Thứ hai, trường hợp bên được đề nghị
trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
nhưng có kèm theo các sửa đổi, bổ sung hay
hạn chế nhưng không làm thay đổi cơ bản
đề nghị giao kết hợp đồng được coi là chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng, trừ khi bên
đề nghị giao kết hợp đồng phản đối ngay
lập tức các sửa đổi, bổ sung hay hạn chế
đó. Trường hợp hợp đồng được xác lập, hợp
đồng sẽ bao gồm các điều khoản sửa đổi, bổ
sung hay hạn chế đó.
Thứ ba, các sửa đổi, bổ sung hay hạn
chế về mục đích hợp đồng, chất lượng, số
lượng, giá cả hoặc tiền công, thời hạn thực
hiện, địa điểm và cách thức thực hiện, trách
nhiệm vi phạm hợp đồng và biện pháp giải
quyết tranh chấp hợp đồng là các thay đổi
cơ bản đối với nội dung của đề nghị giao kết
hợp đồng.
Với hướng sửa đổi BLDS như vậy, các
quy định của BLDS có thể linh hoạt, mềm
dẻo hơn, thúc đẩy việc xác lập hợp đồng,
đồng thời vẫn bảo đảm quyền quyết định
của bên đề nghị giao kết hợp đồng trong
trường hợp có chấp nhận đề nghị giao kết
chứa đựng những điều khoản sửa đổi, bổ
sung hay hạn chế so với đề nghị giao kết
hợp đồng.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 281 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự phù hợp của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng với đề nghị giao kết hợp đồng từ cách tiếp cận so sánh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỰ PHÙ HỢP CỦA CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG VỚI
ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG TỪ CÁCH TIẾP CẬN SO SÁNH
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015
Tóm tắt:
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự đồng ý toàn bộ đối với
đề nghị giao kết hợp đồng hay chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
có các sửa đổi, bổ sung so với đề nghị giao kết hợp đồng đang là
hai xu hướng áp dụng trong thực hiện pháp luật về hợp đồng. Từ
thực tiễn pháp luật quốc tế, bài viết đưa ra các kiến nghị sửa đổi Bộ
luật Dân sự năm 2015 của Việt Nam.
Hồ Ngọc Hiển*
* TS. Khoa Luật, Học viện Khoa học xã hội.
Abstract
Two existing approaches towards qualifying a valid acceptance in
contract law are whether such acceptance must exactly correspond
with the contract contained in the offer or it can partly amend,
supplement such offer. Based on international law practices,
recommendations for amendments of the Civil Code of 2015 are
also made in this article.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: đề nghị giao kết hợp đồng;
chấp nhận đề nghị giao kết; nguyên tắc
“hình ảnh phản chiếu”; đề nghị giao kết
hợp đồng mới.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 18/02/2019
Biên tập : 08/03/2019
Duyệt bài : 15/03/2019
Article Infomation:
Keywords: contract offer; acceptance
of contract offer; the mirror image rule;
counter- offer;
Article History:
Received : 18 Feb. 2019
Edited : 08 Mar. 2019
Approved : 15 Mar. 2019
Dẫn nhập
Trên cơ sở nguyên tắc tự do hợp đồng,
khi nhận được đề nghị giao kết hợp đồng
(offer), bên được đề nghị giao kết có quyền
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng hoặc
không chấp nhận đề nghị đó. Chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng (acceptance) biểu thị
sự đồng ý của bên được đề nghị đối với đề
nghị giao kết hợp đồng, do đó, chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng phải phù hợp với đề
nghị giao kết hợp đồng.
Vấn đề đặt ra là sự phù hợp đó có phải
là sự đồng ý toàn bộ và vô điều kiện đối
với đề nghị giao kết hợp đồng hay không?
Trả lời câu hỏi này sẽ dẫn tới hai cách tiếp
cận khác nhau về chấp nhận đề nghị giao
kết hợp đồng: 1) chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng phải là sự đồng ý toàn bộ đối với
đề nghị giao kết hợp đồng; 2) chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng có thể chứa đựng các
sửa đổi, bổ sung không làm thay đổi cơ bản
các nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3Số 5(381) T3/2019
1. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
là sự đồng ý toàn bộ đối với đề nghị giao
kết hợp đồng
Theo định nghĩa của Bộ Từ điển luật
học Black’s Law Dictionary: “Chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng được hiểu là sự đồng
ý của bên được đề nghị đối với các điều
khoản của đề nghị giao kết hợp đồng của
bên đề nghị, một cách rõ ràng hoặc ngầm
định bằng hành vi, theo hình thức được thừa
nhận hoặc theo yêu cầu của bên đề nghị,
theo đó hợp đồng được xác lập và ràng buộc
các bên. Nếu một chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng có sửa đổi các điều khoản hoặc bổ
sung các điều khoản mới, nó thường là một
đề nghị giao kết hợp đồng mới”1.
Theo định nghĩa này, về bản chất,
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự
đồng ý của bên được đề nghị đối với đề nghị
giao kết hợp đồng. Về hình thức, chấp nhận
đề nghị giao kết hợp đồng có thể dưới hình
thức rõ ràng (bằng văn bản hoặc bằng lời
nói) hoặc bằng hành vi cụ thể trong những
trường hợp nhất định. Về nội dung, chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng phải phù hợp
với đề nghị giao kết hợp đồng. Một thông
báo chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng có
chứa đựng những sửa đổi, bổ sung so với đề
nghị giao kết hợp đồng thường không được
coi là chấp nhận mà là một đề nghị mới. Đây
cũng là nhận thức được thừa nhận bởi nhiều
công trình khoa học về luật hợp đồng cũng
như được ghi nhận tại nhiều đạo luật của các
nước, các công ước và văn kiện có tính quốc
tế về hợp đồng2.
Pháp luật về hợp đồng của nhiều quốc
gia quy định chấp nhận đề nghị giao kết hợp
1 Bryan A. Garner (editor in chief) Black’s Law Dictionary, 9th edition, p.13
2 Xem BLDS CHLB Nga: Điều 438; Luật Hợp đồng Trung Quốc: Điều 21, 22, 30, Bộ nguyên tắc Châu Âu về luật hợp
đồng: Điều 2:204; Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: Điều 18 (1), 19; Bộ nguyên tắc của
UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế, 2016: Điều 2.1.6 (1).
3 (§50 (1), Restatement of Law, contract, second, (American Law Institute)
4 Ewan McKendrick, Contract Law-Text, Cases and Materials, fifth edition, Oxford University Press, 2012, p. 80-85; Jan
M. Smits, Contract Law - A Comparative Introduction, Edward Elgar, 2014, p. 55
5 John Swan, Barry J. Reiter, Nicholas C. Bala, Contracts- Cases, Notes &Materials 7th Edition, LexisNexis Butterworths,
2006, p. 415-418.
đồng phải là sự đồng ý toàn bộ đối với đề
nghị giao kết hợp đồng. Một biểu thị trả lời
chấp nhận đề nghị nhưng chứa đựng bất
kỳ sự sửa đổi, bổ sung nào so với đề nghị
giao kết hợp đồng được coi là từ chối và cấu
thành một đề nghị mới.
Theo pháp luật của Anh và Hoa Kỳ,
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng “là biểu
thị sự đồng ý đối với các điều khoản theo đề
nghị của bên đề nghị giao kết hợp đồng”3, là
“sự biểu thị đồng ý dứt khoát và vô điều kiện
đối với đề nghị giao kết hợp đồng”4.
Mô hình này về chấp nhận giao kết
hợp đồng được gọi là quy tắc “hình ảnh
phản chiếu” (the mirror image rule) đối với
thiết lập hợp đồng. Theo đó, nếu bên được
đề nghị chấp nhận toàn bộ điều khoản của đề
nghị giao kết hợp đồng, hợp đồng sẽ được
giao kết; nếu bên được đề nghị không chấp
nhận tất cả các điều khoản được đề xuất, đề
nghị giao kết bị từ chối; nếu bên được đề
nghị không từ chối toàn bộ các điều khoản,
nhưng có đề nghị một số thay đổi các điều
khoản đó, kết quả là một đề nghị mới được
thiết lập5. Quy tắc “hình ảnh phản chiếu”
được tóm tắt bởi Tòa án tối cao của bang
Minnesota trong vụ Langellie v. Shaefer, 36
Minn. 361, 363 (1887): “Một đề nghị giao
kết hợp đồng bởi bên đề nghị đối với bên
được đề nghị không ràng buộc nghĩa vụ đối
với bên đề nghị, trừ khi nó được chấp nhận
bởi bên được đề nghị theo các điều khoản
của đề nghị giao kết hợp đồng. Bất kỳ sửa
đổi nào so với các điều khoản đó sẽ làm đề
nghị giao kết mất hiệu lực (...). Sẽ không có
thỏa thuận, ngoại trừ trường hợp có câu trả
lời chấp nhận đơn giản đối với đề nghị giao
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Số 5(381) T3/2019
kết hợp đồng mà không kèm bất kỳ điều
khoản mới nào”6.
Đối với hệ thống pháp luật Châu Âu
lục địa và các nước chịu ảnh hưởng của hệ
thống pháp luật này, nguyên tắc này được
quy định tại hầu hết các đạo luật trong đó
chủ yếu là các bộ luật dân sự.
Bộ luật Dân sự (BLDS) Cộng hòa
Liên bang Đức không đưa ra khái niệm về
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, tuy
nhiên, nguyên tắc này được khẳng định tại
khoản 2 Điều 150: “một chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng kèm theo những mở rộng,
giới hạn hoặc các thay đổi khác được coi là
từ chối đề nghị giao kết hợp đồng và cấu
thành một đề nghị mới”7.
BLDS của Pháp trước đây không đưa
ra khái niệm về chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng (cũng như không đưa ra khái niệm
đề nghị giao kết hợp đồng). Quy định về
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng được
phát triển bởi án lệ. Tuy nhiên, trong lần
sửa đổi BLDS năm 2016, các nhà làm luật
Pháp đã đưa ra khái niệm về đề nghị giao
kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng tại các Điều L.1113 đến L.11218.
Theo đó, “chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng là sự biểu lộ ý chí của bên nhận được
lời đề nghị giao kết, nhằm ràng buộc với
các điều kiện của lời đề nghị []. Lời chấp
nhận không trùng khớp với lời đề nghị sẽ
không có hiệu lực, và tạo thành lời đề nghị
mới (Điều L.1118).
Pháp luật của Cộng hòa Liên bang
Nga ghi nhận nguyên tắc này tại khoản 1,
Điều 438 BLDS: “Chấp nhận đề nghị giao
6 Randy E. Barnett, Contract-Cases and Doctrine, 4th Edition, Aspen Publishers, 2008, p. 335
7 https://www.gesetze-im-internet.de/englisch_bgb/englisch_bgb.html#p0450
8 BLDS Pháp (sửa đổi, bổ sung năm 2016). Xem: https://www.legifrance.gouv.fr/affichCode.do;jsessionid=F-
91C5A9708700430F947084747696538.tplgfr27s_3?idSectionTA=LEGISCTA000032007103&cidTexte=LEGITEX-
T000006070721&dateTexte=20181231
9 BLDS Cộng hòa Liên bang Nga, xem:
10 Alonso-Pérez Maria-Teresa. Contre-offre versus acceptation modifiée. In: Revue internationale de droit comparé. Vol.
66 N°1, 2014, tr. 57.
11 Luật Nghĩa vụ Thuỵ Sĩ năm 1911, xem: https://www.admin.ch/opc/fr/classified-compilation/19110009/index.html, truy
cập ngày 12/12/2018.
kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề
nghị giao kết hợp đồng về việc đề nghị giao
kết hợp đồng được chấp nhận. Chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng là chấp nhận toàn bộ
và vô điều kiện”9.
Như vậy, theo cách tiếp cận truyền
thống được thừa nhận rộng rãi, chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng phải phù hợp hoàn
toàn với đề nghị giao kết hợp đồng. Một biểu
thị đồng ý với đề nghị giao kết hợp đồng
nhưng có kèm theo các sửa đổi, bổ sung so
với đề nghị giao kết hợp đồng được coi là từ
chối và cấu thành đề nghị mới. Cách tiếp cận
này hướng đến bảo đảm cao nhất sự thống
nhất ý chí giữa các chủ thể của hợp đồng.
2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
có các sửa đổi, bổ sung so với đề nghị giao
kết hợp đồng
Xuất phát từ thực tiễn, đặc biệt là thực
tiễn kinh doanh thương mại, một số BLDS
và văn kiện quốc tế về luật hợp đồng được
xây dựng vào giai đoạn sau này có cách
tiếp cận khác biệt10. Theo đó, mặc dù vẫn
quy định về nguyên tắc, chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng phải phù hợp với các điều
khoản của đề nghị giao kết hợp đồng, tuy
nhiên, trong trường hợp một biểu thị trả lời
đồng ý kèm theo những điều khoản sửa đổi,
bổ sung so với đề nghị giao kết hợp đồng,
với một số điều kiện nhất định, sẽ là một
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Trong Luật Nghĩa vụ của Thuỵ Sĩ ,
Điều 2 quy định11: 1) Nếu các bên thống nhất
với nhau về tất cả các điểm cơ bản, hợp đồng
xem như được ký kết, ngay cả khi một số
điểm không cơ bản được bảo lưu; 2) Trong
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5Số 5(381) T3/2019
trường hợp không có sự thống nhất giữa các
bên về các điểm không cơ bản, thẩm phán
phán quyết về các điểm này căn cứ vào bản
chất của vụ việc.
Trong BLDS của Hà Lan, khoản 1 và 2
Điều 6:225 quy định: (1) Một chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng có chứa đựng những
điều khoản sửa đổi, bổ sung, là một đề nghị
giao kết hợp đồng mới và là một từ chối đối
với đề nghị ban đầu; (2) Trường hợp một câu
trả lời với ý định chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng có chứa những sửa đổi, bổ sung
về những điều khoản không quan trọng của
đề nghị giao kết hợp đồng, trả lời đó là một
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu
lực và hợp đồng được xác lập với các điều
khoản của chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng, trừ khi bên đề nghị phản đối ngay lập
tức những điều khoản sửa đổi, bổ sung đó.
Theo Luật Hợp đồng của Trung Quốc
năm 1999, nội dung của chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng phải phù hợp với nội
dung của đề nghị giao kết hợp đồng. Nếu
bên được đề nghị đề xuất các thay đổi cơ bản
đối với nội dung, chấp nhận này sẽ trở thành
một đề nghị giao kết hợp đồng mới.
Ở Hoa Kỳ, quy tắc “hình ảnh phản
chiếu” được thừa nhận rộng rãi, tuy nhiên,
Điều 2-207 Bộ luật Thương mại thống nhất
(UCC) áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng
hóa đã thay đổi quy tắc này12, theo đó:
(1) Một sự biểu thị chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng hợp lý và xác định hoặc
một xác nhận bằng văn bản được gửi trong
một thời hạn hợp lý, được coi là chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng ngay cả khi nó chứa
đựng các điều khoản bổ sung hoặc khác biệt
so với các điều khoản của đề nghị giao kết
hợp đồng, ngoại trừ trường hợp chấp nhận
đề nghị giao kết hợp đồng thể hiện rõ điều
kiện bên đề nghị đồng ý với các điều khoản
bổ sung hoặc khác biệt đó.
(2) Điều khoản bổ sung được hiểu là
12 John D. Calamri, Joseph M. Perillo, The Law of Contract, 4th Edition, West Publishing Co, 1998, p. 96-97
đề xuất bổ sung đối với hợp đồng. Giữa các
thương nhân, các điều khoản bổ sung đó trở
thành nội dung của hợp đồng trừ khi:
(a) Đề nghị giao kết hợp đồng xác
định giới hạn của chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng đối với đề nghị giao kết hợp đồng;
(b) Các điều khoản bổ sung đó thay
đổi cơ bản nội dung của đề nghị giao kết
hợp đồng;
(c) Thông báo phản đối các điều
khoản bổ sung này đã được gửi trong một
thời hạn hợp lý sau khi bên đề nghị nhận
được thông báo về điều khoản bổ sung.
(3) Hành vi của hai bên thừa nhận hợp
đồng là đủ để thiết lập hợp đồng dù các văn
bản của các bên không thể hiện hợp đồng đã
được xác lập. Trong trường hợp đó, các điều
khoản cụ thể của hợp đồng sẽ bao gồm các
điều khoản mà các bên đã thỏa thuận bằng
văn bản và các điều khoản bổ sung theo các
quy định khác của Đạo luật này.
Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp
đồng thương mại quốc tế, phiên bản năm
2016, tại Điều 2.1.11. quy định:
(1) Một phúc đáp đối với đề nghị
giao kết hợp đồng có khuynh hướng chấp
nhận đề nghị nhưng chứa đựng các bổ sung,
giới hạn hoặc các sửa đổi khác là từ chối đề
nghị giao kết hợp đồng và cấu thành một đề
nghị giao kết hợp đồng mới (counter-offer);
(2) Tuy nhiên, một phúc đáp đối
với đề nghị giao kết hợp đồng có khuynh
hướng chấp nhận đề nghị nhưng chứa đựng
các bổ sung, giới hạn hoặc các sửa đổi khác
mà không làm biến đổi một cách cơ bản các
điều khoản của đề nghị giao kết hợp đồng
sẽ là một chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng, ngoại trừ trường hợp bên đề nghị phản
đối một cách không chậm trễ những khác
biệt đó. Nếu bên đề nghị không phản đối,
hợp đồng sẽ bao gồm các điều khoản của
đề nghị giao kết hợp đồng và các khác biệt
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Số 5(381) T3/2019
trong chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng13.
Theo Bộ nguyên tắc Châu Âu về luật
hợp đồng14, khoản 1 Điều 2:204 quy định:
“Bất kỳ hình thức tuyên bố hoặc hành vi của
bên được đề nghị là một chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng nếu nó biểu thị sự đồng ý
đối với đề nghị giao kết hợp đồng”.
Tuy nhiên, Điều 2:208 Bộ nguyên tắc
Châu Âu về luật hợp đồng quy định về chấp
nhận giao kết hợp đồng kèm theo các bổ
sung, sửa đổi như sau:
(1) Một phúc đáp của bên được đề
nghị giao kết hợp đồng chứa đựng những
điều khoản khác biệt hoặc bổ sung làm biến
đối một cách cơ bản nội dung của đề nghị
giao kết hợp đồng là một từ chối đề nghị
giao kết hợp đồng và trở thành một đề nghị
giao kết mới;
(2) Một phúc đáp thể hiện sự đồng ý
rõ ràng đối với đề nghị giao kết hợp đồng
được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng ngay cả khi nó thể hiện rõ hoặc ngụ ý
những điều khoản khác biệt hoặc bổ sung,
miễn là không làm thay đổi một cách cơ
bản các điều khoản của đề nghị giao kết
hợp đồng. Các điều khoản khác biệt hoặc bổ
sung đó sẽ trở thành nội dung của hợp đồng.
(3) Một chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng có các bổ sung hoặc khác biệt như
vậy sẽ là một từ chối đề nghị giao kết hợp
đồng nếu:
(a) Đề nghị giao kết hợp đồng xác
định giới hạn rõ ràng cho việc chấp nhận đề
nghị; hoặc
(b) Bên đề nghị phản đối ngay lập tức
các điều khoản bổ sung hoặc khác biệt đó; hoặc
(c) Bên được đề nghị thể hiện trong
chấp nhận đề nghị điều kiện cần có sự đồng
ý của bên đề nghị đối với những điều khoản
khác biệt hoặc bổ sung so với đề nghị giao
kết hợp đồng và sự đồng ý đó không đến
13 https://www.unidroit.org/english/principles/contracts/principles2016/principles2016-e.pdf (p. 50)
14 https://www.jus.uio.no/lm/eu.contract.principles.parts.1.to.3.2002/doc.html#119
15 Ole Lando & Hugh Beale, Principles of European Contract Law, Part I & II (eds.2000, at 180).
bên được đề nghị trong một khoảng thời
gian hợp lý.
Tuy nhiên, Ủy ban Luật hợp đồng
Châu Âu thừa nhận quy định này không
phản ánh pháp luật hiện hành của nhiều
nước Châu Âu “hầu hết các hệ thống pháp
luật (của các quốc gia Châu Âu) không có
các quy định phù hợp với Điều 2: 208 (2) và
(3). Nhiều quốc gia cho rằng () những sửa
đổi dù không cơ bản trong trả lời của bên
được đề nghị sẽ làm cho hợp đồng không
được xác lập15.
Như vậy, thông qua việc phân tích
quy định pháp luật của một số quốc gia và
của một số văn kiện có tính quốc tế, khu vực
về hợp đồng nêu trên, có thể thấy, một xu
hướng khác về sự phù hợp giữa chấp nhận
đề nghị giao kết hợp đồng và đề nghị giao
kết hợp đồng đã được thừa nhận, đó là, chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng, với một số
điều kiện cụ thể, có thể chứa đựng những
điều khoản sửa đổi, bổ sung so với đề nghị
giao kết hợp đồng.
Tuy nhiên, những khác biệt giữa chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng và đề nghị
giao kết hợp đồng phải là không cơ bản,
không làm thay đổi các điều khoản cơ bản
của đề nghị giao kết hợp đồng và bên đề
nghị không phản đối ngay lập tức (hoặc
trong một thời hạn hợp lý) những sửa đổi,
bổ sung đó.
Vậy, những sửa đổi, bổ sung nào sẽ
làm thay đổi cơ bản nội dung của đề nghị
giao kết hợp đồng? Pháp luật của một số
nước và một số văn kiện quốc tế như Luật
Hợp đồng Trung Quốc 1999 hoặc Công
ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế quy định rõ những sửa đổi, bổ
sung nào là thay đổi cơ bản. Bên cạnh đó,
pháp luật một số quốc gia và văn kiện về
hợp đồng khác lại chỉ quy định khái quát
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7Số 5(381) T3/2019
mang tính định tính. Việc xác định những
điều khoản sửa đổi, bổ sung đó có làm thay
đổi cơ bản đề nghị giao kết hợp đồng hay
không tùy thuộc vào từng vụ việc cụ thể.
Điều này được thể hiện trong bình luận của
Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng
thương mại quốc tế. Theo đó, những điều
khoản thay đổi một cách cơ bản được xác
định tùy thuộc hoàn cảnh cụ thể của từng
vụ việc. Những điều khoản thay đổi về giá
cả hoặc phương thức thanh toán, thời gian
và địa điểm thực hiện nghĩa vụ phi tiền tệ,
phạm vi trách nhiệm, giải quyết tranh chấp
sẽ thường là các thay đổi cơ bản đối với đề
nghị giao kết hợp đồng. Một yếu tố được
xem xét là những điều khoản thay đổi, bổ
sung đó có được sử dụng phổ biến trong lĩnh
vực thương mại có liên quan và do đó không
gây bất ngờ cho bên đề nghị hay không16.
Dù quy định cụ thể hay khái quát,
cách tiếp cận mới về sự phù hợp giữa chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng với đề nghị
giao kết hợp đồng, bên cạnh khẳng định
nguyên tắc chung, thừa nhận ngoại lệ rằng,
với những điều kiện nhất định, chấp nhận
đề nghị giao kết hợp đồng có thể bao gồm
những điều khoản khác biệt với đề nghị giao
kết hợp đồng và hợp đồng được xác lập sẽ
bao gồm các điều khoản khác biệt đó, ngoại
trừ bên đề nghị phản đối ngay lập tức. Cách
tiếp cận này thể hiện sự linh hoạt, mềm dẻo
trong thực tiễn giao dịch dân sự và thương
mại, phản ánh được ý chí thực của các bên
mong muốn xác lập hợp đồng dù có những
khác biệt không quan trọng so với ý chí ban
đầu của bên đề nghị, đồng thời thúc đẩy việc
giao kết hợp đồng được diễn ra nhanh chóng.
Bên cạnh đó, cũng cần lưu ý là, các
hệ thống pháp luật đã nêu trên đều dành cho
bên đề nghị quyền tự quyết định về việc hợp
đồng có được xác lập hay không với các sửa
đổi, bổ sung đó. Bên đề nghị có quyền phản
đối những điều khoản sửa đổi, bổ sung này
16 https://www.unidroit.org/english/principles/contracts/principles2016/principles2016-e.pdf (trang 50-51)
và do đó, hợp đồng không được xác lập. Tuy
nhiên, với xu hướng thúc đẩy các hợp đồng
được giao kết, quy định pháp luật và một số
văn kiện về hợp đổng nêu trên đều tiếp cận
theo hướng, bên đề nghị, nếu không đồng ý
thì phải phản đối ngay lập tức các điều khoản
sửa đổi, bổ sung đó, nếu không phản đối ngay
lập tức, hợp đồng sẽ được xác lập và các điều
khoản này sẽ là nội dung của hợp đồng.
3. Những gợi mở cho pháp luật hợp đồng
của Việt Nam
Theo quy định của pháp luật Việt
Nam, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
là sự chấp nhận của bên được đề nghị đối
với toàn bộ nội dung của đề nghị giao kết
hợp đồng mà không có bất kỳ ngoại lệ nào
(Khoản 1 Điều 293 BLDS năm 2015).
Tuy nhiên, xu hướng hiện nay được
thể hiện trong các văn kiện pháp lý quốc tế
về hợp đồng là chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng có thể chứa đựng các nội dung
khác biệt với đề nghị giao kết hợp đồng,
với điều kiện đây là nhưng khác biệt không
mang tính căn bản so với nội dung của lời đề
nghị giao kết. Trong bối cảnh Việt Nam đã
gia nhập Công ước Viên 1980 về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế cũng như việc hội
nhập quốc tế sâu rộng hơn, việc tiếp nhận
những xu hướng mới trong lĩnh vực pháp
luật về hợp đồng cũng cần được cân nhắc.
Vì vậy, chúng tôi cho rằng, Việt Nam
cần cân nhắc sửa đổi quy định của BLDS
năm 2015 về chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng theo hướng tiếp thu những kinh
nghiệm của Luật Hợp đồng Trung Quốc
năm 1999 và Công ước Viên 1980 về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế như đã nêu
trên, theo hướng:
Thứ nhất, chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng biểu thị sự đồng ý đối với đề nghị
giao kết hợp đồng và phải phù hợp với đề
nghị giao kết hợp đồng. Trường hợp bên
được đề nghị trả lời chấp nhận nhưng có
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Số 5(381) T3/2019
kèm theo các nội dung sửa đổi, bổ sung hay
hạn chế làm thay đổi cơ bản đề nghị giao kết
hợp đồng được coi là từ chối và tạo thành
một đề nghị giao kết hợp đồng mới.
Thứ hai, trường hợp bên được đề nghị
trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
nhưng có kèm theo các sửa đổi, bổ sung hay
hạn chế nhưng không làm thay đổi cơ bản
đề nghị giao kết hợp đồng được coi là chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng, trừ khi bên
đề nghị giao kết hợp đồng phản đối ngay
lập tức các sửa đổi, bổ sung hay hạn chế
đó. Trường hợp hợp đồng được xác lập, hợp
đồng sẽ bao gồm các điều khoản sửa đổi, bổ
sung hay hạn chế đó.
Thứ ba, các sửa đổi, bổ sung hay hạn
chế về mục đích hợp đồng, chất lượng, số
lượng, giá cả hoặc tiền công, thời hạn thực
hiện, địa điểm và cách thức thực hiện, trách
nhiệm vi phạm hợp đồng và biện pháp giải
quyết tranh chấp hợp đồng là các thay đổi
cơ bản đối với nội dung của đề nghị giao kết
hợp đồng.
Với hướng sửa đổi BLDS như vậy, các
quy định của BLDS có thể linh hoạt, mềm
dẻo hơn, thúc đẩy việc xác lập hợp đồng,
đồng thời vẫn bảo đảm quyền quyết định
của bên đề nghị giao kết hợp đồng trong
trường hợp có chấp nhận đề nghị giao kết
chứa đựng những điều khoản sửa đổi, bổ
sung hay hạn chế so với đề nghị giao kết
hợp đồng.
4. Kết luận
Pháp luật hợp đồng của nhiều quốc gia
vẫn tiếp tục quy định chấp nhận đề nghị giao
kết hợp đồng phải hoàn toàn phù hợp với
đề nghị giao kết hợp đồng. Những sửa đổi,
bổ sung so với đề nghị giao kết hợp đồng bị
coi là từ chối đề nghị và tạo thành một đề
nghị mới. Tuy nhiên, thời gian gần đây, một
số quốc gia không coi nguyên tắc trên mang
tính tuyệt đối. Đặc biệt là một số văn kiện
có tính quốc tế về hợp đồng đã ghi nhận và
thể hiện xu hướng chấp nhận đề nghị giao
kết hợp đồng, bên cạnh nguyên tắc là chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng phải phù
hợp với đề nghị giao kết hợp đồng, ngoại lệ
được thừa nhận là chấp nhận đề nghị giao
kết hợp đồng, trong một số trường hợp nhất
định, có thể chứa đựng những khác biệt so
với đề nghị giao kết hợp đồng, với điều kiện,
những khác biệt đó không làm thay đổi cơ
bản nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng.
Sự thừa nhận này thể hiện xu hướng thông
thoáng, linh hoạt, thúc đẩy các giao lưu dân
sự, thương mại phát triển. Trong bối cảnh
đó, Việt Nam cũng cần sửa đổi BLDS về
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng theo
xu hướng mới
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Neil Andrews, Contract Law, Cambridge University Press, 2011,
2. Bryan A. Garner (editor in chief) Black’s Law Dictionary, 9th edition.
3. Ewan McKendrick, Contract Law-Text, Cases and Materials, fifth edition, Oxford University Press, 2012.
4. Catherine Elliott & Frances Quinn, Contract Law, 7th, 2009, Pearson Education Limited, Pearson Longman.
5. John Swan, Barry J. Reiter, Nicholas C. Bala, Contracts- Cases, Notes &Materials 7th Edition, LexisNexis
Butterworths, 2006.
6. Randy E. Barnett, Contract-Cases and Doctrine, 4th Edition, Aspen Publishers, 2008.
7. Ole Lando & Hugh Beale, Principles of European Contract Law, Part I & II (eds.2000).
8. Alonso-Pérez Maria-Teresa. Contre-offre versus acceptation modifiée. In: Revue internationale de droit
comparé. Vol. 66 N°1, 2014
9. Jan M. Smits, Contract Law – A Comparative Introduction, Edward Elgar, 2014
10. John D. Calamri, Joseph M. Perillo, The Law of Contract, 4th Edition, West Publishing Co, 1998.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9Số 5(381) T3/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- su_phu_hop_cua_chap_nhan_de_nghi_giao_ket_hop_dong_voi_de_ng.pdf