Quản lý tập trung đất công ở từng
cấp chính quyền: Đất công có thể thuộc sở
hữu của chính quyền trung ương hoặc địa
phương. Nên xem một cấp chính quyền là
một pháp nhân công tách biệt, các cơ quan
có tính giúp việc của một cấp chính quyền
không phải là pháp nhân công. Ví dụ, một
bộ là cơ quan của Chính phủ, toàn bộ chính
quyền trung ương là một pháp nhân công,
song từng bộ không phải pháp nhân công
độc lập. Vì thế, nên chấm dứt việc cấp sổ đỏ
cho từng cơ quan nhà nước, ví dụ cho một
bộ. Đất công thuộc sở hữu của chính quyền
từng cấp phải được quản lý tập trung, thuộc
sở hữu của quốc gia (chính quyền TW) hoặc
địa phương (của một tỉnh, một đô thị, một
làng cụ thể). Về nguyên tắc toàn bộ quỹ đất
công của chính quyền trung ương hoặc quỹ
đất của các chính quyền đô thị hay các tỉnh
(tự trị địa phương) phải được giao cho những
cơ quan quản lý công sản quản lý tập trung
của từng cấp chính quyền. Cơ quan ấy được
ủy nhiệm thực thi các quyền của chủ sở hữu
công. Làm được như vậy sẽ hạn chế được
nguy cơ khai thác phân tán, ví dụ, các bộ đổi
đất lấy công trình một cách tương đối tràn
lan trong thời gian vừa qua (tư nhân tiếp
nhận và khai thác thương mại các lô đất ở
trung tâm để đổi lấy việc phát triển, xây
dựng, bàn giao các trụ sở mới cho cơ quan
nhà nước)
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 214 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sửa đổi luật đất đai để bảo vệ tốt hơn quyền tài sản của các chủ sử dụng đất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 2+3(402+403) - T1+2/202048 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
1. Sở hữu toàn dân về đất đai: Tiếp nhận
quan niệm và quá trình cụ thể hóa
Chế độ sở hữu đất đai trong cổ luật:
Tổ tiên chúng ta chắc rằng chưa biết đến
khái niệm sở hữu toàn dân. Sở hữu đất đai,
theo cổ luật Việt Nam, thường phân thành ba
loại: ruộng đất công (quân điền), ruộng đất
của làng (sở hữu cộng đồng) và ruộng đất tư
(sở hữu tư của cá nhân). Dù nặng về hình
luật, song cổ luật Việt Nam không thiếu
những hạt nhân được xem là nền móng cho
pháp luật sở hữu1. Truyền thống đa sở hữu
đất đai ấy tiếp diễn thời thuộc Pháp. Dân luật
Bắc Kỳ năm 1931 ghi nhận thực trạng sở
hữu đất đai thuộc cá nhân hoặc pháp nhân,
trong đó Nhà nước, làng xã là những pháp
SỬA ĐỔI LUẬT ĐẤT ĐAI ĐỂ BẢO VỆ TỐT HƠN
QUYỀN TÀI SẢN CỦA CÁC CHỦ SỬ DỤNG ĐẤT
Phạm Duy Nghĩa*
*PGS.TS. Đại học Fulbright Việt Nam, Trọng tài viên Trung taam Trọng tài Quốc tế Việt Nam.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Luật Đất đai; quyền tài sản;
chủ sử dụng đất; chế độ sở hữu đất đai
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 07/01/2020
Biên tập : 12/01/2020
Duyệt bài : 15/01/2020
Article Infomation:
Keywords: Law on Land; rights of
properties; land owners; ownership
regime of land.
Article History:
Received : 07 Jan. 2020
Edited : 12 Jan. 2020
Approved : 15 Jan. 2020
Tóm tắt:
Luật Đất đai năm 2013 đang được xem xét sửa đổi. Bài viết
dưới đây nhìn lại quá trình du nhập và quá trình các nhà làm
luật nước ta từng bước cụ thể hóa quan niệm sở hữu toàn dân
về đất đai; chỉ ra những điều chưa rõ ràng của chế độ sở hữu
và đưa ra một vài gợi ý chính sách-pháp luật có thể cần được
xem xét trong thời gian tới.
Abstract:
The Law on Land of 2013 is under amendments. The article
below provides reviews of the process of introduction and the
process of lawmakers in our country step by step concretized
the concept of land ownership by the entire people; points out
the unclearities of the ownership regime and provides a
number of policy and legal aspects which may need to be
reviewed in coming time.
1 Quốc Triều Hình Luật chứa đựng vô số hạt nhân của Luật sở hữu, các điều này đã được ông Vũ Văn Mẫu
và học trò là Tạ Văn Tài bàn luận khá nhiều trong tác phẩm The Le Code: Law in Traditional Vietnam,
Harvard University Press 1988.
49Số 2+3(402+403) - T1+2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
nhân công. Về đại thể, sở hữu đất đai hình
thành một cách tự nhiên, đất đai có thể thuộc
sở hữu tư hoặc của nhà nước. Trong đó, theo
định nghĩa của Dân luật năm 1931, Nhà
nước là một khái niệm cụ thể, bao gồm
những pháp nhân công có tư cách độc lập,
chí ít gồm chính quyền trung ương, các
chính quyền địa phương và làng xã tự trị, tự
quản2. Mỗi một cấp chính quyền được xem
là một pháp nhân công. Cũng như vậy, hệ
thống đăng ký điền địa đã có mầm mống từ
cổ xưa. Từ năm 1925, chúng được chế độ
thực dân quy chuẩn thành một hệ thống bằng
khoán điền thổ hiện đại, thống nhất3. Tóm
lại, từ Quốc triều hình luật tới Dân luật Bắc
Kỳ năm 1931, pháp luật Việt Nam đã để lại
một di sản pháp luật sở hữu về đất đai, tuy
không tinh xảo, khái quát, và cao siêu như
Vật quyền của người La-Mã, song cũng đủ
minh định rõ ràng ai là chủ nhân của hàng
trăm triệu ô thửa đất kiến tạo nên lãnh thổ
quốc gia. Tiếc rằng, nửa thế kỷ qua không
mấy ai vun vén thêm cho những di sản quý
báu đó. Để xây lại nền móng vững chắc cho
chế độ sở hữu đất đai trong tương lai, ngoài
thảo luận thẳng thắn và tiếp thu kinh nghiệm
lập pháp tiên tiến nước ngoài, chúng ta cũng
nên học lại từ những mảnh vỡ của quá khứ.
Tiếp nhận sở hữu toàn dân: Sở hữu
toàn dân xuất hiện lần đầu tiên trong Hiến
pháp Liên Xô năm 1936. Khái niệm này
được phát triển trong thời đại Stalin hơn là
bắt nguồn trực tiếp từ các tác phẩm kinh điển
của Karl Marx4. Sau năm 1945, thực tế sử
dụng đất đai ở Việt Nam chứng kiến nhiều
biến động. Bản Hiến pháp năm 1946 chưa
có quy định về sở hữu toàn dân. Mãi tới năm
1959, khái niệm này mới được du nhập.
Hiến pháp năm 1959 tuyên bố “các hầm mỏ,
sông ngòi, rừng cây và đất hoang là của nhà
nước, thuộc sở hữu nhà nước tức là sở hữu
toàn dân”5. Lưu ý, với cách hành văn này
của Hiến pháp năm 1959, sở hữu toàn dân
đồng nghĩa với sở hữu nhà nước, tức là sở
hữu của chính quyền. Sau đó, Hiến pháp
năm 1980 mới tuyên bố đất đai thuộc sở hữu
toàn dân6. Điều thú vị là, như ông Nguyễn
Đình Lộc thuật lại, khi thông qua bản Hiến
pháp này nhiều đại biểu Quốc hội thời đó
vẫn nghĩ rằng “đất đai thuộc sở hữu toàn
dân nghĩa là mỗi người có một mảnh đất, khi
giơ tay thông qua bản Hiến pháp năm 1980
họ không hiểu rằng tuyên bố sở hữu toàn
dân về đất đai tức là đồng nghĩa với quốc
hữu hóa đất đai”7.
2 Xem Điều 284 Dân luật Bắc Kỳ năm 1931.
3 Xem thêm Nguyễn Ngọc Điện, Mối quan hệ giữa đăng ký bất động sản và xác lập quyền sở hữu bất động
sản, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, có thể tải về từ: www.lapphap.vn.
4 Khái niệm sở hữu toàn dân xuất hiện một cách hệ thống từ Hiến pháp Liên bang Xô Viết 1936. Điều 5 Hiến
pháp 1936 Liên Xô quy định, sở hữu nhà nước tức là sở hữu toàn dân. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng
Sản 1848, Karl Marx chỉ dùng khái niệm “gesellschaftliches Eigentum” tức là sở hữu xã hội, không sử dụng
khái niệm Volkseigentum, tức là sở hữu toàn dân.
5 Xem Điều 11, 12 Hiến pháp 1959 của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
6 Xem Điều 19 HP 1980 CHXHCN Việt Nam. Cách hành văn của Điều này vay mượn hầu như nguyên vẹn
Điều 11 Hiến pháp 1977 của Liên Xô.
7 Nhìn lại sự kiện này, ông Nguyễn Đình Lộc nhận định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân là một khái niệm
tiếp thu từ Hiến pháp Liên Xô. Nhưng nếu như sau Cách mạng Tháng 10, việc quốc hữu hoá đất đai của
Liên Xô là để nhắm vào giai cấp quý tộc vì khi đó ruộng đất đang ở trong tay giai cấp này. Thì, ở thời điểm
1980, đất đai của ta chủ yếu đã về tay nông dân. Không phải quý tộc hay địa chủ, chính nông dân nhận lãnh
hậu quả của các chính sách đó”. Xem Tinh thần Hiến pháp, Báo SGTT, 24/09/2007. Đọc thêm Phạm Văn
Võ, Chế độ pháp lý về sở hữu và quyền tài sản đối với đất đai, Nxb. Lao Động 2012.
Số 2+3(402+403) - T1+2/202050 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
8 Ngoài Trung Quốc, Việt Nam, Đài Loan cũng quy định trong Điều 143 Hiến pháp của họ rằng đất đai thuộc
sở hữu toàn dân: “All land within the territory of the Republic of China shall belong to the whole body of
citizens”. Tuy nhiên, sau câu này, các câu tiếp theo trong cùng điều luật đó lại nhấn mạnh quyền tư hữu của
các chủ đất.
9 Xem các Điều 200, 201 BLDS năm 2005.
10 Xem các Điều 107-204 BLDS năm 2015.
11 Tham khảo: Luật Vật quyền của CHND Trung Hoa ban hành ngày 16/03/2007. Chương 5 (Các Điều 45-69)
của đạo luật này có tên gọi: Sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân. Sở hữu toàn dân không
xuất hiện ở tên chương, mà chỉ xuất hiện như một chú dẫn ở Điều 45 như đã trích.
Đằng sau sở hữu toàn dân là sở hữu
nhà nước: Thực ra “sở hữu toàn dân” trên
hết là một khái niệm chính trị8. Khái niệm
này rất khó dùng như một định nghĩa pháp
lý trong điều chỉnh pháp luật và các giao
dịch pháp luật. Giới luật học XHCN trước
đây đã cố gắng diễn giải sở hữu toàn dân
đồng nghĩa với “sở hữu nhà nước”. Thông
qua những thủ thuật rắc rối, ví dụ đưa ra các
thuật ngữ rất khó phân tách như chế độ sở
hữu và hình thức sở hữu, Bộ luật Dân sự
(BLDS) năm 2005 của Việt Nam trên thực
tế tìm cách làm mờ dần “chế độ sở hữu toàn
dân”, biến nó thành khái niệm chung, rồi từ
đó cụ thể hóa dần qua các đạo luật và văn
bản dưới luật9. Tiếp đến, Bộ Luật dân sự
năm 2015 (BLDS năm 2015) có 8 Điều quy
định về sở hữu toàn dân như một hình thức
sở hữu10. Các loại tài sản thuộc sở hữu toàn
dân được Điều 197 BLDS năm 2015 định
nghĩa là “tài sản công thuộc sở hữu toàn dân
do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống
nhất quản lý”. Như vậy, có 2 tiêu chí nhận
diện sở hữu toàn dân: (i) đó là các công sản,
(ii) do Nhà nước thực hiện các quyền sở hữu.
Nếu so sánh với BLDS năm 2005, có thể kết
luận rằng 8 Điều của BLDS năm 2015 thực
sự không mới, không rõ ràng gì hơn so với
các quy định đã có trước đây. So sánh với
pháp luật Trung Quốc, sau hơn một thập kỷ
tranh luận dữ dội, một đạo luật về Vật quyền
được ban hành năm 2007, Điều 45 của đạo
luật này có tên gọi là sở hữu nhà nước, song
cũng chỉ dẫn chiếu vỏn vẹn có một ý “sở hữu
nhà nước, tức là sở hữu toàn dân”11. Tựu
chung lại, gần một thế kỷ từ khi được đưa
vào sử dụng cho đến nay, qua hai BLDS năm
2005 và 2015, “sở hữu toàn dân” vẫn là một
khái niệm chính trị hơn là khái niệm pháp
lý, gây khó khăn đáng kể trong thực tiễn
pháp lý, bởi người ta luôn phải truy tìm ai
(hoặc những ai) chính là người chủ đích
thực của khối tài sản khổng lồ được coi là
“sở hữu toàn dân”. Ghi nhận đất đai hay
doanh nghiệp nhà nước (DNNN) thuộc sở
hữu toàn dân, song Hiến pháp và pháp luật
hiện hành luôn phải tìm cách cụ thể hóa, quy
định rõ ai là (những) người chủ đích thực
trên hàng triệu mảnh đất hoặc là chủ đích
thực của phần vốn Nhà nước đầu tư trong
hàng ngàn DNNN.
2. Những quyền tài sản tư xuất hiện dưới
khái niệm sở hữu toàn dân
Quyền sử dụng đất (QSDĐ): Sau khi
ban hành Hiến pháp năm 1980, các rắc rối
dần xuất hiện trong chế độ quản lý đất đai.
Nhà nước tuy tự nhận là đại diện chủ sở hữu
duy nhất, song không thể trực tiếp sử dụng
và khai thác hàng trăm triệu ô thửa đất lớn
nhỏ trên quốc gia này. Ban đầu Nhà nước
cấm mua bán đất đai, mọi chuyển nhượng
cần được Nhà nước chấp thuận như một hình
thức phân phối hàng hóa. Sau năm 1986, cụ
thể là từ năm 1993, Nhà nước từng bước trao
lại các quyền ngày càng rộng rãi hơn cho các
51Số 2+3(402+403) - T1+2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
cá nhân và tổ chức đang sử dụng những ô
thửa đất của mình. Tuy không có quyền sở
hữu tư nhân tuyệt đối, song chủ nhân của
hàng trăm triệu ô thửa đất ở Việt Nam ngày
càng được hưởng nhiều quyền tài sản trên
đất/hoặc gắn liền với đất, nới rộng dần qua
các lần sửa đổi Luật Đất đai. Ngoại trừ nông
dân với đất nông nghiệp và người thuê đất
trả tiền thuê hàng năm có quyền tài sản
tương đối hạn chế, chủ nhân của QSD các
loại đất khác đã có hàng chục quyền tài sản
có tính chất loại trừ chẳng khác gì tài sản tư
nhân12. QSDĐ ở đô thị mang lại cho người
chủ của nó những quyền lợi chẳng khác gì
đất tư ở các quốc gia tư bản. Thậm chí, trong
bối cảnh quản lý nhà nước còn yếu kém, hệ
thống đăng ký bất động sản còn phân tán,
những người thâu gom đất chưa bị đánh thuế
tài sản đáng kể, người giàu bởi tích tụ đất đai
đã không phải chịu thuế đáng kể cho nền tài
chính công quốc gia. Như vậy, trên thực tế,
quan niệm “sở hữu toàn dân” về đất đai, nếu
không được cụ thể hóa bằng những chính
sách-pháp luật quản lý chặt chẽ, có nguy cơ
trở nên trống rỗng. Quan niệm “sở hữu nhà
nước” về đất đai cũng chưa chắc tạo ra thực
quyền cho Nhà nước, bởi các quyền tài sản
mang tính tư hữu gắn với nhiều loại đất đã
được trao cho cá nhân/tổ chức đang chiếm
hữu. Như đười ươi giữ ống, một khi đã trao
cho tư nhân và không còn là đất công, Nhà
nước muốn thu hồi lại các quyền tài sản tư
ấy cũng phải kinh qua những thủ tục tốn kém
và nhiêu khê. Để minh chứng, chi phí đền bù
giải tỏa để phát triển hạ tầng và chỉnh trang
các đô thị đã làm cho chi phí cho mỗi mét
đường của Việt Nam đôi khi lên tới 3,5 tỷ
đồng, như báo chí đưa tin thuộc loại “đắt đỏ
bậc nhất hành tinh”13. Tại các đô thị, việc tìm
được một lô đất trống cho các mục đích giáo
dục, văn hóa, xã hội, ví dụ để mở các trường
mẫu giáo, đã trở nên rất khó khăn.
QSD đất nông nghiệp của các nông
hộ: Trong khi QSD các loại đất khác được
đối xử như quyền tài sản tư, được bảo hộ lâu
dài, việc thu hồi tốn kém và khó khăn, người
nông dân chỉ có thực quyền canh tác và
hưởng hoa lợi nếu có, còn các quyền định
đoạt thương mại khác bị hạn chế một cách
đáng kể (quyền chuyển nhượng, thế chấp,
chuyển đổi mục đích sử dụng). Luật Đất đai
năm 2013 dù đã tăng cường đáng kể quyền
được biết, được tham gia của người dân khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, song hạn
điền, căn cứ bồi thường và nhiều hạn chế
khác vẫn tiếp tục được áp dụng với đất nông
nghiệp. Phần lớn phúc lợi trong chuyển đổi
mục đích sử dụng đất đai đã không đến được
với người nông dân. Đó là một thực tế phổ
biến đã diễn ra trong vài chục năm qua.
Phân phối đất đai: Vẫn giữ quyền
phân phối thông qua giao đất hoặc cho thuê
đất, thường không thông qua một trình tự
cạnh tranh hoặc đấu giá minh bạch. Trên
thực tế, Nhà nước duy trì một chính sách
phân biệt đối xử giữa tổ chức được giao đất,
nhà đầu tư nước ngoài thuê đất và doanh
nghiệp Việt Nam thuê đất. Trong đó, nếu
không có quan hệ thân hữu, doanh nghiệp
trong nước được đối xử kém bình đẳng hơn
so với doanh nghiệp FDI14. Về nguyên tắc,
12 Xem thêm các Điều 105, 106, 111 LĐĐ năm 2003, 120-142 LĐĐ năm 2013.
13
biet2017 0620101122156.chn.
14 Đối chiếu các Điều 111 và 120.2.c LĐĐ năm 2003. Doanh nghiệp FDI được ưu đãi đầu tư phổ biến bằng
miễn và giảm tiền thuê đất, giá thuê được tính ổn định, trong khi đó DN trong nước không được hưởng các
ưu đãi này.
Số 2+3(402+403) - T1+2/202052 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
nếu DN thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm,
quyền của DN đối với QSDĐ khá hạn chế,
không bao gồm các quyền chuyển nhượng,
thế chấp, bảo lãnh hay góp vốn bằng QSDĐ
đã được thuê. DN thuê đất trả tiền thuê đất
hàng năm chỉ có những quyền tài sản đối với
công trình xây dựng, nhà xưởng hoặc các tài
sản tư hữu khác gắn liền với đất đã được
thuê. Chế độ pháp lý phiền nhiễu này phản
ánh một thực tiễn, phân phối đất đai có
truyền thống từ nền kinh tế kế hoạch trước
đây, cần có thời gian để chuyển đổi sang chế
độ thuê đất áp dụng chung cho mọi loại hình
DN. Để minh chứng thêm, tuyệt đại đa số
các gói thầu theo hình thức đổi đất lấy công
trình (BT) hoặc BOT, phát triển hạ tầng và
nhận được quyền phát triển các quỹ đất, đều
được chỉ định không qua đấu thầu cạnh
tranh15. Nói cách khác, trong phân phối
nguồn lực đất đai, Nhà nước vẫn dựa trên
quán tính cũ của nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung, chưa áp dụng nguyên tắc của nền
kinh tế thị trường.
Quyền điều tiết của Nhà nước: Cho
dù QSD đất với hầu hết các chủ sử dụng, trừ
nông dân đối với đất nông nghiệp, như đã
trình bày ở trên, đã ngày càng trở thành tài
sản tư có giá, song quyền tài sản có tính chất
tư này trên thực tế chưa được bảo hộ mạnh
mẽ và nhất quán. Điều này có lý do bởi Nhà
nước vẫn bảo lưu những quyền can thiệp
mạnh mẽ vào quá trình sử dụng đất. Luật
Đất đai năm 2003 (LĐĐ năm 2003) ghi nhận
06 quyền định đoạt của Nhà nước đối với đất
đai, bao gồm: ấn định mục đích sử dụng cho
các ô, thửa đất thông qua quy hoạch; quyết
định chuyển đổi mục đích sử dụng đất; quyết
định giao đất, cho thuê đất; thu hồi đất đã
giao hoặc cho thuê; ấn định các hạn chế về
thời gian và hạn mức đối với việc giao đất
hoặc cho thuê đất; định giá đất16. LĐĐ năm
2013 tiếp tục ghi nhận lại các quyền này.
Nếu các hành vi can thiệp này không bị giám
sát chặt chẽ, quy hoạch treo, quyết định thu
hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng là những
hành vi hành chính ngay lập tức có thể tác
động đáng kể đến địa tô và các giao dịch nhà
đất liên quan. Đúng là quyền sở hữu đất đai
ở quốc gia nào cũng không thể tuyệt đối,
nhưng sự can thiệp của nhà nước vào quyền
sở hữu này phải minh bạch, có thể tiên liệu
được, dự báo trước được, và phải bị giám sát
chặt chẽ. Ở nước ta, Nhà nước có quyền định
đoạt cuối cùng đối với đất đai và Nhà nước
có quyền buộc các chủ sử dụng đất có nghĩa
vụ chấp hành các mệnh lệnh thu hồi đất.
Trong ngôn ngữ hành chính xuất hiện cách
dùng từ xem thường người sử dụng đất hiện
hữu, ví dụ “thu hồi đất, giải tỏa mặt bằng,
cưỡng chế”, tựa như họ là chướng ngại vật
của các dự án phát triển đất đai. Thiếu một
quan niệm sở hữu tư nhân mạch lạc về đất
đai đã tạo cho Nhà nước một quyền định
đoạt đáng kể. Nguồn gốc của mọi bất công
về phúc lợi trong khai thác và hưởng dụng
đất trong ba chục năm qua, suy cho cùng, đã
bắt đầu từ quyền tài sản dễ bị tổn thương của
người dân, nhất là nông dân với đất nông
nghiệp, và quyền lực chưa bị kiểm soát một
cách chặt chẽ của nhà nước khi Nhà nước
tiến hành phân phối đất đai thông qua các
mệnh lệnh hành chính.
Phân tán thực thi quyền định đoạt
của Nhà nước với đất đai: Nhà nước là một
15 https://baodauthau.vn/dau-thau/chan-chi-dinh-thau-du-an-do-nha-dau-tu-de-xuat-72424.html.
16 So sánh Điều 5.2 Luật đất đai năm 2003 với các Điều 13-21 Luật Đất đai năm 2013.
53Số 2+3(402+403) - T1+2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
khái niệm trừu tượng. Người dân cảm nhận
được Nhà nước thông qua từng hành vi cụ
thể của công chức trong bộ máy công quyền.
Không chỉ có nền hành chính, hàng chục vạn
tổ chức lớn nhỏ trong hệ thống chính trị ở
nước ta đều có quyền tham gia vào quá trình
định đoạt đất đai một cách phân tán từ trên
xuống dưới. Trong số đó, quan trọng bậc
nhất đối với giá trị đất đai là xác định mục
đích sử dụng thông qua quy hoạch, chuyển
đổi mục đích sử dụng (từ đất nông nghiệp
sang đất ở hoặc đất kinh doanh) các quyết
định thu hồi và ấn định giá đất. Quyền quy
hoạch được phân bổ cho Quốc hội, Chính
phủ, UBND cấp tỉnh và UBND cấp huyện
tùy theo loại quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất. Quyền chuyển đổi mục đích sử dụng và
thu hồi đất được phân cấp xuống UBND cấp
tỉnh và huyện tùy theo đối tượng người sử
dụng đất bị thu hồi. Lý do để Nhà nước thu
hồi đất được duy trì rộng rãi, bao gồm các
mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc
gia, lợi ích cộng đồng, phát triển kinh tế. Khi
Nhà nước có quyết định thu hồi đất, người
sử dụng đất có nghĩa vụ giao lại đất cho Nhà
nước. Như vậy, nhiều cơ quan nhà nước,
thậm chí cơ quan trong hệ thống chính trị,
cùng chia sẻ những quyền định đoạt đáng kể
đối với đất đai.
Chế độ quyền tài sản đa tầng trên
đất: BLDS năm 2015, ngoài việc ghi nhận
QSD đất là quyền tài sản tại Điều 115, đã mở
đường cho việc ghi nhận các quyền khác gắn
liền với đất hoặc phái sinh từ đất, ví dụ
quyền đối với BĐS liền kề (từ Điều 245 đến
Điều 256), quyền hưởng dụng (từ Điều 257
đến Điều 266), quyền bề mặt (từ Điều 267
đến Điều 273). Việc sửa đổi Luật Đất đai
buộc phải tuân theo xu thế công nhận các
quyền tài sản có tính loại trừ này, đồng nghĩa
với việc giới hạn và giám sát chặt chẽ hơn
quyền định đoạt về đất đai của Nhà nước.
3. Định hướng tăng cường bảo vệ tốt hơn
QSD đất của các chủ đất
kinh nghiệm Trung Quốc: Người
Trung Quốc đã tự tin quay trở lại với truyền
thống dân luật. Đạo luật về Vật quyền năm
2007 với 247 Điều nhắc lại các nguyên lý
căn bản của Dân luật Trung Quốc đã được
ban hành từ những năm 1925. “Sở hữu toàn
dân” chìm nghỉm như một chú thích mờ nhạt
trong Điều 45 của Luật Vật quyền Trung
Quốc. Trên thực tế, ở Trung Quốc, đất đai
thuộc sở hữu của Nhà nước, được hiểu là
chính quyền trung ương hoặc chính quyền
địa phương, sở hữu tập thể của các làng xã
và hương thôn có quyền tự trị khá cao. Một
làng có thể là chủ sở hữu của các ô thửa đất
thuộc làng đó, nhiều làng đã tổ chức khai
thác hưởng dụng đất chẳng khác các công ty
cổ phần, mang lại lợi ích cho toàn bộ dân
chúng có hộ khẩu trong làng ấy17. Quyền sử
dụng các ô thửa đất là các vật quyền được
Nhà nước đăng ký, bảo hộ chặt chẽ. Trung
Quốc cũng tuyên bố hạn chế nghiêm ngặt
việc chuyển đất nông nghiệp thành đất ở đô
thị và tuyên bố thực hiện giám sát khắt khe
quy trình này18.
Nên tăng bảo hộ quyền tài sản của
từng chủ đất: Bước ngoặt về chính sách ở
Việt Nam, nếu có, theo tôi phải nhận diện
thật đầy đủ các rủi ro ẩn chứa đằng sau khái
17 Saich, Anthony, and Biliang Hu. Chinese Village, Global Market: New Collectives and Rural Development:
China in Transformation. Palgrave Macmillan, 2012.
18 Điều 43 Luật Vật quyền Trung Quốc 2007.
Số 2+3(402+403) - T1+2/202054 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
niệm “sở hữu toàn dân”. Xét về quyền năng
khai thác, hưởng dụng và định đoạt, trên
thực tế hàng triệu mảnh đất ở Việt Nam đã
được sở hữu không khác các tài sản tư, dấu
hiệu đa sở hữu về quyền tài sản liên quan
đến đất đai là một thực tế khó có thể đảo
ngược. Nếu mạnh dạn chấp nhận thực tế đó,
cần tìm cách lùi dần khỏi “sở hữu toàn dân”
mà quay trở về với truyền thống đa sở hữu
đối với đất đai. Dù không còn nắm sở hữu
về đất đai, với tư cách là quyền lực công
cộng, Nhà nước luôn giữ nhiều công cụ
chính sách để phân phối phúc lợi khai thác
và hưởng dụng đất đai. Vì những lý do chính
trị, chắc rằng không thể bỏ được “sở hữu
toàn dân”, cho nên về mặt pháp lý chiến lược
phù hợp nhất là nâng khái niệm này thành
một quan niệm chính trị. Sau đó, bằng các
kỹ thuật pháp lý, cụ thể hóa khái niệm chính
trị “sở hữu toàn dân” bằng các công cụ thực
tế, mạch lạc hơn hơn, ví dụ:
Tiếp theo việc xác định QSD đất là
quyền tài sản của chủ đất như đã được quy
định tại Điều 115 BLDS năm 2015, về định
hướng phải sửa đổi Luật Đất đai theo hướng
bảo hộ tốt hơn các quyền tài sản có tính loại
trừ của chủ sử dụng đất,
Nhất quán với nguyên tắc chung đã
được xác định tại Điều 115 của BLDS năm
2015, Luật Đất đai nên phân tách QSD đất
thành hai loại: thứ nhất, QSD đất thuộc khối
công sản theo Điều 197 BLDS, tức là đất
công; thứ hai, QSD đất thuộc quyền tài sản
của các cá nhân, tổ chức, tức là đất tư;
Sau khi phân tách QSD đất công và
đất tư, (khái niệm đất công đã được sử dụng
ở một số văn bản pháp luật, song chưa hề sử
dụng khái niệm đất tư), Luật Đất đai (sửa
đổi) nên tiếp tục phát triển các quyền tài sản
cụ thể phái sinh từ hai loại đất này dựa trên
các quyền tài sản đã được quy định tại
BLDS năm 2015;
QSD đất công lại có thể tiếp tục được
phân tách mạch lạc thành đất công thuộc
công sản của chính quyền trung ương và đất
công thuộc công sản của chính quyền các địa
phương. Ví dụ, công sản của các tỉnh, của
các chính quyền đô thị, các xã; các pháp
nhân công đó được tự do định đoạt khối
công sản thuộc sở hữu của mình tuân theo
các nguyên tắc của tự chủ ngân sách, tự quản
địa phương;
Ghi nhận hiện trạng sở hữu đa tầng về
QSD đất và điều tiết chặt chẽ các quyền tài
sản phái sinh trên đất, có thể cần lưu ý rằng
các vật quyền không thể được các chủ thể
thỏa thuận qua khế ước, mà phải được pháp
luật quy định (defined by law) thì mới có
hiệu lực (ví dụ, các quyền liên quan đến biệt
thự nghỉ dưỡng, các sản phẩm bất động sản
được gọi là officetel, vừa là căn hộ để nghỉ,
vừa là văn phòng, tất cả các sản phẩm này
chỉ được công nhận và bảo hộ, nếu đã được
quy định bởi pháp luật), QSD đất là một vật
quyền do Nhà nước quy định, không nên để
các bên tự do thỏa thuận;
Công nhận và bảo hộ một cách chắc
chắn hơn quyền tài sản của chủ sử dụng đất
tư, xem đó là vật quyền vĩnh viễn, được Nhà
nước cam kết bảo hộ lâu dài. Nhà nước
không thể thu hồi, mà chỉ có thể trưng mua,
trưng dụng QSD đất tư tuân thủ theo các quy
trình pháp lý chặt chẽ. Như vậy, quy định
Nhà nước có quyền thu hồi đất phải được thu
hẹp rất đáng kể, Nhà nước chỉ có quyền thu
hồi đất công đã cấp, cho thuê hoặc xung
công QSD đất tư trong những tình huống rất
hạn chế. Về đại thể, nếu đã công nhận QSD
đất tư là quyền tài sản vĩnh viễn của các chủ
sử dụng đất, thì Nhà nước không có quyền
thu hồi các quyền tài sản này.
55Số 2+3(402+403) - T1+2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
Như vậy, phải sửa Luật Đất đai theo
hướng, Nhà nước không còn quyền thu hồi
đất đối với đất tư, nếu muốn sử dụng đất tư
của các tổ chức và cá nhân thì Nhà nước
phải tuân thủ các quy định về trưng mua,
trưng dụng
QSD đất nông nghiệp: Luật Đất đai
năm 2013 đã kéo dài thời gian giao đất cho
nông dân từ 20 năm tới 50 năm. Đây là một
tiến bộ, song vẫn thể hiện sự thiếu công
bằng với nông dân. Vì sao các nhà tư bản có
thể được cho thuê đất tới 70 năm (trong các
đặc khu kinh tế đã từng có dự kiến kéo dài
tới 99 năm) trong khi nông dân không được
hưởng một cam kết như thế. Cũng như vậy,
vì sao QSD đất ở là tài sản lâu dài, vô hạn
định, còn quyền tài sản của nông dân đối với
đất nông nghiệp lại bị hạn chế về hạn điền
(quy mô), phạm vi quyền, và thời gian (50
năm). Khó có lý giải thỏa đáng cho sự phân
biệt đối xử này.
Đất công phải có chủ rõ ràng: Tùy
theo pháp luật các nước, bờ biển, thềm lục
địa, vùng trời, rừng tự nhiên, sông suối,
nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, các
dải đất ven sông có thể được tuyên bố là
tài sản quốc gia, bị cấm hoặc giám sát cực
kỳ chặt chẽ việc chuyển nhượng chúng19. Bờ
biển, các nguồn nước của Việt Nam hiện đã
bị chia cắt bởi vô số các tổ chức và doanh
nghiệp, được khai thác vì lợi ích các tổ chức
đó, có nghĩa là vì lợi ích tư nhân. Hiến pháp
năm năm 2013 và sau đó là BLDS năm 2015
chỉ quy định về sở hữu toàn dân, mà không
phân tách sở hữu quốc gia và sở hữu của
chính quyền địa phương. Đồng thời, với xu
thế ghi nhận tự chủ ngân sách, tự quản địa
phương, đã đến lúc cần thảo luận và ghi
nhận quyền sở hữu công sản một cách tách
biệt của chính quyền các địa phương.
Quản lý tập trung đất công ở từng
cấp chính quyền: Đất công có thể thuộc sở
hữu của chính quyền trung ương hoặc địa
phương. Nên xem một cấp chính quyền là
một pháp nhân công tách biệt, các cơ quan
có tính giúp việc của một cấp chính quyền
không phải là pháp nhân công. Ví dụ, một
bộ là cơ quan của Chính phủ, toàn bộ chính
quyền trung ương là một pháp nhân công,
song từng bộ không phải pháp nhân công
độc lập. Vì thế, nên chấm dứt việc cấp sổ đỏ
cho từng cơ quan nhà nước, ví dụ cho một
bộ. Đất công thuộc sở hữu của chính quyền
từng cấp phải được quản lý tập trung, thuộc
sở hữu của quốc gia (chính quyền TW) hoặc
địa phương (của một tỉnh, một đô thị, một
làng cụ thể). Về nguyên tắc toàn bộ quỹ đất
công của chính quyền trung ương hoặc quỹ
đất của các chính quyền đô thị hay các tỉnh
(tự trị địa phương) phải được giao cho những
cơ quan quản lý công sản quản lý tập trung
của từng cấp chính quyền. Cơ quan ấy được
ủy nhiệm thực thi các quyền của chủ sở hữu
công. Làm được như vậy sẽ hạn chế được
nguy cơ khai thác phân tán, ví dụ, các bộ đổi
đất lấy công trình một cách tương đối tràn
lan trong thời gian vừa qua (tư nhân tiếp
nhận và khai thác thương mại các lô đất ở
trung tâm để đổi lấy việc phát triển, xây
dựng, bàn giao các trụ sở mới cho cơ quan
nhà nước)n
19 Xem thêm: J Gordley, A.T. von Mehren, An Introduction to the Comparative Study of Private Law,
Cambrigde University Press, 2009, tr.157-167.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- sua_doi_luat_dat_dai_de_bao_ve_tot_hon_quyen_tai_san_cua_cac.pdf