Các thông số chất lượng của tỏi tiêu thụ chủ yếu là độ
ẩm, chất dinh dưỡng hoặc hoạt tính sinh học, cụ thể là mùi
vị cay nồng. Nghiên cứu này cho thấy, thành phần hóa học
và hàm lượng các hợp chất có hoạt tính sinh học trong tép
tỏi đều bị ảnh hưởng đáng kể trong suốt thời gian tồn trữ
(ngoại trừ pH, hàm lượng flavonoid tổng số và khả năng
chống oxy hóa). Hàm lượng đường và độ ẩm giảm ở tuần
thứ 6 và 8, tương ứng. Hàm lượng polyphenol đạt cao nhất
ở tuần thứ 8, trong khi hàm lượng thiosulfinate có xu hướng
tăng đến cuối quá trình tồn trữ. Kết quả này có thể hữu ích
cho quá trình chế biến công nghiệp các sản phẩm từ tỏi
trong tương lai như tỏi đen, tỏi muối chua.
5 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 594 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự thay đổi của một số thành phần hóa học và hợp chất có hoạt tính sinh học trong tép tỏi (Allium sativum L.) trong quá trình tồn trữ - Nguyễn Ái Thạch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2060(6) 6.2018
Khoa học Tự nhiên
Đặt vấn đề
Tỏi (Allium sativum L.) có nguồn gốc từ Trung Á và chủ
yếu ở vùng Địa Trung Hải cũng như châu Á, châu Âu và châu
Phi. Tại Việt Nam có nhiều vùng trồng tỏi nổi tiếng như Lý
Sơn, Phan Rang, Vĩnh Phúc, Bắc Giang. Cây tỏi có thể phát
triển đến chiều cao 30-90 cm. Củ tỏi dưới mặt đất là thành
phần chính của cây và chia thành các phần được gọi là tép
tỏi. Mùi tỏi xuất phát từ “thành phần chứa lưu huỳnh” được
xem là có tính chất dược liệu trong tỏi [1]. Thành phần hoạt
động chính của tỏi là alliin [2]. Khi nghiền, alliin chuyển
hóa thành allicin (như chất kháng sinh). Tỏi cũng chứa các
hợp chất lưu huỳnh khác như ajoene, diallylsulfide, dithiin,
S-allylcysteine, polyphenol, vitamin B, proteins, chất
khoáng, saponins, flavonoid và nhiều sản phẩm của phản
ứng Maillard (hợp chất không chứa lưu huỳnh). Những hợp
chất chứa lưu huỳnh khó bay hơi như γ-glutamyl-S-allyl-
L-cysteines và S-allyl-L-cysteine sulfoxides (alliin) đều rất
phong phú trong tỏi còn nguyên vẹn. Các chất sulfoxide
này sau đó chuyển hóa thành thiosulfinate (như allicin)
thông qua phản ứng do enzyme [3]. Thiosulfinate khác và
thành phần tan trong dầu như ajoene, vinyldithiin và nhiều
sulphide như diallyl sulphide (DAS), diallyl disulphide
(DADS) và diallyl trisulphide (DATS), cũng góp phần tạo
nên đặc tính mùi và tính chất sinh học của tỏi. Nhiều tài liệu
nghiên cứu cho thấy những khả năng của tỏi và một số hợp
chất allyl lưu huỳnh làm thay đổi các tiến trình trong tế bào
liên quan đến việc phòng chống và điều trị ung thư [4].
Các hợp chất có hoạt tính sinh học là các thông số chất
lượng quan trọng trong tép tỏi. Chúng sẽ bị ảnh hưởng bởi
nhiều yếu tố: Nhiệt độ và thời gian tồn trữ, giống, độ thuần
thục [5]. Bloem, et al. [5] đã chứng minh rằng bón phân
lưu huỳnh làm tăng đáng kể hàm lượng alliin trong tép tỏi,
trong khi nồng độ nitơ cao ảnh hưởng bất lợi. Hàm lượng
và chất lượng alliin cao nhất thu được trong quá trình tồn
trữ tỏi khi bón phân lưu huỳnh tối thiểu 30 kg/ha nếu không
dùng nitơ. Montano, et al. [6] đã chỉ ra rằng vùng trồng,
giống và kiểu sinh thái riêng biệt của tỏi có ảnh hưởng đáng
kể đến hàm lượng các hợp chất lưu huỳnh hữu cơ.
Gần đây, Toledano Medina, et al. [7] đã báo cáo rằng,
tỏi đen có thể được chế biến từ tép tỏi (thay vì cả củ tỏi theo
phương pháp truyền thống) với chất lượng ít có sự khác
biệt với củ tỏi đen. Nhìn chung, tép tỏi được tồn trữ trong
một khoảng thời gian dài trước khi tiêu thụ. Do đó, điều
quan trọng đối với ngành công nghiệp chế biến và người
tiêu dùng là phải biết được sự thay đổi thành phần hóa học,
các hợp chất sinh học và khả năng chống oxy hóa trong suốt
quá trình tồn trữ. Vì vậy, trong nghiên cứu này, sự thay đổi
của một vài thành phần hóa học và hàm lượng các chất có
hoạt tính sinh học trong tép tỏi đã được xác định trong quá
trình tồn trữ.
Đối tượng và phương pháp
Đối tượng
Tỏi tươi cổ mềm, giống địa phương được thu hoạch vào
Sự thay đổi của một số thành phần hóa học và hợp chất có hoạt tính
sinh học trong tép tỏi (Allium sativum L.) trong quá trình tồn trữ
Nguyễn Ái Thạch*
Bộ môn Công nghệ thực phẩm, Trường Đại học Cần Thơ
Ngày nhận bài 3/10/2017; ngày chuyển phản biện 5/10/2017; ngày nhận phản biện 1/12/2017; ngày chấp nhận đăng 16/4/2018
Tóm tắt:
Tỏi (Allium sativum L.) đã được sử dụng phổ biến trong bữa ăn hàng ngày như gia vị thực phẩm với nhiều công
dụng trị bệnh hiệu quả. Tồn trữ tép tỏi có ý nghĩa quan trọng đối với thị trường tiêu thụ tỏi tươi và chế biến. Trong
nghiên cứu này, tác giả tiến hành đánh giá ảnh hưởng của quá trình tồn trữ tép tỏi (trồng ở phường Văn Hải, thành
phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận) đến một số thành phần hóa học (pH, độ ẩm và đường khử) và hàm
lượng các hợp chất có hoạt tính sinh học (hàm lượng polyphenol, flavonoid tổng số, hàm lượng thiosulfinate và khả
năng chống oxy hóa) trong tỏi. Hoạt tính chống oxy hóa được đánh giá bằng cách sử dụng phương pháp loại bỏ gốc
tự do DPPH (2,2-diphenyl-1-picrylhydrazyl). Kết quả nghiên cứu cho thấy thành phần hóa học và hàm lượng các
hợp chất có hoạt tính sinh học trong tép tỏi đều bị ảnh hưởng đáng kể bởi quá trình tồn trữ (ngoại trừ giá trị pH,
hàm lượng flavonoid tổng số và khả năng chống oxy hóa). Hàm lượng đường giảm ở tuần thứ 6 và độ ẩm giảm ở
tuần thứ 8. Bên cạnh đó, hàm lượng polyphenol đạt cao nhất ở tuần thứ 8, trong khi hàm lượng thiosulfinate có xu
hướng tăng đến tuần 12.
Từ khóa: DPPH, flavonoids, khả năng chống oxy hóa, polyphenols, tép tỏi, thiosulfinate, tồn trữ.
Chỉ số phân loại: 1.4
*Email: nguyenaithach2001@gmail.com
2160(6) 6.2018
Khoa học Tự nhiên
tháng 1/2017 và chọn lựa độ tuổi 130-135 ngày (sau khi
gieo) tại phường Văn Hải, thành phố Phan Rang - Tháp
Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Tỏi được thu hoạch vào buổi sáng
sớm, thời tiết nắng ráo và vận chuyển đến phòng thí nghiệm
trong ngày. Củ tỏi được xử lý và tách ra thành các tép tỏi
với lớp vỏ lụa bên ngoài vẫn còn nguyên vẹn. Tép tỏi được
tồn trữ trong tủ mát ở nhiệt độ 20±2oC với độ ẩm tương đối
42-47% trước khi đem đi phân tích.
Phương pháp nghiên cứu
Độ ẩm (%): Được xác định bằng phương pháp sấy ở
105oC đến khối lượng không đổi. Định lượng đường tổng
bằng phương pháp Lane-Eynon [8]. Giá trị pH được đo
bằng pH kế cầm tay (HI98107 Hanna, Ý).
Hàm lượng polyphenol tổng số (TPC) [mg acid gallic
tương đương (GAE)/g chất khô]: Hàm lượng polyphenol
tổng số được xác định bằng phương pháp Folin-Ciocalteu
[9]. Phenol phản ứng với acid phosphomolybdic trong thuốc
thử Folin-Ciocalteau, xuất hiện phức chất có màu xanh
trong môi trường kiềm. Đo độ hấp thụ của mẫu ở 765 nm
bằng máy đo quang phổ. Căn cứ vào cường độ màu đo được
trên máy quang phổ và dựa vào đường chuẩn acid gallic
để xác định hàm lượng polyphenol tổng số có trong mẫu.
Hàm lượng polyphenol tổng của mẫu được thể hiện qua mg
đương lượng acid gallic trên mỗi g chất khô (mg GAE/g).
Hàm lượng flavonoid tổng số (TFC): Hàm lượng tổng
flavonoid được xác định thông qua phương pháp tạo màu
với AlCl
3
trong môi trường kiềm - trắc quang [10]. Độ hấp
thụ của dung dịch phản ứng được đo ở bước sóng 415 nm.
Dựa vào đường chuẩn quercetin để xác định hàm lượng
flavonoid tổng có trong mẫu. Các kết quả được thể hiện qua
mg đương lượng quercetin (QE) trên mỗi g chất khô mẫu
phân tích (mg QE/g).
Hàm lượng thiosulfinate tổng số (µmol/g): Đo độ hấp
thu ở bước sóng 412 nm của 2-nitro-5-thiobenzoate được
tạo ra bằng cách kết hợp các phương pháp của Kinalski và
Noreña [11].
Hoạt động chống oxy hóa (%): Hoạt động loại bỏ gốc
tự do được phân tích thông qua thử nghiệm 1,1-diphenyl-
2-picryl-hydrazil (DPPH). Khả năng khử gốc tự do DPPH
được xác định theo phương pháp của Blois [12]. Các chất
có khả năng oxy hóa sẽ trung hòa gốc DPPH bằng cách
cho hydrogen, làm giảm độ hấp thu tại bước sóng cực đại
và màu của dung dịch phản ứng sẽ nhạt dần, chuyển từ tím
sang vàng nhạt.
Phân tích thống kê số liệu
Các kết quả thực nghiệm được phân tích bằng phần mềm
Statgraphics Centurion XVI. Đồ thị được vẽ bằng phần
mềm Microsoft Excel với độ lệch chuẩn (STD).
Mỗi khảo nghiệm được thực hiện ba lần. Phương pháp
phân tích phương sai (ANOVA) được sử dụng để xác định
sự khác biệt ý nghĩa (p<0,05) giữa các trung bình nghiệm
thức.
Kết quả
Một số thành phần hóa học
Thành phần của tỏi rất phức tạp, với hơn 200 hợp chất có
lợi cho sức khỏe khác nhau đã được xác định [13]. Độ ẩm
(A), hàm lượng đường tổng (B) và pH (C) của tép tỏi trong
suốt quá trình bảo quản được thể hiện ở hình 1.
Changes of some chemical
constituents and bioactive
compounds of garlic (Allium
sativum L.) clove during storage
Ai Thach Nguyen*
Department of Food Technology, Can Tho University
Received 3 October 2017; accepted 16 April 2018
Abstract:
Garlic (Allium sativum L.) has been considered to be
a food with exceptional therapeutic qualities in many
cultures. Garlic cloves storage is an important factor
for fresh and processed products. In this study, we
investigated the variations of some chemical constituents
(pH, moisture and reducing sugars) and contents of
bioactive compounds (total polyphenols, total flavonoids
and thiosulfinate content and antioxidant capacity)
during the storage time of garlic cloves after harvest
at Van Hai Ward, Phan Rang - Thap Cham City, Ninh
Thuan Province). The antioxidant activity was evaluated
using DPPH (2,2-diphenyl-1-picrylhydrazyl) radical
scavenging activity. Some chemical compositions and
contents of bioactive compounds in garlic cloves were
significantly affected during storage (except for the pH
value, total flavonoids content and antioxidant capacity).
The reducing sugar and moisture content decreased at 6
and 8 weeks, respectively. The total polyphenols content
reached maximum at 8 weeks, while thiosulfinates
content tended to increase at 12 weeks.
Keywords: Antioxidant capacity, clove garlic, DPPH,
flavonoids, polyphenols, storage, thiosulfinate.
Classification number: 1.4
2260(6) 6.2018
Khoa học Tự nhiên
Hàm lượng các hợp chất có hoạt tính sinh học và khả
năng chống oxy hóa
Tỏi rất giàu hợp chất hoạt tính sinh học có khả năng
chống oxy hóa cao và đã thu hút được nhiều quan tâm từ các
nhà khoa học do những tác dụng có lợi đối với sức khỏe con
người, đặc biệt là khả năng chống oxy hóa [14]. Hàm lượng
polyphenol tổng số trong tép tỏi tăng, đạt cực đại (3,23±0,11
mg GAE/g) ở tuần thứ 8 và sau đó giảm nhanh đáng kể
(hình 2A). Kết quả thể hiện ở hình 2B cho thấy hàm lượng
flavonoid tổng số không có sự khác biệt ý nghĩa (p>0,05)
trong thời gian tồn trữ và dao động trong khoảng 0,43-0,46
mg QE/g.
Block, et al. [15] đã xác định được 8 hợp chất thiosulfinate
khác nhau từ 9 loại thực vật họ Allium bao gồm tỏi, hành tây
và báo cáo rằng chúng rất nhạy cảm, dễ bị phân hủy. Tuy
nhiên, kết quả trong nghiên cứu này cho thấy hàm lượng
thiosulfinate không có sự khác biệt ở 4 tuần đầu tiên và sau
đó tăng đều (p<0,05) đến tuần 12 (hình 2C).
Khả năng chống oxy hóa (loại bỏ gốc tự do DPPH)
của các tép tỏi trong quá trình tồn trữ thay đổi rất phức tạp
và đạt cao nhất ở tuần thứ 4 và 8 với giá trị tương ứng là
9,16±0,53% và 9,22±0,29% (hình 2D).
Bàn luận
Tỏi có hàm lượng ẩm thấp hơn so với các loại rau khác
[16]. Kết quả phân tích cho thấy thời gian tồn trữ có ảnh
hưởng đáng kể (p<0,05) đến độ ẩm và hàm lượng đường
khử trong tép tỏi. Ở các tuần đầu, độ ẩm không có sự khác
biệt có ý nghĩa (p>0,05) và giảm nhanh đáng kể sau đó.
Mặc dù điều kiện tồn trữ có độ ẩm tương đối thấp nhưng
do cấu tạo phần thịt tép tỏi được bao bọc bởi lớp vỏ lụa và
do đó hạn chế tối đa quá trình mất nước. Ngoài ra, Iglesias-
Enriquez và Fraga [17] đã công bố quá trình sinh lý của củ
tỏi tương tác với môi trường và ảnh hưởng đến việc vận
chuyển hơi nước, sự phát triển mầm và rễ làm thay đổi hình
dạng của tỏi, gây ra sức căng và phá vỡ mô bề mặt, tạo điều
kiện mất nước. Bên cạnh đó, hàm lượng ẩm trong tỏi tươi đã
được công bố vào khoảng 64-66% [14, 18-20].
Hàm lượng đường khử trong tép tỏi giảm nhanh (p<0,05)
sau 4 tuần của quá trình tồn trữ. Điều này có thể liên quan
đến sự nảy mầm, nhưng không có mối liên hệ rõ ràng đến
chỉ số nảy mầm bên trong hoặc tổn thất khối lượng (kết quả
không thể hiện ở đây). Rutherford và Whittle [21] chỉ ra
rằng hàm lượng đường tổng của hành tây không thay đổi
trước khi nảy mầm, nhưng sau đó suy giảm (7-12%).
0
10
20
30
40
50
60
70
2 4 6 8 10 12
Thời gian tồn trữ (ngày)
Đ
ộ
ẩ
m
(
%
)
0.0
0.5
1.0
1.5
2.0
2.5
2 4 6 8 10 12
Thời gian tồn trữ (ngày)
H
àm
lư
ợ
n
g
đ
ư
ờ
n
g
t
ổ
n
g
(
%
)
6.0
6.1
6.2
6.3
6.4
6.5
6.6
6.7
2 4 6 8 10 12
Thời gian tồn trữ (ngày)
pH
Hình 1. Sự thay đổi độ ẩm (A), hàm lượng đường khử (B) và pH (C) trong tép tỏi trong quá trình tồn trữ.
(A) (B)
2360(6) 6.2018
Khoa học Tự nhiên
Riêng giá trị pH ít biến đổi khi tồn trữ và dao động trong
khoảng 6,31-6,51. Kết quả thu được gần giống với nhiều
nghiên cứu khác, tỏi tươi có giá trị pH 6,41±0,01 [20],
tương tự với giá trị được công bố bởi Haciseferogullari, et
al. [18], pH 6,33 [22] và 6,42 [14].
Hàm lượng polyphenol tổng số trong tép tỏi tăng ở tuần
thứ 8 và sau đó giảm nhanh. Điều này có thể do hoạt động
sinh lý nảy mầm trong củ tỏi đang diễn ra làm tăng hàm
lượng polyphenol [23]. Hàm lượng phenol tổng số trong tỏi
tươi là 722 mg GAE/100 g trọng lượng tươi (mùa vụ năm
2008) và 511 mg GAE/100 g trọng lượng tươi (mùa vụ năm
2009) [24]. Trong nghiên cứu của Kim, et al. [25] tỏi tươi
chứa hàm lượng polyphenol tổng số là 105,73 mg GAE/kg.
Hàm lượng thiosulfinate không có sự khác biệt ở 4
tuần đầu tiên và sau đó tăng đều. Điều này có thể do tiền
chất góp phần tạo nên thiosulfinate là alliin tăng trong thời
gian tồn trữ [26]. Alliin bị chuyển đổi thành allicin bởi
enzyme alliinase khi tỏi bị cắt hoặc nghiền tạo thành allicin
(thiosulfinate chiếm số lượng nhiều nhất góp phần tạo nên
tính chất dược liệu của tỏi) [27]. Theo Block, et al. [15],
tỏi được ghi nhận là nguồn giàu thiosulfinate nhất với hàm
lượng dao động trong khoảng 15 µmol/g (tỏi phát triển ở
nhiệt độ thấp, 21oC) đến 53 µmol/g (tỏi voi). Hàm lượng
thiosulfinate của các loài hành tây đều nhỏ hơn 0,35 µmol/g.
Trong nghiên cứu của Somman và Napa [28], hoạt tính
loại bỏ gốc tự do DPPH của củ tỏi là khá cao, đạt 25,53%.
Tuy nhiên hoạt tính chống oxy hóa của tỏi tươi ở Hàn Quốc
được công bố với giá trị thấp hơn như 6,21% [14] và 4,65%
[22]. Ngoài polyphenol có hoạt tính chống oxy hóa, các hợp
chất lưu huỳnh hữu cơ trong củ tỏi cũng có chức năng tương
tự [29]. Như vậy, thành phần hóa học và hoạt tính chống oxy
hóa của tỏi phụ thuộc rất lớn vào giống, điều kiện trồng trọt
và khí hậu [24].
Kết luận
Các thông số chất lượng của tỏi tiêu thụ chủ yếu là độ
ẩm, chất dinh dưỡng hoặc hoạt tính sinh học, cụ thể là mùi
vị cay nồng. Nghiên cứu này cho thấy, thành phần hóa học
và hàm lượng các hợp chất có hoạt tính sinh học trong tép
tỏi đều bị ảnh hưởng đáng kể trong suốt thời gian tồn trữ
(ngoại trừ pH, hàm lượng flavonoid tổng số và khả năng
chống oxy hóa). Hàm lượng đường và độ ẩm giảm ở tuần
thứ 6 và 8, tương ứng. Hàm lượng polyphenol đạt cao nhất
ở tuần thứ 8, trong khi hàm lượng thiosulfinate có xu hướng
tăng đến cuối quá trình tồn trữ. Kết quả này có thể hữu ích
0.0
0.5
1.0
1.5
2.0
2.5
3.0
3.5
2 4 6 8 10 12
Thời gian tồn trữ (ngày)
H
àm
lư
ợ
n
g
p
o
ly
p
h
en
o
l t
ổ
n
g
s
ố
(m
g
G
A
E
/g
)
0.0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
2 4 6 8 10 12
Thời gian tồn trữ (ngày)
H
àm
lư
ợ
n
g
f
la
vo
n
o
id
t
ổ
n
g
s
ố
(m
g
Q
E
/g
)
0
2
4
6
8
10
12
2 4 6 8 10 12
Thời gian tồn trữ (ngày)
H
àm
lư
ợ
n
g
t
h
io
su
lf
in
at
e
(m
ic
ro
m
o
l/g
)
0
2
4
6
8
10
2 4 6 8 10 12
Thời gian tồn trữ (ngày)
K
hả
n
ăn
g
ch
ốn
g
ox
y
hó
a
(%
)
Hình 2. Sự thay đổi hàm lượng polyphenol tổng số (A), flavonoid tổng số (B), thiosulfinate (C) và khả năng chống oxy hóa (D) trong
tép tỏi ở các khoảng thời gian tồn trữ khác nhau.
2460(6) 6.2018
Khoa học Tự nhiên
cho quá trình chế biến công nghiệp các sản phẩm từ tỏi
trong tương lai như tỏi đen, tỏi muối chua.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] S. Ankri, and D. Mirelman (1999), “Antimicrobial properties
of allicin from garlic”, Microbes and Infection, 2, pp.125-129.
[2] N. Benkeblia, and V. Lanzotti (2007), “Allium thiosulfinates:
chemistry, biological properties and their potential utilization in food
preservation”, Food, 1(2), pp.193-201.
[3] H. Amagase (2006), “Clarifying the real bioactive constituents
of garlic”, J. Nutr., 136(3) Suppl., pp.716S-725S.
[4] J.A. Milner, and D.F. Romagnolo (2010), Bioactive compounds
and cancer, Springer Science+Business Media, LLC, USA, 836pp.
[5] E. Bloem, S. Haneklaus, and E. Schnug (2011), “Storage life of
field-grown garlic bulbs (Allium sativum L.) as influenced by nitrogen
and sulfur fertilization”, J. Agric. Food Chem., 59(9), pp.4442-4447.
[6] A. Montano, V.M. Beato, F. Mansilla, and F. Orgaz (2011),
“Effect of genetic characteristics and environmental factors on
organosulfur compounds in garlic (Allium sativum L.) grown in
Andalusia, Spain”, J. Agric. Food Chem., 59(4), pp.1301-1307.
[7] M.A. Toledano Medina, J. Pérez-Aparicio, R. Moreno-Rojas,
and T. Merinas-Amo (2016), “Evolution of some physicochemical
and antioxidant properties of black garlic whole bulbs and peeled
cloves”, Food Chemistry, 199, pp.135-139.
[8] J.H. Lane, and L. Eynon (1923), “Volumetric determination of
reducing sugars by means of Fehling’s solution, with methylene blue
as internal indicator”, IS1XXV, pp.143-149.
[9] K. Wolfe, X. Wu, and L.H. Liu (2003), “Antioxidant activity
of apple peels”, J. Agric. Food Chem., 51, pp.609-614.
[10] H. Zhu, Y. Wang, Y. Liu, Y. Xia, and T. Tang (2010), “Analysis
of flavonoids in Portulaca oleracea L. by UV-Vis spectrophotometry
with comparative study on different extraction technologies”, Food
Analytical Methods, 3(2), pp.90-97.
[11] T. Kinalski, and C.P.Z. Norena (2014), “Effect of blanching
treatments on antioxidant activity and thiosulfinate degradation of
garlic (Allium sativum L.)”, Food and Bioprocess Technology, 7(7),
pp.2152-2157.
[12] M.S. Blois (1958), “Antioxidant determination by the use of
a stable free radical”, Nature, 181, pp.1199-1200.
[13] R.R. Watson, and V.R. Preedy (2010), Bioactive foods in
promoting health fruits and vegetables, Elsevier Inc, USA, 725 pp.
[14] S.E. Bae, S.Y. Cho, Y.D. Won, S.H. Lee, and H.J. Park
(2014), “Changes in S-allyl cysteine contents and physicochemical
properties of black garlic during heat treatment”, LWT - Food Science
and Technology, 55(1), pp.397-402.
[15] E. Block, S. Naganathan, D. Putman, and S.H. Zhao (1992),
“Allium chemistry: HPLC analysis of thiosulfinates from onion, garlic,
wild garlic (Ramsons), leek, scallion, shallot, elephant (great-headed)
garlic, chive, and Chinese chive. Uniquely high allyl to methyl ratios
in some garlic samples”, J. Agric. Food Chem., 40, pp.2418-2430.
[16] B. Cemeroglu, and J. Acar (1986), Fruit and Vegetable
Processing Technology, Turkish Association of Food Technologists,
Ankara, Publ. 6, p.508.
[17] I. Iglesias-Enriquez, and R. Fraga (1998), “Envase y forma
de almacenamiento adecuado para la conservacio´n poscosecha del
ajo irradiado y sin irradiar”, Alimentaria, 295, pp.91-96.
[18] H. Haciseferogullari, M. Özcan, F. Demir, and S. Çalisir
(2005), “Some nutritional and technological properties of garlic
(Allium sativum L.)”, J. Food Eng., 68, pp.463-469.
[19] X. Xu, Y. Miao, J.Y. Chen, Q. Zhang, and J. Wang (2015),
“Effective production of S-allyl-L-cysteine through a homogeneous
reaction with activated endogenous γ-glutamyltranspeptidase in garlic
(Allium Sativum)”, J. Food Sci. Technol., 52(3), pp.1724-1729.
[20] L. Fante, and C.P.Z. Noreña (2015), “Quality of hot air dried
and freeze-dried of garlic (Allium sativum L.)”, Journal of Food
Science and Technology, 52(1), pp.211-220.
[21] P.P. Rutherford, and R. Whittle (1982), “The carbohydrate
composition of onions during long term cold storage”, J. Hortic. Sci.,
57(3), pp.349-356.
[22] I.S. Choi, H.S. Cha, and Y.S. Lee (2014), “Physicochemical
and antioxidant properties of black garlic”, Molecules, 19, pp.16811-
16823.
[23] A. Zakarova, J.Y. Seo, H.Y. Kim, J.H. Kim, J.H. Shin, K.M.
Cho, C.H. Lee, and J.S. Kim (2014), “Garlic sprouting is associated
with increased antioxidant activity and concomitant changes in the
metabolite profile”, Journal of Agricultural and Food Chemistry,
62(8), pp.1875-1880.
[24] P. Põldma, T. Tõnutare, A. Viitak, A. Luik, and U. Moor
(2011), “Effect of selenium treatment on mineral nutrition, bulb size,
and antioxidant properties of garlic (Allium sativum L.)”, J. Agric.
Food Chem., 59(10), pp.5498-5503.
[25] J.S. Kim, O.J. Kang, and O.C. Gweon (2013), “Comparison
of phenolic acids and flavonoids in black garlic at different thermal
processing steps”, Journal of Functional Foods, 5(1), pp.80-86.
[26] M. Ichikawa, N. Ide, and K. Ono (2006), “Changes in
organosulfur compounds in garlic cloves during storage”, J. Agric.
Food Chem., 54(13), pp.4849-4854.
[27] H. Amagase, B.L. Petesch, H. Matsuura, S. Kasuga, and
Y. Itakura (2001), “Intake of garlic and its bioactive components”,
Journal of Nutrition, 131, pp.955S-962S.
[28] A. Somman, and S. Napa (2015), “Comparison of antioxidant
activity and tyrosinase inhibition in fresh and processed white radish,
garlic and ginger”, Food Measure, doi: 10.1007/s11694-015-9244-5.
[29] S. Gorinstein, H. Leontowicz, M. Leontowicz, J. Drzewiecki,
K. Najman, E. Katrich, D. Barasch, K. Yamamoto, and S. Trakhtenberg
(2006), “Raw and boiled garlic enhances plasma antioxidant activity
and improves plasma lipid metabolism in cholesterol fed-rats”, Life
Sci., 78, pp.655-663.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36249_117141_1_pb_3771_2098514.pdf