PCV2 từ mẫu dịch xoang
miệng ở lợn trên địa phương nghiên cứu
Virus phân lập được từ mẫu dịch xoang
miệng thường bắt nguồn từ sự nhiễm virus trong
máu, từ đó bài xuất qua hệ mao mạch, nhất là
tuyến nước bọt hoặc bài xuất theo đường hô hấp
hoặc từ sự nhiễm trùng cục bộ ở xoang miệng.
Nước bọt được xem là phức hợp của dịch chất
trong cơ thể như huyết tương hay huyết thanh
và thành phần của nó chứa một số protein và
mầm bệnh [4]. Kết quả phân lập được thể hiện
ở bảng 3.
Qua bảng 3, tỷ lệ lợn nhiễm PCV2 khi thu
mẫu bằng phương pháp lấy dịch xoang miệng
cho thấy tất cả các mẫu khi phân lập đều cho
kết quả dương tính với PCV2. Trong số 38 mẫu
dịch xoang miệng thì có 9 mẫu dương tính với
PCV2 (23,7%). Đồng thời qua bảng cũng cho
thấy tỷ lệ dương tính với PCV2 giữa lợn có và
lợn không có dấu hiệu hô hấp điển hình lần lượt
là 25,0% và 22,2%. Vậy không những lợn có
dấu hiệu hô hấp điển hình bị nhiễm PCV2 mà
ngay cả ở lợn không có dấu hiệu hô hấp điển
hình cũng có thể nhiễm PCV2. Điều này cho
thấy công tác phòng dịch là rất quan trọng, khi
địa phương có một số trường hợp mắc bệnh thì
phải ngay lập tức tiến hành các công tác tiêu
độc khử trùng, rắc vôi phòng ngừa mầm bệnh
lây lan.
Nghiên cứu của Huỳnh Thị Mỹ Lệ và cộng
sự (2013) khi phân tích tình hình nhiễm PCV2
trên đàn lợn được nuôi ở các tỉnh miền Bắc Việt
Nam cho thấy khi phân tích mẫu thu được từ
lợn không có dấu hiệu bệnh điển hình cho tỷ lệ
nhiễm PCV2 là 29,46%; và từ lợn có dấu hiệu
bệnh điển hình là 30,04% [6].
Hình 3. Hình ảnh kết quả phát hiện PCV2 khi chạy phản ứng Realtime-PCR
15
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 1 - 2018
3.3. So sánh kết quả dương tính với PCV2
giữa mẫu dịch xoang miệng với mẫu máu,
phủ tạng
Trong điều kiện thực tế, lợn bệnh được mổ
khám và lợn được chọn để thu mẫu dịch xoang
miệng được nuôi cùng một dãy chuồng. Tuy
nhiên những lợn bệnh được nuôi cách ly trong ô
chuồng cuối cùng trong dãy. Trong nghiên cứu
này, chúng tôi tiến hành lấy mẫu đồng thời ở cả
3 nguồn bệnh phẩm (mẫu huyết thanh, mẫu phủ
tạng và mẫu dịch xoang miệng ) để xác định tỷ
lệ nhiễm virus PCV2 nhằm tìm mối tương quan
giữa ba nguồn bệnh phẩm này.
Bảng 3. Kết quả phát hiện PCV2 từ mẫu dịch xoang miệng
Huyện
Địa điểm
lấy mẫu
(xã)
Mẫu dịch xoang miệng
Tổng số mẫu
lấy từ dịch
xoang miệng
Số
mẫu
(+)
Lợn có dấu
hiệu hô hấp
điển hình
Số mẫu
(+)
Lợn không có
dấu hiệu hô
hấp điển hình
Số mẫu
(+)
Nam Đàn Nam Anh 6 2 6 2
Hùng Tiến 6 1 6 1
Nam Tân 7 1 7 1
Yên Thành Hoa Thành 7 2 7 2
Đồng Thành 5 1 5 1
Phú Thành 7 2 7 2
Tổng 20 5 18 4 38 9
Tỷ lệ % 25,0 22,2 23,7
Bảng 4. So sánh kết quả dương tính với PCV2 giữa mẫu dịch xoang miệng
với mẫu huyết thanh và mẫu phủ tạng
Loại mẫu Số mẫu lấy Số mẫu (+) Tỷ lệ (%)
Dịch xoang miệng 38 9 23,7
Huyết thanh 33 8 22,7
Phủ tạng 22 5 24,2
Tổng 93 22 23,7
Bảng 4 cho thấy tỷ lệ dương tính với PCV2
ở mẫu phủ tạng là cao nhất (24,2%), cao hơn
so với dịch xoang miệng (23,7%), mẫu huyết
thanh có tỷ lệ dương tính với PCV2 là 22,7% .
Tuy nhiên sự sai khác này lại không có ý nghĩa
về mặt thống kê (p= 0,21).
IV. KẾT LUẬN
Tất cả các xã lấy mẫu thuộc 2 huyện Yên
Thành và Nam Đàn, Nghệ An đều bị nhiễm
PCV2, điều này chứng tỏ sự lưu hành PCV2 rất
rộng rãi, là mối nguy hại cho ngành chăn nuôi
lợn ở tỉnh Nghệ An.
Không những lợn có dấu hiệu hô hấp điển
hình bị nhiễm PCV2 mà ngay cả những lợn
không có dấu hiệu hô hấp điển hình cũng có
nhiễm PCV2 với tỷ lệ nhiễm khác nhau và
không có ý nghĩa thống kê.
Ngoài việc sử dụng phương pháp lấy mẫu
huyết thanh và phủ tạng để chẩn đoán bệnh do
PCV2 gây ra thì lấy mẫu dịch xoang miệng cũng
16
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 1 - 2018
là một phương pháp hữu hiệu để chẩn đoán bệnh
này. Tỷ lệ nhiễm PCV2 phân lập được từ mẫu
dịch xoang miệng là 23,7%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Thị Kiều Anh, Tạ Thị Kim Chung, và
Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2014). “Đánh giá hiệu
quả của vacxin Circovac ở đàn lợn nuôi tại
trại Thành Long, Lương Sơn, Hoà Bình”.
Tạp chí khoa học và phát triển XII, số 5 :
704–10.
2. Nguyễn Thị Thu Hồng, Phan Hoàng Dũng,
Đặng Hùng, Nguyễn Tiến Hà, và Chris
Morrissy (2006). “Bước đầu khảo sát về tình
hình nhiễm PCV2 trên đàn heo nuôi ở một số
tỉnh thành phía Nam”. Tạp chí khoa học kỹ
thuật thú y XIII, số 3: 67–69.
3. Nguyễn Thị Thu Hồng, Lê Thị Thu
Phương, Đặng Hùng, Nguyễn Tiến Hà,
Nguyễn Ngọc Hải, Chris. J. Morrissy, và
Darren Schfer (2008). “Phân tích di truyền
circovirus lợn typ 2 (PCV2) trên lợn tại
khu vực Nam Bộ”. Tạp chí khoa học kỹ
thuật thú y XV, số 2 : 5–12.
4. Huỳnh Thị Mỹ Lệ, Nguyễn Văn Giáp, Đặng
Hữu Anh, Trần Thị Hương Giang, Mai Thị
Ngân, Vũ Thị Ngọc, Lê Văn Trường, Ngô
Minh Hà, và Bong Kyun Park. “Ứng dụng
kỹ thuật nested-PCR phát hiện và định typ
Porcine circovirus typ 2 (PCV2) ở đàn lợn
nuôi tại một số tỉnh miền Bắc”(2012). Tạp chí
khoa học kỹ thuật Thú y XIX, số 5: 18–25.
5. Huỳnh Thị Mỹ Lệ và Nguyễn Văn Giáp.
“Phân lập và xác định đặc tính sinh học
của Porcine circovirus type 2 (PCV2) ở
đàn lợn nuôi tại một số tỉnh miền Bắc Việt
Nam”(2013). Tạp chí khoa học và phát triển
XI, số 3: 304–9.
6. Cheung Andrew K. “The essential and
nonessential transcription units for viral
protein synthesis and DNA replication of
porcine circovirus type 2” (2003). Virology
313, N0 2: 452–59.
7. Guo Long J, Yue H Lu, Yan W Wei, Li P
Huang, và Chang M Liu. “Porcine circovirus
type 2 (PCV2): genetic variation and newly
emerging genotypes in China.” (2010)
Virology journal 7: 273.
8. Meehan Brian M., Julie L. Creelan, M.
Stewart McNulty, và Daniel Todd. “Sequence
of porcine circovirus DNA: Affinities with
plant circoviruses” (1997). Journal of
General Virology 78, N0 1: 221–27.
9. Puvanendiran, Sumathy, Suzanne Stone,
Wanqin Yu, Craig R Johnson, Juan
Abrahante, Liza Garcia Jimenez, Theodor
Griggs, Charles Haley, Bruce Wagner,
và Michael P Murtaugh. “Absence of
porcine circovirus type 1 (PCV1) and
high prevalence of PCV 2 exposure and
infection in swine finisher herds”(2011).
Virus Research 157, N0 1: 92–98.
10. Weingartl, HM. “Porcine circovirus structure
and replication: a minireview.” Agricultura
(Slovenia) (2002) XIV: 11–14.
11. Zhai, Shao-Lun, Sheng-Nan Chen, Zhi-
Hong Xu, Man-Hua Tang, Feng-Guo Wang,
Xiao-Jing Li, Bei-Bei Sun, và c.s. “Porcine
circovirus type 2 in China: an update on
and insights to its prevalence and control.
(1997)” Virology journal 11: 88.
Ngày nhận 20-10-2016
Ngày phản biện 11-2-2017
Ngày đăng 1-1-2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
su_luu_hanh_cua_porcine_circovirus_type_2_tren_lon_nuoi_tai.pdf