Sự phát triển của ngành du lịch tỉnh Khánh Hòa trong 22 năm thực hiện đường lối đổi mới phát triển du lịch của đảng (1989 - 2010)

Những thành tựu đạt được của ngành du lịch Khánh Hoà trong 22 năm qua là kết quả của quá trình vận dụng, tìm tòi, sáng tạo trong lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội nói chung và kinh tế du lịch nói riêng của Đảng bộ tỉnh Khánh Hoà, nhờ đó mà những tiềm năng du lịch to lớn của tỉnh đã và đang được đánh thức, khai thác một cách có hiệu quả, hướng tới sự phát triển bền vững, hoạt động du lịch góp phần ngày càng tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, du lịch khánh Hòa còn bộc lộ nhiều hạn chế cần được khắc phục để có thể vươn xa hơn, không chỉ là trung tâm du lịch của cả nước mà còn là trung tâm du lịch của khu vực và thế giới.

pdf11 trang | Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 786 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự phát triển của ngành du lịch tỉnh Khánh Hòa trong 22 năm thực hiện đường lối đổi mới phát triển du lịch của đảng (1989 - 2010), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí VĂN HÓA VÀ DU LỊCH Đỗ Minh Tứ 35 SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH DU LỊCH TỈNH KHÁNH HÒA TRONG 22 NĂM THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỦA ĐẢNG (1989 - 2010) ĐỖ MINH TỨ* TÓM TẮT Trong bài viết này, tác giả tập trung làm rõ quá trình vận dụng chủ trương, chính sách phát triển du lịch của Đảng, Nhà nước vào thực tế địa phương để phát triển du lịch của Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa, nêu bật những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế của ngành du lịch Khánh Hòa trong hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới phát triển du lịch của Đảng, đồng thời đưa ra một số giải pháp mang tính khuyến nghị để du lịch Khánh Hòa phát triển bền vững không chỉ giữ vững được thương hiệu du lịch “Nha Trang – Khánh Hòa”, giữ vững được vị thế là 1 trong 10 trung tâm du lịch lớn của đất nước mà còn vươn lên trở thành trung tâm du lịch lớn của khu vực và quốc tế. ABSTRACT The development of tourism in Khanh Hoa in 22 years under our party’s innovative policies on tourism (1989-2010) In this report, the author focuses mainly on the process of adopting our tourism development policies into local reality in Khanh Hoa and highlights the achievements as well as drawbacks of its tourism in over 20 years under innovative policies on tourism. He also proposes some solutions for a sustainable growth of tourism in Khanh Hoa so that not only does the tourism reputation “Nha Trang – Khanh Hoa” hold steady as one of 10 great tourism centers of our country but it also thrives to become national and international tourism center. * ThS, Khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh. Trường CĐ VH-NT & DL SG Số 1 năm 2011 36 DẪN LUẬN Nhận thức được vai trò của du lịch đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, từ khi tiến hành đường lối đổi mới cho đến nay Đảng ta luôn xác định, phát triển du lịch là một hướng chiến lược quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Trên cơ sở đó, Đảng chủ trương khai thác các lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hoá, lịch sử của đất nước, mở rộng hợp tác với nước ngoài để “phát triển mạnh du lịch và nâng cao chất lượng hoạt động du lịch, đa dạng hoá sản phẩm và các loại hình du lịch” [4, tr.202] nhằm “Phát triển du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn..., sớm đạt trình độ phát triển du lịch của khu vực” [3, tr.178] để “từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch, thương mại – dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực.” [2, tr.89]. Đó chính là những cơ sở quan trọng để các địa phương có tiềm năng du lịch trong đó có Khánh Hòa, vận dụng vào điều kiện cụ thể của địa phương mình, đề ra chủ trương, chính sách hợp lý nhằm đẩy mạnh phát triển du lịch. NỘI DUNG 1. Chủ trương, chính sách phát triển du lịch của Đảng bộ, chính quyền tỉnh Khánh Hòa (1989 - 2010) Là một tỉnh có nhiều tiềm năng cho việc phát triển du lịch, với nhiều di tích lịch sử, văn hóa, phong cảnh đẹp, đặc biệt có vùng biển rộng 2000.000 ha với chiều dài bờ biển lên đến 386 km. Vùng biển Khánh Hòa không chỉ rộng mà còn có gần 200 đảo lớn nhỏ, cùng nhiều bãi biển, đầm, vịnh đẹp nổi tiếng như: Nha Trang, Vân Phong, Cam Ranh Do đó, ngay từ khi tái lập tỉnh (1989), trên cơ sở quán triệt chủ trương, chính sách phát triển du lịch của Đảng và Nhà nước, Đảng bộ Khánh Hòa đã xác định du lịch là “một ngành kinh tế có nhiều tiềm năng, do đó phải tiếp tục đầu tư chiều sâu và đầu tư phát triển trên quy mô rộng hơn.”[1, tr.197]. Trên quan điểm đó, qua các kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh từ Đại hội XII đến Đại hội XV, Đảng bộ Khánh Hòa đưa ra, bổ sung, hoàn thiện nhiều chủ trương, chính sách nhằm “Phát triển mạnh ngành du lịch để đến năm 2000 trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh” [5, tr.145] và trở thành ngành kinh tế chủ lực vào năm 2010, trên cơ sở đó chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Dịch vụ, Du lịch – Công nghiệp – Nông nghiệp với mục tiêu đưa Khánh Hòa trở thành trung tâm du lịch lớn của cả nước và của khu vực, duy trì tốc độ phát triển du lịch bình quân 16%/ năm, tỷ trọng ngành dịch vụ - du lịch chiếm khoảng 43,5% GDP toàn tỉnh. Thực hiện chủ trương đó, nhiều chính sách về phát triển du lịch như: Quyết định 1827/UB ngày 06/03/1993 về việc thành lập Sở Du lịch; Chỉ thị số 06/CV–UB về việc “Củng cố và phát Tạp chí VĂN HÓA VÀ DU LỊCH Đỗ Minh Tứ 37 triển ngành du lịch Khánh Hòa”; “Chiến lược phát triển du lịch Khánh Hòa trong giai đoạn 2000 – 2010”; “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch” (27/6/1995, bổ sung năm 2007); Quyết định 167/QĐ– UB (18/8/2004) về việc ổn định giá cả trong kinh doanh lưu trú; Các quy định về bảo vệ môi trường, trong đó chú trọng bảo vệ môi trường biển; Quy chế phối hợp quản lý hoạt động du lịch bằng tàu biển quốc tế tại cảng Nha Trang; Quy chế hoạt động thể thao giải trí trên biển,.... đã được UBND tỉnh Khánh Hòa ban hành, tạo ra khuôn khổ pháp lý cho việc phát triển ngành kinh tế du lịch. Bên cạnh đó, để tạo điều kiện cho du lịch phát triển, UBND tỉnh Khánh Hòa còn thành lập Ban chỉ đạo du lịch tỉnh (2001) do đồng chí Phó chủ tịch tỉnh trực tiếp làm Trưởng ban và có nhiều biện pháp như: chỉ đạo cho ngành du lịch của tỉnh tích cực liên kết với các trung tâm du lịch lớn trong nước như thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Đà Lạt, Huế để hình thành những tuyến du lịch dài ngày, phối hợp khai thác tối đa thế mạnh riêng của từng tỉnh, tạo nên những tour, những sản phẩm du lịch hấp dẫn; chỉ đạo cho Sở Văn hóa kết hợp với Sở Du lịch tập trung phát triển văn hóa phục vụ cho du lịch; tổ chức Festival biển( 2 năm 1 lần, từ 2003) để giới thiệu cho du khách trong và ngoài nước biết những tiềm năng kinh tế, chính sách thông thoáng, những danh lam, thắng cảnh, lễ hội văn hóa đặc trưng của “xứ Trầm Hương”... Để tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho phát triển du lịch, được sự đồng ý của UBND tỉnh, Sở Du lịch cũng thường xuyên mở các lớp đào tạo dài hạn và ngắn hạn, đồng thời gửi người đi học tập ở các trường đại học trong và ngoài nước nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho nguồn nhân lực du lịch. UBND tỉnh đã xin phép cho các trường trên địa bàn tỉnh mở chuyên ngành du lịch, thành lập các trường mới, nâng cấp các trường hiện có... Các cuộc thi chuyên môn ngành du lịch cũng được tổ chức thường niên (từ năm 2000) nhằm khuyến khích mọi người rèn luyện, nâng cao nghiệp vụ. Ngành Du lịch cũng đã phối hợp với đội kiểm tra liên ngành của tỉnh tiến hành kiểm tra các cơ sở kinh doanh nhằm kịp thời uốn nắn những sai lệch trong hoạt động kinh doanh du lịch... 2. Những thành tựu cơ bản của Du lịch Khánh Hòa trong 22 năm thực hiện đường lối đổi mới phát triển du lịch của Đảng (1989 - 2010) Trong 22 năm thực hiện đường lối đổi mới nói chung, đường lối phát triển du lịch của Đảng nói riêng, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Đảng bộ, chính quyền tỉnh, du lịch Khánh Hòa có bước phát triển vượt bậc, tạo nên thương hiệu du lịch “Nha Trang - Khánh Hòa”, đồng thời du lịch trở thành ngành kinh tế chủ lực của tỉnh Khánh Hòa với những thành tựu nổi bật đáng ghi nhận, cụ thể: Về quy hoạch phát triển du lịch Trường CĐ VH-NT & DL SG Số 1 năm 2011 38 và mời gọi đầu tư, Khánh Hòa là một trong những tỉnh đầu tiên trong cả nước sớm có bản quy hoạch tổng thể phát triển du lịch(1995). Bản quy hoạch này liên tục được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Trên cơ sở đó, việc triển khai quy hoạch chi tiết các vùng, các khu du lịch cũng được tiến hành đồng bộ, thu hút khá nhiều dự án đầu tư trong và ngoài nước. Tính đến cuối năm 2004, có 110 dự án đầu tư vào các khu du lịch, trong đó có 20 dự án đã và đang triển khai với tổng số vốn đăng ký là 1,314 tỷ đồng, vốn thực hiện đến cuối 2004 ước khoảng 992 tỷ đồng, đạt 75.5% tổng vốn đăng ký. Giai đoạn 2001 – 2005, tổng vốn đầu tư của các doanh nghiệp vào du lịch là 2.058 tỷ đồng, chỉ trong 2 năm 2006 – 2007, tổng số vốn đầu tư của các dự án đang triển khai lên tới 6.800 tỷ đồng, tăng gấp 3,3 lần so với giai đoạn 2001 – 2005, riêng năm 2010 toàn tỉnh có hơn 80 dự án du lịch với tổng vốn đầu tư khoảng 30.000 tỷ đồng. Về công tác đầu tư hạ tầng trực tiếp cho ngành du lịch, riêng năm 2004, Khánh Hòa đã huy động 3.300 tỷ đồng phát triển cơ sở hạ tầng. Các dự án cấp thoát nước cho khu du lịch đã được hoàn thành, các cảng biển, nhà ga, sân bay cũng đang chuyển đổi mục đích sang phục vụ cho phát triển du lịch. Các tuyến đường phục vụ du lịch như; Nha Trang - Sân bay Cam Ranh, Đầm Môn, Hòn Bà, Vĩnh Lương – Mũi Kê Gà, Yangbay, Dốc Lết, đường đi Đà Lạt đã và đang hoàn thành, góp phần thúc đẩy kinh tế cũng như du lịch phát triển, nhiều dự án đầu tư cơ sở hạ tầng cũng đang được Khánh Hoà mời gọi. Về công tác kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về du lịch, thực hiện Quyết định 171/TTg, UBND tỉnh Khánh Hòa đã ban hành Quyết định 1827/UB (06/03/1993), thành lập Sở Du lịch, đến năm 2001 hợp nhất với Sở Thương mại thành Sở Du lịch – Thương mại, năm 2008 hợp nhất một lần nữa với Sở Văn hóa – Thông tin thành Sở Văn hóa –Thể thao và Du lịch. Ban chỉ đạo Du lịch tỉnh, Ban quản lý các dự án khu du lịch Bắc bán đảo Cam Ranh, Ban quản lý khu kinh tế Vân Phong, Ban quản lý khu bảo tồn biển Nha Trang, Ban thanh tra Du lịch, Trung tâm xúc tiến Du lịch – Thương mại, Hiệp hội Du lịch Khánh Hoà (KHATA)... và các quy chế liên quan đến hoạt động kinh doanh du lịch cũng được thành lập và ban hành nhằm hoàn thiện hơn nữa bộ máy quản lý Nhà nước về du lịch, tăng cường công tác xúc tiến, quảng bá, hỗ trợ doanh nghiệp. Hiện nay, Khánh Hoà vẫn tiếp tục thực hiệc cải cách hành chính, hoàn thiện và nâng cao hiệu lực của bộ máy quản lý Nhà nước về du lịch, hoàn chỉnh hệ thống các cơ quan chuyên môn giúp UBND tỉnh trong việc quản lý, quy hoạch và phát triển du lịch. Về phát triển các tuyến điểm và loại hình du lịch, quán triệt chủ trương đa dạng hoá sản phẩm du lịch của Đảng, Tạp chí VĂN HÓA VÀ DU LỊCH Đỗ Minh Tứ 39 các tuyến điểm của du lịch Khánh Hoà phát triển ngày càng đa dạng, không chỉ dừng lại ở Nha Trang và các vùng phụ cận mà vươn ra tới Đại Lãnh, Dốc Lết, Vân Phong, YangBaythậm chí phát triển thành các tuyến liên tỉnh như Nha Trang - Phan Rang - Đà Lạt, Nha Trang - Tây Nguyên Sản phẩm du lịch cũng phát triển thành nhiều loại hình như: khám phá, dã ngoại, leo núi, lặn biển, tham quan và hội nghị, hội thảo (MICE), sinh thái - nghỉ dưỡng biển tạo nên sự đa dạng trong loại hình giúp du khách có thể lựa chọn theo nhu cầu, sở thích. Trong đó, có những sản phẩm trở thành thương hiệu nổi tiếng riêng có của Khánh Hòa như: tắm bùn khoáng nóng Tháp Bà, Yến sào... Về công tác quảng bá, xúc tiến du lịch, năm 2001, UBND tỉnh Khánh Hòa thành lập Trung tâm Xúc tiến Du lịch–Thương mại, từ khi ra đời, Trung tâm đã tổ chức cho các doanh nghiệp du lịch Khánh Hoà tham gia nhiều hoạt động nhằm xúc tiến, quảng bá cho ngành du lịch của tỉnh như: Liên hoan du lịch quốc tế Hà Nội (2001, 2003, 2005, 2007), Tuần lễ văn hoá Việt – Nhật tại Tp. Hồ Chí Minh (2004), Hội chợ du lịch quốc tế ITE (2004 – 2006), Hội chợ Du lịch Quốc tế TRAVEX 2009 tại Hà Nội Ngoài ra, Trung tâm còn tiếp xúc và cung cấp thông tin quảng bá du lịch Khánh Hoà cho nhiều hãng truyền hình trên thế giới, tranh thủ các kênh tham tán và tuỳ viên thương mại, các chuyến tham quan, học tập tại nước ngoài để quảng bá du lịch Khánh Hoà, đưa website thông tin về Du lịch – Thương mại của tỉnh lên mạng kinh doanh Á – Âu (Asemconect–2005), lập các website nhằm cung cấp thông tin, xúc tiến đầu tư và quảng bá du lịch. Trung tâm đã phối hợp với các đơn vị có chức năng phát hành các ấn phẩm phục vụ công tác quảng bá du lịch như: đĩa VCD tiếng nước ngoài, bản đồ du lịch, tờ rơi, cẩm nang, sách ảnh, bản tin Du lịch - Thương mại Khánh Hoà...Ngoài ra, Khánh Hòa còn tranh thủ các lễ hội, cuộc thi do tỉnh tổ chức, đăng cai tổ chức như: Festival biển (2007, 2009); chung kết Hoa hậu Việt Nam (2006); Hoa hậu thế giới người Việt (2007, 2010); Hoa hậu Trái đất (2010); hoa hậu Hoàn Vũ (2008); chung kết giải Sao Mai 2007; các tháng du lịch định kỳ hàng năm; các lễ hội truyền thống của địa phương... để quảng bá du lịch của tỉnh. Những thành công trong hoạt động quảng bá du lịch là một phần quan trọng làm nên thương hiệu du lịch Khánh Hòa như ngày nay. Về công tác đào tạo nguồn nhân lực, tính đến nay, Khánh Hòa có 1 trường Đại học, 4 trường Cao đẳng, 1 trường THCN và một số trung tâm đào tạo chuyên ngành du lịch, hàng năm có từ 1300–1600 sinh viên tốt nghiệp phục vụ cho nhu cầu nhân lực du lịch của tỉnh và hiện có hơn 3.000 học viên đang theo học. Sở Du lịch – Thương mại cũng tổ chức khóa bồi dưỡng hướng dẫn viên du lịch (2007) cho 138 người, cấp 52 thẻ hướng dẫn viên dài hạn, nâng tổng số Trường CĐ VH-NT & DL SG Số 1 năm 2011 40 hướng dẫn viên được cấp thẻ lên 72 người. Các doanh nghiệp xếp hạng từ 3 sao trở lên cũng chủ động có kế hoạch đào tạo tại chỗ hoặc hợp đồng với các trường tổ chức các lớp đào tạo theo nhu cầu phát triển của đơn vị. Do đó nguồn nhân lực du lịch của tỉnh không ngừng nâng cao cả về số lượng và chất lượng. Về phát triển mạng lưới doanh nghiệp và công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của các doanh nghiệp Năm 1996, toàn tỉnh mới có gần 100 doanh nghiệp hoạt động kinh doanh du lịch, đến năm 2007 tăng lên 927 doanh nghiệp và tăng lên 1.097 doanh nghiệp vào năm 2008, với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Trong đó có nhiều doanh nghiệp được công nhận là thành viên của các Hiệp hội du lịch quốc tế như: Hiệp hội Du lịch Châu Á – Thái Bình Dương (PATA), Nhật Bản (JATA), Hoa Kỳ (ASTA). Về dịch vụ lưu trú, đến hết năm 2010 toàn tỉnh có 455 cơ sở lưu trú với 11.730 phòng ngủ, trong đó có 5 khách sạn 5 sao và 4 khách sạn 4 saomột số khách sạn được xếp hàng đầu Châu Á như: Evason Heaway, Ana Mandara, Yasaka - Sai Gon - Nha Trang... Các doanh nghiệp hoạt động trong ngành du lịch được tập hợp vào hội doanh nghiệp, Hiệp hội du lịch Khánh Hòa (KHATA)để quản lý, định hướng hỗ trợ. Một số doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hóa, đổi mới phương thức hoạt động kinh doanh như: Công ty cổ phần khách sạn Nha Trang, Công ty cổ phần khách sạn Hữu Nghị, Công ty cổ phần du lịch Thắng Lợi.... Về công tác bảo vệ, bảo tồn các nguồn tài nguyên để phát triển du lịch, tỉnh Khánh Hoà đã xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu quả đề án “Bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trong hoạt động kinh doanh du lịch và địa bàn du lịch” (2003). UBND tỉnh chỉ đạo các cấp, các ngành của tỉnh xây dựng Khánh Hoà trở thành địa chỉ du lịch “xanh – sạch – đẹp – văn minh – an toàn – thân thiện”, xây dựng và triển khai phương án kết hợp khai thác du lịch với công tác bảo tồn, phát triển hệ sinh thái biển, chống ô nhiễm nguồn nước ở các bãi tắm; xây dựng kè bờ sông Cái Nha Trang; xây dựng hệ thống nhà vệ sinh công cộng; triển khai hiệu quả quy chế quản lý và bảo vệ môi trường đối với các phương tiện vận chuyển du lịch; mua máy xử lý, cào rác tại bãi biển; thành lập các đội, tổ vớt rác trên biển; thành lập Ban quản lý Khu bảo tồn biển nhằm bảo tồn khai thác, tái tạo tài nguyên biển; kiểm tra, vận động chủ phương tiện chở khách thăm quan trên vịnh thực hiện cam kết bảo vệ môi trường biển; tháo dỡ, di dời các bè cá trên các vịnh không thuộc quy hoạch; tuyên truyền giáo dục cộng đồng cư dân, khách du lịch không được thải rác trực tiếp ra biển. Sở Tài nguyên môi trường phối hợp với Sở Du lịch và UBND các huyện, thành phố trong tỉnh Tạp chí VĂN HÓA VÀ DU LỊCH Đỗ Minh Tứ 41 triển khai quy chế bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch đến các đơn vị kinh doanh du lịch. Các di tích lịch sử, văn hóa được xếp hạng quốc gia, cấp tỉnh được tu bổ, bảo vệ; các lễ hội văn hoá truyền thống được phục hồi và tổ chức đều đặn hàng năm. Khánh Hòa cũng rất thận trọng trong việc cấp phép các dự án đầu tư, kiên quyết không cấp phép các dự án không đảm bảo về vấn đề môi trường hoặc tác động xấu hay phá hủy môi trường cảnh quan, trong đó “Dự án thép liên hợp Posco - Vinashin tại Vân Phong” với số vốn đầu tư lên tới 5,8 tỉ USD là một điển hình. Bên cạnh đó, các cuộc hội thảo quốc gia và quốc tế về vấn đề quản lý, khai thác và bảo vệ môi trường du lịch hướng đến mục tiêu phát triển du lịch bền vững đã được Khánh Hoà tổ chức, đăng cai tổ chức trong đó đáng chú ý nhất là cuộc hội thảo “Vì sự phát triển bền vững của vịnh Nha Trang”(2007). Chính vì nhờ công tác lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Đảng bộ, chính quyền tỉnh mà du lịch Khánh Hòa ngày càng phát triển, trở thành một thương hiệu du lịch mạnh, gây được lòng tin với du khách, nên lượng khách du lịch đến Khánh Hòa ngày càng tăng, năm 1993 Khánh Hòa đón 345.323 lượt khách, trong đó khách quốc tế là 50.124 lượt, tăng lên 902.600 lượt (2005), khách quốc tế chiếm khoảng 20%. Đặc biệt đến năm 2010 con số này đã lên tới 1.840.795 lượt, tăng 204% so với năm 2005 và 533% so với năm 1993, trong đó khách quốc tế là 387.271 lượt, tăng 722% so với năm 1993. Do đó, thu nhập từ ngành du lịch cũng ngày một tăng, năm 1989 mới chỉ đạt 17,308 tỷ đồng đến năm 1995 tăng lên 85,110 tỷ đồng, năm 2000 là 198,864 tỷ đồng, năm 2005 là 643,7 tỷ đồng và đạt con số 1.875,788 tỷ đồng vào năm 2010. Bình quân doanh thu du lịch của Khánh Hòa tăng 17%/năm giai đoạn 1995 - 2000 và 27,2% giai đoạn 2001- 2005. Tỷ trọng của ngành dịch vụ - du lịch trong cơ cấu kinh tế nhờ đó cũng tăng khá nhanh, từ chỗ chiếm 34,6% GDP của tỉnh (2000), tăng lên 41,1% (2005) và 43,32% vào năm 2009, bình quân tăng 16,3%/năm. Những kết quả trên đã đưa Khánh Hoà trở thành một trong 10 trung tâm du lịch lớn của cả nước, du lịch trở thành ngành kinh tế chủ lực của Khánh Hòa, góp phần tăng thu ngân sách, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm giảm tỷ lệ đói nghèo từ 20% (1994) xuống còn 6,5% (1999), đến năm 2000 tỉnh không còn hộ đói, hộ nghèo còn khoảng 5%. 3. Một số hạn chế trong quá trình phát triển Du lịch ở Khánh Hòa (1989 – 2010) Bên cạnh những thành tựu đạt được, Du lịch Khánh Hòa cũng còn những hạn chế cần khắc phục để phát triển nhanh, bền vững trong những năm tiếp theo: Một là, công tác đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch vẫn chưa theo kịp yêu cầu phát triển, tiến độ đầu tư chậm Trường CĐ VH-NT & DL SG Số 1 năm 2011 42 làm ảnh hưởng đến kế hoạch đầu tư và phát triển của tỉnh. Thu hút đầu tư vào du lịch chưa có sự đồng đều, chủ yếu tập trung vào khu vực trung tâm Nha Trang và các vùng phụ cận. Hai là, tốc độ phát triển dịch vụ - du lịch nhanh nhưng chưa vững chắc, chủ yếu phát triển về lượng, chưa có nhiều bước đột phá về chất. Sự bùng phát quá nhanh của các cơ sở lưu trú, dịch vụ – du lịch khiến công tác quản lý gặp nhiều khó khăn, một số cơ sở kinh doanh vì lợi nhuận trước mắt đã sử dụng nhiều hình thức cạnh tranh không lành mạnh. Ba là, công tác quản lý Nhà nước trong hoạt động du lịch còn bị động, lúng túng, chưa chú trọng nhiều đến việc ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ kỹ thuật trong phát triển du lịch. Chức năng của các ban ngành còn chồng chéo, ỷ lại. Hiện tượng trốn thuế, né thuế vẫn còn xảy ra thường xuyên ở các doanh nghiệp làm thất thu ngân sách Nhà nước. Bốn là, hoạt động lữ hành vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, các loại hình du lịch vẫn khá nghèo nàn, tính chuyên nghiệp của công tác quảng bá, xúc tiến vẫn chưa cao, thiếu sự liên kết giữa khách sạn với đơn vị lữ hành. Năm là, số lượng và chất lượng của đội ngũ hướng dẫn viên du lịch cũng như nguồn nhân lực trong ngành còn nhiều hạn chế về cả chuyên môn và ngoại ngữ, tình trạng thiếu hụt nhân lực nói chung, nhân lực có trình độ cao phục vụ cho nhu cầu phát triển du lịch nói riêng ngày càng nghiêm trọng, các cơ sở đào tạo chỉ đáp ứng khoảng 50% nhu cầu. Sáu là, số cơ sở kinh doanh, các sản phẩm, dịch vụ chất lượng cao còn ít, tình trạng rác thải, nước thải đang tiếp tục gây ô nhiễm tại một số vùng trọng điểm, lượng khách mùa cao điểm luôn vượt sức chứa, nạn lấn chiếm vỉa hè, bán hàng rong, ăn xin...vẫn tồn tại ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường du lịch khiến cho khách quốc tế quay lại Khánh Hòa ít (2-3%), khách nội địa thì có phần e ngại. 4. Một số giải pháp nhằm phát triển nhanh, bền vững du lịch Khánh Hòa Để đưa ngành kinh tế du lịch Khánh Hòa tiếp tục phát triển nhanh và bền vững trong những năm tới, chúng tôi xin đề xuầt một số giải pháp: Giải pháp đẩy mạnh đầu tư, trong những năm tới Khánh Hòa nên tăng cường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch một cách đồng bộ, tránh tình trạng manh mún, chắp vá; tăng mức đầu tư từ ngân sách Nhà nước tương xứng với ngành kinh tế mũi nhọn; huy động nhiều nguồn vốn để phát triển du lịch, đặc biệt vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; đầu tư xây dựng các trung tâm thương mại, siêu thị lớn tại Nha Trang và các trung tâm du lịch lớn của tỉnh nhằm đáp ứng nhu cầu mua sắm của du khách; Tạp chí VĂN HÓA VÀ DU LỊCH Đỗ Minh Tứ 43 xây dựng các khách sạn cao cấp đạt tiêu chuẩn quốc tế phục vụ cho loại hình du lịch tàu biển, du lịch kết hợp giữa tham quan và hội nghị (MICE). Giải pháp về quy hoạch phát triển du lịch, việc quy hoạch phát triển du lịch nên đảm bảo tính cân bằng giữa các vùng, miền trong tỉnh, tránh tình trạng tập trung quá nhiều vào khu vực Nha Trang và vùng phụ cận; xây dựng vịnh Nha Trang kết hợp với đảo Hòn Mun, Hòn Tre và khu du lịch Bãi Dài, Bắc bán đảo Cam Ranh thành hai khu du lịch Quốc gia để thu hút khách du lịch cao cấp; tiếp tục đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng tại những vùng như Vân Phong, Cam Ranh, nâng cấp, mở rộng các tuyến đường vào những KDL lớn như Vân Phong – Đầm Môn, Yang Bay, suối khoáng nóng Tháp Bà... Giải pháp về đa dạng hóa và nâng cao các sản phẩm du lịch, Khánh Hòa nên tập trung phát triển các sản phẩm du lịch gắn với lợi thế của tỉnh như: du lịch gắn với thể thao, giải trí, nghỉ dưỡng tại các bãi biển đẹp như Nha Trang, Dốc Lết, Bãi Dài, Bãi Trũ, Hòn Tre; du lịch gắn với khai thác giá trị văn hóa, di tích lịch sử, các làng nghề, lễ hội truyền thống ở khu vực Diên Khánh và vùng lân cận Nha Trang; du lịch gắn với tham quan nghiên cứu các hệ sinh thái biển (Vân Phong, Hòn Mun), hệ sinh thái rừng (Ninh Hòa, Khánh Vĩnh, Khánh Sơn)...; hình thành sản phẩm du lịch độc đáo, chuyên biệt, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ du lịch; xây dựng tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, dịch vụ du lịch; đẩy mạnh các loại hình du lịch mới cao cấp như du lịch tàu biển, du lịch kết hợp giữa tham quan và hội nghị (MICE); khai thác, duy trì và nâng cao chất lượng các loại hình nghệ thuật dân gian, làng du lịch văn hóa của các dân tộc, các hoạt động văn hóa lễ hội đặc sắc phục vụ phát triển du lịch. Giải pháp khai thác gắn với bảo tồn tài nguyên du lịch, xây dựng và triển khai thực hiện hiệu quả phương án kết hợp khai thác du lịch với công tác bảo tồn, phát triển hệ sinh thái biển; chống ô nhiễm nguồn nước các bãi tắm; triển khai hiệu quả quy chế quản lý và bảo vệ môi trường đối với các phương tiện vận chuyển khách du lịch cũng như các khu, điểm du lịch; xây dựng thêm các biển báo nhắc nhở về môi trường du lịch...; việc lập quy hoạch, lập dự án, thẩm định, cấp phép các dự án đầu tư phải đảm bảo các lợi ích cả về môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, không nên quá chú trọng vào phát triển kinh tế, vì lợi nhuận trước mắt mà phá vỡ cảnh quan tự nhiên phải mất hàng triệu năm mới có thể tái tạo. Giải pháp về cơ chế, chính sách, Khánh Hòa nên tiếp tục đổi mới hoàn thiện hơn nữa cơ chế, chính sách liên quan đến du lịch và tổ chức quản lý du lịch phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế; tăng cường hơn nữa công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực du lịch ở các cấp, tạo sự ổn định và lành mạnh trong Trường CĐ VH-NT & DL SG Số 1 năm 2011 44 hoạt động du lịch; giảm tối đa các thủ tục phiền hà tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư tham gia phát triển du lịch; thẩm định kỹ năng lực tài chính của các nhà đầu tư trước khi cấp giấy phép, có chính sách mạnh tay hơn đối với các dự án triển khai chậm, quá hạn, dự án treo hoặc sử dụng sai mục đích. Giải pháp về khoa học công nghệ, hiện nay việc ứng dụng khoa học công nghệ vào các hoạt động du lịch ở Khánh Hòa còn rất hạn chế do đó, tỉnh cần đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý và kinh doanh du lịch; trích một phần doanh thu của tỉnh từ kinh doanh du lịch để đào tạo những lao động có trình độ tin học cao phục vụ cho ngành du lịch nhằm tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động của du lịch. Giải pháp về xúc tiến du lịch, công tác quảng bá tiếp thị du lịch cần tiếp tục đẩy mạnh ra thị trường nước ngoài để thu hút nguồn khách có khả năng chi trả cao; chủ động phối hợp với các tỉnh trong khu vực liên kết du lịch để cùng tham gia các hội nghị, hội thảo, hội chợ triển lãm du lịch ở nước ngoài; tổ chức các đoàn Fantrip và Presstrip cho các hãng lữ hành lớn trên thế giới và giới báo chí quốc tế thâm nhập thị trường Khánh Hòa để khảo sát, đưa tin tuyên truyền về tiềm năng và thế mạnh du lịch của tỉnh đến các thị trường du lịch lớn của thế giới; dành một phần kinh phí để xây dựng các điểm cung cấp thông tin cho khách du lịch ở các đầu mối giao thông quan trọng; tích cực tham gia đăng cai các sự kiện văn hóa, thể thao, hội nghị, hội thảo, hội chợ, triển lãm ở trong nước và quốc tế, tổ chức các sự kiện du lịch, lễ hội lớn của tỉnh để thông tin tuyên truyền, giới thiệu hình ảnh du lịch Khánh Hòa đến với du khách trong nước và quốc tế. Giải pháp nguồn nhân lực: Để du lịch phát triển nhanh, bền vững, nhân lực là yếu tố quan trọng, do đó Khánh Hòa cần đẩy mạnh việc đào tạo nguồn nhân lực; tiêu chuẩn hóa, nâng cao trình độ ngoại ngữ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ đội ngũ cán bộ, nhân viên; thực hiện giáo dục du lịch toàn dân; chú trọng việc đưa cán bộ, nhân viên đi đào tạo ở những nước có ngành công nghệ du lịch phát triển; liên kết với các trường, các tổ chức giáo dục quốc tế mở các trường hoặc trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại địa phương; đầu tư thêm cơ sở vật chất, trường lớp phục vụ đào tạo về du lịch, cải tiến, cập nhật chương trình giảng dạy phù hợp với thực tế; liên kết với các đơn vị kinh doanh du lịch cho học viên tiếp xúc thực tế hoặc đào tạo theo yêu cầu của doanh nghiệp; xúc tiến các thủ tục xin Chính phủ cho phép mở trường Đại học chuyên về đào tạo du lịch để đào tạo nguồn nhân lực du lịch cho tỉnh cũng như cho khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Tạp chí VĂN HÓA VÀ DU LỊCH Đỗ Minh Tứ 45 KẾT LUẬN Những thành tựu đạt được của ngành du lịch Khánh Hoà trong 22 năm qua là kết quả của quá trình vận dụng, tìm tòi, sáng tạo trong lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội nói chung và kinh tế du lịch nói riêng của Đảng bộ tỉnh Khánh Hoà, nhờ đó mà những tiềm năng du lịch to lớn của tỉnh đã và đang được đánh thức, khai thác một cách có hiệu quả, hướng tới sự phát triển bền vững, hoạt động du lịch góp phần ngày càng tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương... Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, du lịch khánh Hòa còn bộc lộ nhiều hạn chế cần được khắc phục để có thể vươn xa hơn, không chỉ là trung tâm du lịch của cả nước mà còn là trung tâm du lịch của khu vực và thế giới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Khánh Hòa, 2007, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa 1975 - 2005, Nxb. CTQG. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII, Nxb. CTQG. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX, Nxb. Chính trị Quốc gia. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X, Nxb. Chính trị Quốc gia. 5. Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, Nha Trang. 6. Nguyễn Thị Kim Hoa, 2004, Sự phát triển của du lịch Khánh Hòa từ cuối thế kỷ XIX đến nay, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, ĐH KHXH&NV Tp.HCM. 7. Sở Du lịch – Thương mại Khánh Hòa, Chương trình phát triển Du lịch Khánh Hòa giai đoạn 2001- 2005 và 2006 – 2010. 8. UBND tỉnh Khánh Hòa, Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội và kế hoạch (các năm từ 1989-2009). 9. 10.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfsuphattriencuanganhdulichtinhkhanhhoatrong22namthuchienduongloidoimoiphattriendulichcua_dang_1989_20.pdf
Tài liệu liên quan