Sự thay đổi nồng độ Interleukin - 17 trong máu bệnh nhân viêm khớp vảy nến tại bệnh viện da liễu trung ương từ tháng 10/2015 đến tháng 3/2016

Nồng độ IL-17 trung bình trong máu bệnh nhân viêm khớp vảy nến cao hơn so với nhóm chứng, tuy nhiên sự thay đổi này không có ý nghĩa thống kê (p =0,25). Tuy nhiên, nồng độ của IL-17 trong máu bệnh nhân viêm khớp vảy nến không khác nhau theo thời gian bị bệnh, độ tuổi và giới tính của bệnh nhân. Kết quả này tương tự như kết quả của một số nghiên cứu trên thế giới ; kết quả nghiên cứu cho thấy IL17 đóng vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của vảy nến, tăng cao nồng độ IL 17 trong máu, trong khớp và tại thương tổn da của bệnh nhân viêm khớp vảy nến và nồng độ IL17 tăng này có liên quan tới mức độ hoạt động của bệnh và thương tổn cấu trúc xương khớp[2], [3]. Một số nghiên cứu khác cho thấy có sự gia tăng số lượng tế bào sản xuất IL-17 được tìm thấy trong máu, khớp và thương tổn da của bệnh nhân viêm khớp vảy nến [4]. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng IL-17 kích thích các tế bào của màng hoạt dịch khớp sản xuất ra các hóa chất trung gian thu hút và hoạt hóa các tế bào đơn nhân, tế bào tua gai, Th17, và BCĐNTT sản xuất các cytokin và các hóa chất trung gian gây ra quá trình viêm ở khớp. Theo nghiên cứu của Menon B và cộng sự là nghiên cứu đầu tiên cho thấy dịch khớp của bệnh nhân viêm khớp vảy nến tăng IL-17+CD8+ T cell và có liên quan với mức độ nặng, độ hoạt động thương tổn khớp bao gồm nồng độ CRP, tốc độ máu lắng và điểm DAS28T [5]. Nghiên cứu pha 3 trên 606 bệnh nhân viêm khớp vảy nến ngẫu nhiên chia tỉ lệ 1:1:1 tiêm tĩnh mạch secukinumab liều 10mg/kg ở tuần 0,2 và tuần 4 sau đó tiêm dưới da liều 150mg hoặc 75 mg hoặc placebo mỗi 4 tuần. Bệnh nhân nhóm giả dược sẽ được tiêm thuốc ở tuần 16 hoặc 24 liều 150 mg hoặc 75 mg tùy đáp ứng lâm sàng. Kết quả cho thấy tỉ lệ đạt ACR20 ở tuần 24 cao hơn đáng kể ở nhóm bệnh nhân nhận liều secukinumab 150 mg(50,5%) và liều 75mg (50,5%) so với nhóm placebo (17,3%) . Đồng thời đáp ứng ACR50 và cải thiện thương tổn cấu trúc khớp nhiều hơn đáng kể ở nhóm tiêm thuốc so với nhóm giả dược [6]. Như vậy, điều trị bằng kháng thể đơn dòng từ người ức chế IL-17A cho thấy hiệu quả đáng kể đối với bệnh nhân viêm khớp vảy nến cho thấy vai trò quan trọng của IL-17A trong cơ chế bệnh sinh của viêm khớp vảy nến và chất ức chế interleukin này đang là chế phẩm sinh học được nghiên cứu và áp dụng để điều trị bệnh.

pdf4 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 6 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự thay đổi nồng độ Interleukin - 17 trong máu bệnh nhân viêm khớp vảy nến tại bệnh viện da liễu trung ương từ tháng 10/2015 đến tháng 3/2016, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số26(Tháng08/2018)DALIỄUHỌC NGHIÊNCỨUKHOAHỌC 6 72,1212 ,17(5/(8.,1752108 (111,(0.3 1(17,(1,(1/,(87 7 71(171 Lê Hữu Doanh*, Phạm Thị Minh Phương, Quách Thị Hà Giang* 1. ĐẠI CƯƠNG Viêm khớp vảy nến được định nghĩa là một dạng đặc biệt của viêm khớp liên quan đến bệnh vảy nến ảnh hưởng tới màng hoạt dịch khớp, tế bào mô liên kết, thương tổn xương cùng với thương tổn da và móng. Bệnh không phải là một sự trùng lặp ngẫu nhiên của hai bệnh vảy nến và thấp khớp trên một bệnh nhân mà là một thực thể bệnh lý riêng biệt[1]. Gần đây người ta thấy rằng interleukin -17 đóng vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của bệnh viêm khớp vảy nến. Các nghiên cứu cho thấy có sự gia tăng số lượng tế bào sản xuất IL-17 được tìm thấy trong máu, khớp và thương tổn da của bệnh nhân viêm khớp vảy nến. Hơn thế nữa, sự gia tăng này có liên quan tới mức độ hoạt động của bệnh và thương tổn cấu trúc khớp [2], [3]. Đề tài này được thực hiện với mục tiêu đánh giá sự thay đổi của nồng độ IL-17 trong máu BN viêm khớp vảy nến. 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu 2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân Ø Bệnh nhân được chẩn đoán viêm khớp vảy nến. Chẩn đoán viêm khớp vảy nến theo thang điểm CASPAR >= 3/5 điểm. Ø BN trên 18 tuổi Ø BN mới được chẩn đoán chưa được điều trị gì hoặc đã ngừng điều trị các thuốc đường toàn thân ≥ 2 tháng 2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân: Ø Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu. Ø Bệnh nhân bị các bệnh cấp tính và mãn tính khác. Ø Bệnh nhân nữ có thai. 2.1.3. Tiêu chuẩn chọn nhóm chứng: là những người khỏe mạnh. 2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu Bệnh viện Da liễu Trung Ương. Từ tháng 10/2015- 3/2016 2.3. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang, tiến cứu. 2.4. Phương pháp xử lý số liệu: Theo chương trình SPSS 16.0. DALIỄUHỌCSố26(Tháng08/2018) NGHIÊNCỨUKHOAHỌC 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Một số đặc điểm lâm sàng của BN viêm khớp vảy nến (n=20) Bảng 1: Một số đặc điểm lâm sàng của BN viêm khớp vảy nến Toàn trạng n % Mệt mỏi 15 35.0 Sốt 5 25.0 Cơ năng Đau 20 100,0 Ngứa 15 95.0 Thương tổn móng Có tt móng 20 100% Số khớp sưng , đau trung bình Số khớp đau 18 ± 19,7 Số khớp sưng 10,6 ±12,7 3.2. Biến đổi nồng độ IL-17 trong máu BN viêm khớp vảy nến a. So sánh nồng độ IL_17 trong máu của nhóm bệnh nhân và nhóm chứng. Biểu 3.1. Nồng độ IL_17 trong máu của nhóm bệnh nhân và nhóm chứng Nhận xét: Nồng độ IL-17 trong máu của nhóm BN viêm khớp vảy nến cao hơn so với nhóm chứng, tuy nhiên sự thay đổi này không có ý nghĩa thống kê (p =0,25) b. So sánh nồng độ IL-17 trung bình trong máu bệnh nhân ở hai giới (pg/ml) Bảng 2: Nồng độ IL-17 trung bình trong máu BN ở hai giới Giới Nồng độ IL-17 p Nam 3,53 ± 2,18 0,98 Nữ 3,77± 1,85 Nhận xét: Nồng độ IL-17 trung bình trong máu bệnh nhân viêm khớp vảy nến cao ở nữ giới cao hơn nam giới, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) c. So sánh nồng độ IL-17 trung bình trong máu BN ở các nhóm tuổi Bảng 3: Nồng độ IL-17 trung bình trong máu bệnh nhân ở các nhóm tuổi Nhóm tuổi Nồng độ IL-17 p12 p23 p13 pchung Nhóm 1(19t-39t) 3,19 ± 2,42 0,63 0,49 0,38 0,63 Nhóm 2(40t-59t) 3,69 ± 1,46 Nhóm 3 (=>60 t) 4,46 ± 2,14 Nhận xét: Không có sự khác biệt về nồng độ trung bình giữa các nhóm tuổi (p>0,05) 4 3 2 1 0 3.5 2.5 1.5 0.5 p = 0,25 Nhóm bệnh Nhóm chứng Số26(Tháng08/2018)DALIỄUHỌC NGHIÊNCỨUKHOAHỌC d. So sánh nồng độ IL-17 trung bình trong máu BN theo thời gian mắc bệnh. Bảng 4: Nồng độ IL-17 trung bình trong máu BN theo thời gian mắc bệnh. Nồng độ IL-17 p Nhóm 1 (0-5 năm) 3,29 ± 1,32 0,63 Nhóm 2 (6-10 năm) 4,37 ± 3,18 Nhận xét: Không có sự khác biệt về nồng độ trung bình của IL17 giữa 2 nhóm thời gian mắc bệnh từ 0-5 năm và từ 6-10 năm. Nhận xét: Không có sự khác biệt về nồng độ trung bình giữa các nhóm theo thời gian mắc bệnh (p>0,05) 4. BÀN LUẬN Nồng độ IL-17 trung bình trong máu bệnh nhân viêm khớp vảy nến cao hơn so với nhóm chứng, tuy nhiên sự thay đổi này không có ý nghĩa thống kê (p =0,25). Tuy nhiên, nồng độ của IL-17 trong máu bệnh nhân viêm khớp vảy nến không khác nhau theo thời gian bị bệnh, độ tuổi và giới tính của bệnh nhân. Kết quả này tương tự như kết quả của một số nghiên cứu trên thế giới ; kết quả nghiên cứu cho thấy IL17 đóng vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của vảy nến, tăng cao nồng độ IL 17 trong máu, trong khớp và tại thương tổn da của bệnh nhân viêm khớp vảy nến và nồng độ IL17 tăng này có liên quan tới mức độ hoạt động của bệnh và thương tổn cấu trúc xương khớp[2], [3]. Một số nghiên cứu khác cho thấy có sự gia tăng số lượng tế bào sản xuất IL-17 được tìm thấy trong máu, khớp và thương tổn da của bệnh nhân viêm khớp vảy nến [4]. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng IL-17 kích thích các tế bào của màng hoạt dịch khớp sản xuất ra các hóa chất trung gian thu hút và hoạt hóa các tế bào đơn nhân, tế bào tua gai, Th17, và BCĐNTT sản xuất các cytokin và các hóa chất trung gian gây ra quá trình viêm ở khớp. Theo nghiên cứu của Menon B và cộng sự là nghiên cứu đầu tiên cho thấy dịch khớp của bệnh nhân viêm khớp vảy nến tăng IL-17+CD8+ T cell và có liên quan với mức độ nặng, độ hoạt động thương tổn khớp bao gồm nồng độ CRP, tốc độ máu lắng và điểm DAS28T [5]. Nghiên cứu pha 3 trên 606 bệnh nhân viêm khớp vảy nến ngẫu nhiên chia tỉ lệ 1:1:1 tiêm tĩnh mạch secukinumab liều 10mg/kg ở tuần 0,2 và tuần 4 sau đó tiêm dưới da liều 150mg hoặc 75 mg hoặc placebo mỗi 4 tuần. Bệnh nhân nhóm giả dược sẽ được tiêm thuốc ở tuần 16 hoặc 24 liều 150 mg hoặc 75 mg tùy đáp ứng lâm sàng. Kết quả cho thấy tỉ lệ đạt ACR20 ở tuần 24 cao hơn đáng kể ở nhóm bệnh nhân nhận liều secukinumab 150 mg(50,5%) và liều 75mg (50,5%) so với nhóm placebo (17,3%) . Đồng thời đáp ứng ACR50 và cải thiện thương tổn cấu trúc khớp nhiều hơn đáng kể ở nhóm tiêm thuốc so với nhóm giả dược [6]. Như vậy, điều trị bằng kháng thể đơn dòng từ người ức chế IL-17A cho thấy hiệu quả đáng kể đối với bệnh nhân viêm khớp vảy nến cho thấy vai trò quan trọng của IL-17A trong cơ chế bệnh sinh của viêm khớp vảy nến và chất ức chế interleukin này đang là chế phẩm sinh học được nghiên cứu và áp dụng để điều trị bệnh. 5. KẾT LUẬN - Nồng độ IL-17 trung bình trong máu bệnh nhân viêm khớp vảy nến cao hơn so với nhóm chứng, tuy nhiên sự thay đổi này không có ý nghĩa thống kê (p =0,25). - Không có sự khác biệt về nồng độ của IL-17 trong máu bệnh nhân viêm khớp vảy nến theo thời gian bị bệnh, độ tuổi và giới tính. DALIỄUHỌCSố26(Tháng08/2018) NGHIÊNCỨUKHOAHỌC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Gladman DD, A.C., Mease P, Clegg DO, Nash P (2005). Psoriatic arthritis: Epidemiology, clinical features, course, and outcome. Ann Rheum Dis; 64 (Suppl 2): ii14. 2. Jandus C, B.G., Rivals JP, Dudler J, Speiser D, Romero P. Increased numbers of circulating polyfunctional Th17 memory cells in patients with seronegative spondylarthritides. Arthritis Rheum 2008; 58:2307-17. . 3. Kagami S, R.H., Lee JJ, Koguchi Y, Blauvelt A. Circulating Th17, Th22, and Th1 cells are increased in psoriasis. J Invest Dermatol 2010;130:1373-83. 4. Raychaudhuri SP1, R.o.I.-i.p.a.p.a., Clin Rev Allergy Immunol. 2013 Apr;44(2):183-93. doi: 10.1007/s12016-012-8307-1 5. Menon B, G.N., Walter GJ, et al. Interleukin- 17+CD8+ T cells are enriched in the joints of patients with psoriatic arthritis and correlate with disease activity and joint damage progression. Arthritis Rheumatol 2014;66:1272-81. 6. Philip J. Mease , Secukinumab Inhibition of Interleukin-17A in Patients with Psoriatic Arthritis, n engl j med 373;14 nejm.org October 1, 2015 SUMMARY Background: Psoriatic arthritis (PsA) is dened as a special form of arthritis related to psoriasis.The disease aects not only s peripheral joints, connective tissues, axial skeleton with skin but also lesions and nails. Recently, it has shown that IL-17 plays an important role in the pathogenesis of PsA. The study showed an increase in the number of Th17 cells in the skin, synovial tissue and synovial uid of patients with PsA. Objective: to assess the change of serum IL-17A level in patient with PsA at National Hospital of Dermatology and Venereology from Oct/2015 to Mar 3/2016. Results: the level of IL-17A in PsA patients was higher than the control group, but the changes were not statistically signicant (p =0, 25). There was no dierence level between gender, age group and age onset (p>0, 05). Conclusion: The study plays a part in the evidences of the important role for interleukin-17A in the pathogenesis of PsA.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfsu_thay_doi_nong_do_interleukin_17_trong_mau_benh_nhan_viem.pdf
Tài liệu liên quan