Sự quản lý của Nhà nước đối với vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm tại thành phố Hồ Chí Minh

Sự quản lý của Nhà nước đối với vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm tại thành phố Hồ Chí MinhMỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 2 I. KHÁI QUÁT CHUNG 2 1. Các khái niệm có liên quan 2 2. Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm trong mối quan hệ với quyền con người được sống trong môi trường trong lành và vấn đề phát triển bền vững II. Thực trạng vệ sinh an toàn thực phẩm tại thành phố Hồ Chí Minh: 5 1. Hoạt động sản xuất kinh doanh: 6 2. Ngộ độc thực phẩm 9 3. Thực trạng quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm tại thanh phố Hồ Chí Minh 10 4. Thực phẩm đường phố. 11 III. Nguyên nhân của thực trạng vệ sinh an toàn thực phẩm tại thnh phố Hồ Chí Minh 11 1. Những nguyên nhân xuất phát từ hệ thống pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm: 11 2. Những nguyên nhân khác: 14 IV. Những giải pháp cho vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm tại thành phố Hồ Chí Minh: 15 1. Những giải pháp mang tính vĩ mô: 15 2. Những giải pháp cụ thể: 16

doc19 trang | Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 1857 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự quản lý của Nhà nước đối với vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm tại thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Thực phẩm là nhu cầu thiết yếu của mỗi người, cho nên vấn đề sản xuất, chế biến kinh doanh và tiêu dùng thực phẩm an toàn luôn là vấn đề mang tính thời sự.Cĩ thể nói đây là một lĩnh vực phức tạp vì nó không những có sự tham gia của nhiều chủ thể, mà nó còn ảnh hưởng đến tính mạng và sức khỏe của mỗi người dân. Và trong giai đoạn hiện nay, vấn đề thực phẩm không an toàn, gây tác hại cho con người đang là nổi bức xúc của toàn xã hội nói chung và trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Là một địa phương giữ vai trò là đầu tàu của nền kinh tế cả nước, thành phố Hồ Chí Minh là nơi tập trung với số lượng lớn các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, các nhà máy xí nghiệp nên cũng quy tụ đông đảo đội ngũ người lao động tại thành phố cũng như từ các tỉnh và thành phố trên cả nước. Thêm vào đó, tình trạng dân cư từ các tỉnh đổ xô về thành phố để mưu sinh đang đặt ra nhiều vấn đề nan giải cho chính quyền thành phố. Trong đĩ, công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm là một vấn đề hết sức cấp bách. I. KHI QUÁT CHUNG: 1 Các khái niệm có liên quan: Thực phẩm theo quy định tại điều 31 khoản 1 pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm 2003 (gọi tắt là pháp lệnh 2003), thực phẩm là những sản phẩm mà con người ăn uống ở dạng tươi sống hoặc đã qua chế biến, bảo quản. Khái niệm này mang tính khái quát cao, nên sự phân biệt giữa thực phẩm với các khái niệm mỹ phẩm và dược phẩm chưa rõ ràng. Hiện nay có rất nhiều sản phẩm vừa được sử dụng như thực phẩm vừa được sử dụng như dược phẩm như trà thanh nhiệt, các loại sữa chua len men, viên ngậm vitamin C… và những sản phẩm đó được coi là dược phẩm khi có thành phẩm hoạt chất với hàm lượng liều dùng có tác dụng phòng và chữa bệnh, đồng thời được sản xuất công bố có tác dụng phòng chữa bệnh, đồng thời được nhà sản xuất công bố có tác dụng phòng chữa bệnh. (Điểm 1 mục 1 Thông tư số 17/2000/TT-BYT ngày 27/9/2000 hướng dẫn đăng ký sản phẩm dưới dạng thuốc, dược phẩm). Việc hiểu đúng khái niệm về thực phẩm và dược phẩm có ý nghĩa quan trọng trong việc áp dụng các quy định về sản xuất, đăng ký, lưu hành đối với các nhà sản xuất. Vệ sinh an toàn thực phẩm: là các điều kiện và biện pháp cần thiết để đảm bảo thực phẩm không gây hại cho sức khỏe, tính mạng con người (khoản 2 điều 3 pháp lệnh 2003). Theo đó vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm được đặt ra trong tất cả các khâu của chuỗi hình thành thực phẩm “từ nông trại đến bàn ăn” từ quá trình sản xuất, chế biến, bảo quản, vận chuyển lưu thông trên thị trường và đến khâu cuối cùng là xử lý hậu quả ngộ độc thực phẩm. Ngoài ra, vệ sinh an toàn thực phẩm,còn phản ánh chất lượng thực phẩm. Không thể có chất lượng thực phẩm tốt khi không tuân thủ các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm. Việc thực hiện các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm nhằm tạo ra sản phẩm an toàn, mặc dù trong nó vẫn chứa các tác nhân vật lý, hóa học, sinh học nhưng ở một mức độ an toàn, không gây hại cho sức khỏe và tính mạng của con người. Ngộ độc thực phẩm: là tình trạng bệnh lý xảy ra do ăn uống thực phẩm có chứa chất độc (khoản 5 điều 3 pháp lệnh 2003). 2. Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm trong mối quan hệ với quyền con người được sống trong môi trường trong lành và vấn đề phát triển bền vững a. Quyền được sống trong môi trường trong sạch v lành mạnh là quyền cơ bản của con người. Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về môi trường trong lành trở thành một nguyên tắc chung cho tất cả các quốc gia. Nguyên tắc số 1 của tuyên bố Stockholm nêu rõ:” con người có quyền được sống trong một môi trường chất lượng, cho phép cuộc sống có phẩm già và phúc lợi mà con ngừoi có trách nhiệm long trọng bảo vệ, cải thiện cho thế hệ hôm nay va mai sau.” Tuân thủ nguyên tắc này với tư cách là thành viên tham gia ký kết, Việt Nam đã nội luật hóa nguyên tắc này bằng việc ban hành Luật Bảo vệ sức khỏe cho Nhân dân ngày 30/6/1989. Tại điều 1 quy định rõ công dân cĩ quyền được đảm bảo về vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh môi trường. Đồng thời, luật này cũng quy định trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc tiến hành các biện pháp đảm bảo vệ sinh ăn ở, sinh hoạt cho nhân dân ở địa phương và trong cả nước. Pháp lệnh 2003 cùng các văn bản pháp luật liên quan là sự cụ thể hóa quyền con người được bảo vệ mặt vệ sinh thực phẩm. b. Vệ sinh an toàn thực phẩm đặt trong mối quan hệ với vấn đề phát triển bền vững. Theo khoản 4 điều 3 Luật bảo vệ Môi trường, phát triển bền vững là phát triển để đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của thế hệ tương lại trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, đảm bảo tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường. Như vậy vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, đứng ở vị trí nào trong phát triển bền vững? Như ta đã biết, con người là nguồn lực không thể thiếu trong nền kinh tế. Nguồn lực con người được đảm bảo sẽ góp phần vào sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế. Nguồn lực con người được nói đến ở đây không chỉ bao gồm người lao động trong các nhà máy xí nghiệp,mà còn bao gồm đông đảo người tiêu dùng trên thị trường. Khi vệ sinh an toàn thực phẩm được đảm bảo, cho ra đời nguồn thực phẩm an toàn, đảm bảo sức khỏe và tính mạng cho con người. Và khi tính mạng, sức khỏe được đảm bảo họ sẽ đem sức lực trí tuệ của mình xây dựng và phát triển nền kinh tế đất nước. Hơn nữa, thực phẩm có chất lượng tốt còn có tác dụng đẩy mạnh xuất khẩu đặc biệt là xuất khẩu vào các thị trường màu mỡnhưng khó tính như Hoa Kỳ, Châu Âu Nhật Bản… từ đó mang lại nguồn lợi nhuận lớn cho doanh nghiệp và nhà nước. với số lợi nhuận đó, nhà sản xuất sử dụng để đầu tư tái sản xuất, cải tiến công nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm.Hơn nữa, khi thực phẩm an toàn nhà nước không phải tốn kém nhiều chi phí về y tế để khắc phục nhứng tác hại ảnh hương đếntính mạng, sức khỏe người dân do thực phẩm có chất độc gây ra. Thay vào đó nhà nước thực hiện các phúc lợi nâng cao đời sống cho người dân. Như vậy, vệ sinh an toàn thực phẩm là động lực cho kinh tế phát triển. Đến lượt mình, kinh tế phát triển đảm bảo cho người dân có đời sống kinh tế ổn định , từ đó ý thức về vệ sinh an toàn thực phẩm của mỗi người sẽ nâng cao. Lúc này, họ quan tâm nhiều hơn đến chất lượng thực phẩm. Và một hệ quả tất yếu rằng, những sản phẩm kém chất lượng sẽ bị đào thải. Chính sự khắc nghiệt của quy luật thị trường này đưa người sản xuất đứng trước sự lựa chọn: hoặc cải tiến chất lượng để tồn tại hoặc bị đào thải. Một lần nữa, vệ sinh an toàn thực phẩm góp phần vào quá trình phát triển bền vững bằng việc nâng cao ý thức cho cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng. Và ngược lại, khi ý thức của người dân được nâng cao, họ cũng sẽ nhận thức được trách nhiệm bảo vệ môi trường của chính mình bởi vì chỉ khi có môi trường trong sạch thì mới có thực phẩm an toàn. II. Thực trạng vệ sinh an toàn thực phẩm tại thành phố Hồ Chí Minh: Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm đã và đang là một thực trạng rất bức xúc và đặt ra bài toán nan giải đối với chính quyền thành phố. Tình trạng này đang ở mức báo động đỏ đối với tất cả các khâu hình thành thực phẩm “ từ nông trại đến bàn ăn”. 1. Hoạt động sản xuất kinh doanh: a. Hoạt động sản xuất kinh doanh thực phẩm tươi sống: Hoạt động sản xuất kinh doanh thực phẩm tươi sống tại thành phố đang là nỗi bức xúc không chỉ đối với người tiêu dùng mà còn cả các nhà quản lý. Theo quy định của pháp lệnh 2003, các cá nhân tổ chức sản xuất kinh doanh thực phẩm không bị ô nhiễm bởi môi trường xung quanh, phải cách biệt với khu vực có khả năng gây ô nhiễm môi trường, gây nhiễm bẩn thực phẩm (điều 9 pháp lệnh 2003). Tuy nhiên trên thực tế tại thành phố quy định này bị vi phạm nghiêm trọng. Người trồng các loại rau thủy sinh tại các vùng ven thành phố chủ yếu sử dụng nguồn nước nhiễm bẩn từ các kênh rạch để tưới rau. Những vùng trước đây được xem là “thánh địa” của rau thành phố như Hoc môn, Bình Chánh, Quận 12… cũng trong tình trạng báo động đỏ về rau nước nhiễm hàm lượng kim loại nặng do hóa chất thải ra từ các khu công nghiệp. Theo nghiên cứu mới đây của TS Bùi Cách Tuyến, nguyên Hiệu trưởng trường ĐH Nông Lâm thành phố HCM, hàm lượng kẽm trong mẫu rau muống ở Bình Chánh cao hơn mức cho phép gấp 30 lần; ao rau nhút ở phường Thạnh Xuân, Q.12, hàm lượng chỉ cao hơn mức cho phép 35 lần. Tình trạng giết mổ gia súc gia cầm cũng không mấy sáng sủa hơn. Theo thống kê,chưa đầy đủ trên toàn thành phố có hơn 250 điểm giết mổ gia súc trái phép, chủ yếu là mổ heo lậu. Các cơ sở giết mổ gia cầm chỉ có khoảng 70 cơ sở nằm trong sự kiểm soát của cơ quan chức năng. Hầu hết các cơ sở đều nằm trong khu vực dân cư, tại các hộ gia đình với quy mô nhỏ, sử dụng phương pháp giết mổ thủ công nên không đảm bảo vệ sinh. Thịt sau khi mổ xong được vận chuyển chủ yếu bằng xe máy, xe ba gác chạy phơi ngoài đường nên nguy cơ thịt bị nhiễm bẫn rất cao. Thực phẩm tại thành phố lớn được bán tại các chợ truyền thống. Việc buôn bán tại hơn 300 ngôi chợ từ lớn tới nhỏ hầu như đều không đảm bảo vệ sinh. Thịt gia súc gia cầm được bày bán trên bàn mà không có tủ kính che chắn, ruồi nhặng vô số kể, sàn chợ đọng nước bẩn…rất mất vệ sinh. Đối với hoạt động nuôi trồng điều 11 pháp lệnh 2003 quy định “ việc sử dụng phân bón, thức ăn chăn nuôi thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, chất bảo quản thực phẩm,chất kích thích tăng trưởng , chất tăng trọng chất phát dục và các chất khác có liên quan đến vệ sinh an toàn thực phẩm phải tuân theo đúng quy định của pháp luật”. Tuy nhiên trên thị trường hiện nay, dư lượng các chất kích thích trên thịt, thuốc bảo vệ thực vật trên rau quả đang ở mức báo động có thể gây tổn hại đến sức khỏe con người. Theo kết quả khảo sát của Viện khoa học kỹ thuật miền Nam có đến 20% trên 86 mẫu máu lợn giết mổ tại thành phố HCM có chứa Benta agonist chất có thể gây tai biến tim. Việc sử dụng hormon này có lợi cho người chăn nuôi rõ rệt. Lợn lớn nhanh hơn, vai nở có hình dáng đẹp hơn và giá bán cao hơn từ 1000-15000đồng. Mới đây tại hội nghị toàn quốc lần thứ II về vệ sinh an toàn thực phẩm (quý I/2008), cục bảo vệ thực vật đã kiểm tra 13 mẫu rau quả tại thành phố Hồ CHí Minh thì có 4 mẫu có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và 1 mẫu (hành lá) có dư lượng thuốc vượt mức tối đa cho phép. b. Khâu chế biến thực phẩm. Theo quy định pháp lệnh 2003 và các văn bản khác có liên quan, các chủ thể chế biến thực phẩm phải đảm bảo các điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm đối với nơi chế biến, nguyên liệu sử dụng để chế biến. Việc sử dụng phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, vì chất dinh dưỡng phải nằm trong danh mục cho phép do Bộ y tế ban hành và sử dụng đúng liều lượng giới hạn sử dụng. Tại thành phố Hồ Chí Minh các cơ sở chế biến có quy mô nhỏ, với nhà xưởng chật hẹp nên hiện tượng nguyên liệu dùng để chế biến hoặc thậm chí thực phẩm đã thành phẩm được đặt cạnh nhà vệ sinh trở nên khá quen thuộc. Thêm vào đó, tình trạnh sử dụng nguyên liệu không rõ nguồn gốc xuất xừ cũng khá phổ biến. Để sản phẩm của mình có màu sắc bắt mắt, mùi vị hấp dẫn, có độ giòn, độ dai… người chế biến thường sử dụng bí quyết trong nghề đó là cho vào thực phẩm các loại hóa chất tao mùi, phẩm màu… vượt mức quy định hay các loại hóa chất bị cấm sử dụng như hàn the, formon… Khá bức xúc là tình trạng mất vệ sinh trầm trọng tại các bếp ăn tập thể. Bếp ăn tập thể thường được hình thành trong các xí nghiệp, các khu công nghiệp… Hiện nay, hầu hết các bếp ăn tập thể không có giấy chứng nhận vệ sinh an toàn thực phẩm. Mặc dù phục vụ cho một số lượng lớn khẩu phần ăn hàng ngày cho người lao động nhưng hệ thống cơ sở vật chất của bếp ăn thường được ít đầu tư, đặc biệt là các dụng cụ bảo quản, chứa đựng thức ăn (như khay , muỗng, đũa) không được rửa sạch, nước uống cho công nhân cũng không được đun sôi. Tất cả những vấn đề trên là nguyên nhân gây ra các vụ ngộ độc tập thể tại thành phố. c. Xuất nhập khẩu thực phẩm Trên thị trường thành phố hiện nay các sản phẩm thực phẩm nhập khẩu không rõ nguồn gốc đang lưu thông với khối lượng lớn. Hầu hết trong số đó là các sản phẩm nhập khẩu bằng con đường tiểu ngạch hay nhập lậu, hay bằng con đường chính ngạch nhưng không bị phát hiện. Các sản phẩm này thường có chất lượng kém, không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm như quá “date” lượng phẩm màu các chất bảo quản thực phẩm, dư lượng thuốc trên trái cây vượt mức cho phép. Gần đây dư luận xôn xao, người tiêu dùng hoang mang trước tình trạng các sản phẩm sữa ngoại không đạt chuẩn, gây hại cho sức khỏe. Nổi bật là vụ sữa nhập từ Trung Quốc có chứa chất Malamine có thể gây ung thư và suy thận và vụ sữa nhập từ Hàn Quốc có hàm lượng chi coa gấp 5.35 lần mức mà nhà nhập khẩu đăng ký tại Bộ Y Tế . d. Quảng cáo và ghi nhãn thực phẩm Theo quy định pháp luật, việc quảng cáo về thực phẩm, phụ gia thực phẩm chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, vi chất dinh dưỡng thực phẩm chức năng, thực phẩm có nguy cơ cao, thực phẩm được bảo quản bằng phương pháp chiếu xạ, thực phẩm có gen bị biến đổi và các vấn đề liên quan đến thực phẩm phải tuân theo pháp luật về quảng cáo. Và việc ghi nhãn thực phẩm phải có các nội dung cơ bản sau: tên thực phẩm, tên địa chỉ cơ sở sản xuất thực phẩm, định lượng chủ yếu, ngày sản xuất, thời hạn sử dụng, thời hạn bảo quản, hướng dẫn bảo quản, hướng dẫn sử dụng, xuất xứ sản phẩm. Tuy nhiên trên thực tế các nhà sản xuất thường không quan tâm những vấn đề trên vì nhiều lý do khác nhau. Trên bao bì thường không ghi ngày sản xuất, hạn sử dụng, cũng như xuất xứ sản phẩm. Hiện tượng gian lận thương mại, thậm chí là làm giả tràn lan. Việc ghi nhãn thực phẩm thiếu trung thực, đánh lừa người tiêu dùng. Điển hình là vụ lùm xùm trong ngành sữa đối với sản phẩm sữa tươi tiệt trùng. Theo tiêu chuẩn Việt Nam yêu cầu sữa tươi tiệt trùng phải có 99% nguyên liệu sữa tươi, nhưng hàm lượng sữa tươi chỉ đạt trên dưới 40%, phần còn lại là sữa bột. Đặc biệt theo pháp lệnh quảng cáo, sản phẩm sữa dành cho trẻ dưới 10 tháng tuổi thì không được quảng cáo, nhưng rầm rộ tại các siêu thị, các đại lý phân phối là các “event” dành cho các bà mẹ đang cho con bú…có thể thấy rằng hành vi vi phạm ngày càng đa dạng hơn. 2. Ngộ độc thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh là nơi có số vụ ngộ độc thực phẩm cao nhất cả nước. trong số các vụ ngộ độc thực phẩm được phát hiện thì ngộ độc độc tập thể chiếm đa số. Theo thống kê của Sở Y Tế thnh phố Hồ Chí Minh, chỉ riêng năm 2007 trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã xảy ra 22 vụ ngộ độc thực phẩm (trong đó 17 vụ ngộ độc tập thể) với 1.160 người mắc. Nguyên nhân chủ yếu là do sử dụng thực phẩm không đảm bảo vệ sinh. Điều này cũng dễ hiểu bởi thành phố Hồ Chí Minh tiếp nhận hơn 80% thực phẩm từ các tỉnh nhập vào, dẫn đến sự quá tải trong công tác kiểm soát, kiểm dịch (đó là chưa kể đến các tiêu cực trong quản lý), số lượng cơ sở sản xuất kinh doanh nhiều nhưng chỉ một số nhỏ nằm trong sự kiểm soát của cơ quan quản lý, tình trạng mất vệ sinh trầm trọng tại các bếp ăn tập thể, các quán ăn lề đường cho đến những nhà hàng lớn. 3. Thực trạng quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm tại thanh phố Hồ Chí Minh Công tác quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm tạ thnh phố Hồ Chí Minh đang bị buông lõng từ khẩu sản xuất. Phần lớn nguồn thực phẩm tại TP.HCM đều nhập từ các tỉnh cho nên các chốt kiểm dịch tại các cửa ngỏ vào thành phố được xem là lá chắn để kiểm soát chất lượng và số lượng thực phẩm. Thế nhưng công tác kiểm dịch tại đây rất sơ sài. Theo Chánh thanh tra chi cục thú y thành phố, việc kiểm tra chủ yếu là kiểm tra tính hợp lệ của giấy tờ của chủ hàng. Việc kiểm tra số lượng thì do chủ cửa hàng kiểm vì không thể xả hàng tại trạm để kiểm tra, còn những gia súc gia cầm chết hoặc không đạt tiêu chuẩn sẽ do khâu sau đảm nhận. Trong khi đó công tác kiểm dịch của cán bộ thú ý tại các cơ sở giết mổ cũng rất qua loa đại khái vì chủ yếu việc giết mổ được tiến hành vào ban đêm, còn cán bộ thu y làm việc giờ hành chính!? Công tác kiểm tra hàm lượng thuốc trên rau thuộc về Chi cục Bảo vệ thực vật, nhưng chi cục hầu như không thể quán xuyến nổi vì quá tải. Ngay cả công tác quản lý hàng hóa nhập khẩu tại cửa khẩu cũng trong tình trạng buông lỏng. Việc kiểm tra chi dừng lại trên giấy tờ, hoặc việc kiểm tra sản phẩm chi bằng cảm quan của người kiểm tra, hy hữu lắm mới có trường hợp ách hàng lại để kiểm tra toàn bộ Từ lâu nay, không ít lần quản lý thị trường phát hiện thực phẩm kém chất lượng nhưng chúng ta vẫn ngang nhiên được lưu thông trên thị trường bằng con đường chính ngạch. Các cơ quan quản lý cấp cơ sở thì thả lỏng quản lý, kết quả là các cửa hàng kinh doanh thực phẩm không đạt chuẩn, nhiều quán ăn đường phố mọc lên như nấm, làm cho tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm càng trở nên trầm trọng. Công tác thanh tra kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm không được tiến hành thường xuyên mà chỉ mạnh trong tháng hành động. Với những khẩu hiệu rất kêu như “ hãy là người tiêu dùng thông thái”… khi hết tháng hành động thì đâu lại vào đấy. Vi phạm vẫn tiếp tục. Ngoài ra, công tác phòng ngừa và khắc phục ngộ độc thực phẩm và bệnh truyền qua thực phẩm vẫn còn hạn chế. Việc giáo dục tuyên truyền, phổ biến kiến thức và thực hành về vệ sinh an toàn thực phẩm cho người sản xuất kinh doanh chưa thực sự sâu rộng. Chưa mang lại kết quả như mong muốn. Các trạm y tế và UBND phường xã chưa phát huy hết vai trò của mình. 4 Thực phẩm đường phố. Để đáp ứng nhu cầu ăn uống ngày càng gia tăng, lượng cơ sở chế biến thức ăn nhỏ lẻ, không đảm bảo vệ sinh ngày càng nhiều, đặc biệt là thức ăn đường phố. Thực trạng thức ăn đường phố hiện nay đang vượt quá ngưỡng cữa báo động. Ngoài tầm kiểm soát của các cơ quan chức năng, vấn đề là việc quản lý những người bán thức ăn đường phố là rất khó do số đông họ là những người dân nhập cư, là thành phần nghèo khó khăn, hơn nữa điểm bàn thường lưu động nên khó xử lý. Đây là nguyên nhân dẫn đến ngộ độc ngày càng gia tăng. III. Nguyên nhân của thực trạng vệ sinh an toàn thực phẩm tại thnh phố Hồ Chí Minh 1. Những nguyên nhân xuất phát từ hệ thống pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm: Văn bản pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm hiện nay nhiều nhưng vẫn thiếu. Tính đến tháng 01/2008 nước ta hiện nay có đến 259 van bản pháp luật do cơ quan Trung ương ban hành điều chỉnh lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm, trong đó pháp lệnh 2003 về vệ sinh an toàn thực phẩm là văn bản có giá trị cao nhất. Xét ở gốc độ nội dung, trong 259 văn bản nói trên có 50 văn bản quy định về phân công trách nhiệm quản lý, 52 văn bản về thực phẩm có nguy cơ cao, 40 văn bản về thực phẩm nhập khẩu, 08 văn bản về ngộ độc thực phẩm, 05 văn bản về phụ gia, nguyên liệu thực phẩm, 9 văn bản về cấp đăng ký chứng nhận sản phẩm, 31 văn bản về truyền thông giáo dục và quảng cáo thực phẩm, 24 văn bản về thanh tra kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại tố cáo và 28 văn bản về kiểm nghiệm vệ sinh an toàn thực phẩm. Theo thẩm quyền ban hành thì có 19 văn bản do Quốc hội và Ủy ban thường vụ quốc hội ban hành, 67 văn bản do Chính phủ, Thủ tướng chính phủ ban hành, 173 văn bản do Bộ, ngành ban hành. Trong đó có 19 luật, pháp lệnh, 39 Nghị định, 137 Quyết định và 20 chỉ thị. Với số lượng lớn như vậy nhưng phạm vi và mức độ điều chỉnh về vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn chưa đạt yêu cầu. Thực tế vẫn còn thiếu các quy định quan trọng về quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn đối vời từng loại thực phẩm, nhiều tiêu chuẩn đã lạc hậu chưa được sửa đổi kịp thời. Theo đánh giá của Bộ Y Tế, Việt Nam có khoảng 800 tiêu chuẩn thực phẩm nhưng chỉ 55% tiêu chuẩn phù hợp với quốc tế. Các quy định pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhiều điểm không thống nhất với nhau: Sự thiếu nhất quán thể hiện trong hệ thống các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. Cụ thể như: quy định của Bộ Y Tế về tiêu chuẩn độ đạm toàn phần đối với nước tương của các cơ sở sản xuất trong nước là phải đạt 10N và buộc phải ghi nhãn. Tuy nhiên, trên thực tế Bộ vẫn cho phép một số cơ sở sản xuất ghi nhãn hàm lượng protein. Với cách ghi này độ đạm Nitơ sẽ rất thấp, và dẫn đến giá thành cũng sẽ thấp hơn nhiều sơ với sản phẩm ghi nhãn bằng độ đạm. Hay hiện nay ở Việt Nam có 3 tiêu chuẩn về hàm lượng chì trong sản phẩm sữa, đó là TCVN 7108:2002 về sản phẩm sữa dành cho trẻ em đến 12 tháng tuổi, hàm lượng chì cho phép là 0,02 mg/kg, TCVN 55385 về sữa bột thì lượng chì không được vượt quá 0,5mg/kg và quyết định 37/1998/QĐ-BYT của Bộ Y Tế cho phép lượng chì lên tới 2mg/kg trong sữa và 0,5mg/kg thức ăn trẻ em chế biến sẵn, bột dinh dưỡng, thức ăn trẻ em đóng hộp. Tuy nhiên, khi áp dụng lại phải tuân theo quyết định của Bộ Y tế. Sự phân công quản lý nhà nước trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm chưa hợp lý: Ngày 18/7/2008, Chính phủ ban hành nghị định số 79/2008 quy định hệ thống tổ chức quản lý, thanh tra và kiểm tra về vệ sinh an toàn thực phẩm. Theo đó, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm và Bộ Y tế được giao nhiệm vụ giúp Chính phủ quản lý chung, đồng thời quản lý nhà nước đối với thực phẩm lưu thông trên thị trường. Ngoài ra, còn có sự tham gia của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý nhà nước đối với nông, lâm, thủy sản và muối trong quá trình sản xuất đến khi thực phẩm được đưa ra thị trường và hoạt động sản xuất nhập khẩu động thực vật, nguyên liệu dùng cho cây trồng vật nuôi…; Bộ công thương quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm trong suốt quá trình sản xuất đến khi sản phẩm được đưa ra thị trường; Bộ Khoa học và Công nghệ thẩm định và công bố tiêu chuẩn quốc gia, thẩm định quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về vệ sinh an toàn thực phẩm, tham gia kiểm nghiệm về vệ sinh an toàn thực phẩm; Bộ Tài nguyên và môi trường (điều 2 NDD/2008/NĐ-CP). Sự phân định thẩm quyền như vậy dẫn đến tình trạng phân khúc thẩm quyền quản lý trong một chuỗi hình thành thực phẩm. Cùng một sản phẩm nông sản nhưng chịu sự quản lý của nhiều Bộ khác nhau, cụ thể là Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn quản lý về an toàn vệ sinh trong sản xuất, thu hoạch sản phẩm, Bộ Y tế quản lý an toàn của sản phẩm trong lưu thông, Bộ khoa học và công nghệ quản lý về tiêu chuẩn chất lượng và nhãn mác, Bộ công thương quản lý đối với việc xuất nhập khẩu và kinh doanh sản phẩm. Trong khi đó, về nguyên tắc Bộ Y tế quản lý chung nhưng trên thực tế chỉ quản lý phần ngọn. Điều này làm giảm hiệu năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Chế tài xử lý đối với các vi phạm pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm còn bất cập: Người lãnh đạo quản lý, người sản xuất kinh doanh và người tiêu dùng thực phẩm vi phạm còn chưa được xử lý nghiêm minh, dẫn tới buông lỏng quản lý và để cho các vi phạm liên tiếp xảy ra. Các cơ quan tư pháp, hành pháp (tòa án, thanh tra Chính phủ ,…) chưa vào cuộc mạnh mẽ. Bất cập trong những quy định về thanh tra và thẩm quyền xử lý vi phạm: Hiện nay, thanh tra chuyên ngành an toàn thực phẩm được giao cho thanh tra y tế. Tuy nhiên công tác thanh tra hiện nay chưa có tổ chức và biên chế cho thanh tra chuyên ngành từ trung ương đến cơ sở, hơn nữa thẩm quyền xử phạt của thanh tra chuyên ngành là rất hạn chế. Theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002, sửa đổi bổ sung 2008, thanh tra chuyên ngành đang làm nhiệm vụ chỉ được quyền xử phạt tiền đến 500.000đồng, tịch thu tang vật phương tiện dùng để vi phạm hành chính có giá trị dưới 2 triệu đồng. Ngay đến thanh tra chuyên ngành cấp bộ mà cũng được xử phạt tối đa là 500 triệu đồng. Thiết nghĩ, trong thời buổi tối đa hóa lợi nhuận như hiện nay, mức xử phạt như thế là không đủ sức răn đe. 2. Những nguyên nhân khác: Đội ngũ cán bộ quản lý trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm tại thành phố vừa thiếu vừa yếu về chuyên môn nghiệp vụ: Thành phố Hồ Chí Minh có dân số trên 8 triệu, đó là chưa tính số dân nhập cư từ các tỉnh khác, số lượng cơ sở sản xuất kinh doanh, chế biến thực phẩm ở tuyến phường, xã gần 25.000 điểm, ở quận huyện hơn 10.140 cơ sở, và ở cấp thành phố quản lý gần 1.500 cơ sở. Trong khi đó, theo Trung Tâm Y tế dự phòng Thành phố Hồ Chí Minh , tuyến phường xã có 317 nhân viên vệ sinh an toàn thực phẩm nhưng hoạt động kiêm nhiệm, tuyến quận có 50 cán bộ chuyên trách và 36 cán bộ kiêm nhiệm, tuyến thành phố có 50 nhân viên chuyên trách và 3 kiêm nhiệm. Trung bình mỗi cán bộ quản lý khoảng 450 cơ sở, chưa kể các vụ dịch theo mùa, dịch cúm gia cầm, dịch heo tai xanh … khối lượng công việc quá tải, chủ yếu là giải quyết theo sự vụ, không thể đi sâu chuyên môn nên không đảm bảo chất lượng và hiệu quả. Thêm vào đó, trình độ kỹ thuật, đặc biệt là phương tiện kiểm nghiệm của thành phố còn thiếu và yếu, nhất là tuyến cơ sở. Sự thiếu trách nhiệm của các bộ trong thi hành công vụ: Đây cũng là nguyên nhân góp phần làm cho vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm trở nên nghiêm trọng. Sự thiếu trách nhiệm không những xảy ra đối với cán bộ cấp cơ sở, mà còn xảy ra đối với các cán bộ đầu ngành y tế, làm ảnh hưởng đến danh dự của ngành y tế thành phố, làm giảm lòng tin của người dân đối với chính quyền nói chung và đối với ngành y tế nói riêng. Ý thức của người tiêu dùng còn thấp: Ý thức về vệ sinh an toàn thực phẩm của người tiêu dùng Việt Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng còn thấp. Một số không nhỏ người tiêu dùng có thái độ bàng quan trước thực trạng vệ sinh an toàn thực phẩm kém bởi trước mắt vấn đề đó vẫn chưa ảnh hưởng đến mình. Số khác thì không quan tấm, chỉ mong có gì vào bụng cho qua ngày. Sự thờ ơ đó cũng là nguyên nhân làm cho công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này khó khăn hơn, không đạt kết quả như mong muốn, đôi khi còn gây lãng phí. IV. Những giải pháp cho vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm tại thành phố Hồ Chí Minh: 1. Những giải pháp mang tính vĩ mô: Hoàn thiện pháp luật: - Trên cơ sở các luật, pháp lệnh, nghị định thi hành, thành phố cần đề xuất Chính phủ xem xét lại phương thức tổ chức quản lý để bớt chồng chéo. Chính phủ cần có chính sách tổng thể với sự tham gia của nhiều bộ, ngành và cần đề ra một chiến lược về vệ sinh an toàn thực phẩm để nâng cao vai trò quản lý, quyền hạn của cả hệ thống. Mặc khác, cần rà soát lại, bổ sung, thiết lập thêm các quy định liên quan đến hóa chất, phụ gia thực phẩm đã bị cấm ở nước ngoài. Đối với nhưng quy định tiêu chuẩn trong nước cần ban hành một hệ thống tiêu chuẩn thống nhất. - Nhà nước cần đặt ra những chế tài mạnh tay buộc các nhà sản xuất phải tuân thủ quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm trong sản xuất và lưu thông sản phẩm đúng theo tiêu chuẩn đã công bố hoặc đã được chứng nhận hợp chuẩn, hợp quy. Không được sử dụng các chất phụ gia ngoài danh mục cho phép, nguyên liệu, hóa chất phụ gia không rõ nguồn gốc. Triệt để tuân thủ hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến trong sản xuất để tạo ra sản phẩm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. 2. Những giải pháp cụ thể: Thành phố cần xây dựng một chính sách dài hơn về nguồn nhân lực phục vụ trong lĩnh vực vê sinh an toàn thực phẩm. Trong đó, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, có phẩm chất đạo đức để đáp ứng yêu cầu của công tác lĩnh vực này, đồng thời, có chế độ đãi ngộ hợp lý. Bên cạnh đó, cần đề ra các biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với hành vi thiếu trách nhiệm nghề nghiệp của cán bộ quản lý. Trong thời điểm hiện tại, cần tăng cường hệ thống cán bộ quản lý về vệ sinh an toàn thực phẩm cấp phường xã nhằm thắt chặt quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh đang nằm ngoài sự kiểm soát. Là một thành phố đông dân nhất cả nước, do đó sức tiêu thụ các loại hàng hóa và thực phẩm là rất mạnh. Đây có thể là mảnh đất màu mỡ cho những nhà sản xuất không có đạo đức nghề nghiệp “lướt sóng” để tìm lợi nhuận. Và trên thực tế con số đó là không nhỏ. Vì vậy, bên cạnh tăng cường công tác quản lý từ phía nhà nước, thành phố cần có sự quan tâm đúng mức nhằm nâng cao vai trò của các cơ quan truyền thông, hội bảo vệ người tiêu dùng, các hội khoa học kỹ thuật có liên quan. Với khả năng thông qua nhiều hoạt động đa dạng và phong phú góp phần nâng cao kiến thức cho người và cho cả sản xuất, đặc biệt các kiến thức về chất lượng hàng hóa và vệ sinh an toàn thực phẩm, vai trò tư vấn và phản biện, giám định xã hội trong lĩnh vực chuyên môn, các hội này ngày càng khẳng định và phát huy hiệu quả đáng kể. Từ thực trạng các cơ sở sản xuất kinh doanh, chế biến thực phẩm của thành phố hầu hết có quy mô nhỏ, sử dụng phương pháp thủ công dẫn đến vệ sinh an toàn thực phẩm không đảm bảo, thành phố cần có chính sách hỗ trợ về vốn và công nghệ cho các cơ sở này nhằm nâng cao chất lượng thực phẩm và nâng cao sức cạnh tranh, tiến tới loại bỏ những cơ sở sản xuất không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Thành phố cũng cần quan tâm đúng mức đến đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học, sử dụng những công nghệ vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, thân thiện với môi trường. Đồng thời, có chính sách để khai thác mạnh hơn nữa đội ngũ trí thức khoa học trẻ phục vụ cho công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực này. Trong giai đoạn hiện nay, nươc ta thiếu hẳn cơ chế bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng, điều này triệt tiêu đi áp lựctừ phía người tiêu dùng đặt ra cho nhà sản xuất. Trước tình trạng vi phạm nghiêm trọng quyền lợi của người tiêu dùng tại địa phương, thành phố cần đặt ra một biện pháp kinh tế để tác động lên lợi ích của nhà sản xuất nhằm nâng cao trách nhiệm của mình hơn. Chẳng hạn như lập ra quỹ bảo vệ người tiêu dùng do Hội bảo vệ người tiêu dùng quản lý, khi doanh nghiệp vi phạm bên cạnh việc phải bồi thường cho người tiêu dùng, doanh nghiệp còn phải nộp một khoảng đóng góp bắt buộc định kỳ hàng năm vào quỹ này. Số tiền này được sử dụng để làm công tác từ thiện hoặc sử dụng vào mục đích nghiên cứu khoa học … Tóm lại, việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm chỉ có thể giải quyết rốt ráo nếu có những biện pháp đồng bộ. Người quản lý, người sản xuất, người tiêu dùng đều phải đồng lòng thực hiện với mục tiêu giữ gìn sức khỏe cho thể hệ hôm nay và cả thế hệ con cháu mai sau. TRƯỜNGĐẠI HỌCLUẬTTHÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LỚP HNH CHÍNH K30A dc & dc BI TIỂU LUẬN MƠN: LUẬT MÔI TRƯỜNG ĐỀ TÀI: GV hướng dẫn: Th.s:V Trung Tín Nhĩm thực hiện: 1. Trần Hưng Đạo 3050005 2. Lê Văn Hiệp 3050044 3. Trần Tuấn Lộc 3050059 4. Lê Đình Nam 3050074 5. Nguyễn Văn Ngọc 3050078›šTP.HCM,Thng 3 năm2009 MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMT (30).doc
Tài liệu liên quan