Giai đoạn hồi phục:
+ Giai đoạn này chủ yếu là bù nước-điện giải bằng
truyền tĩnh mạch các dung dịch đẳng trương: glucoza
5%, natri clorua 0,9%, ringer lactat.
+ Vẫn phải hạn chế tăng kali máu và tăng urê máu
bằng chế độ ăn và thuốc.
+ Khi nồng độ urê máu về bình thường thì phải
cho ăn đủ đạm và vitamin.
+ Tiếp tục điều trị bệnh chính và các biến chứng khác.
+ Thăm dò mức lọc cầu thận và chức năng ống
thận để đánh giá mức độ hồi phục chức năng thận
sau một vài tháng.
Tiên lượng.
Người ta khó đưa ra được một tiên lượng chung
cho các bệnh nhân bị suy thận cấp vì phụ thuộc vào
nguyên nhân bệnh; mức độ tổn thương mô bệnh học;
mức độ và thời gian thiểu niệu hoặc vô niệu; phương
pháp điều trị; các biến chứng. Theo Hamburger, khi
chưa có thận nhân tạo thì tỉ lệ tử vong chiếm 71% số
bệnh nhân suy thận cấp; từ khi có thận nhân tạo thì
tỉ lệ tử vong chỉ còn 10,5% tổng số bệnh nhân. Tiên
lượng mức độ nặng của suy thận cấp có thể dựa vào:
+ Những nguyên nhân có tỉ lệ tử vong cao: phẫu
thuật lớn, chấn thương, bỏng rộng và sâu, viêm tuỵ
cấp, nhiễm khuẩn huyết.
+ Thời gian vô niệu và tốc độ tiến triển của các
triệu chứng suy thận cấp là một yếu tố giúp cho tiên
lượng: vô niệu kéo dài; tốc độ tăng urê, tăng creatinin
máu nhanh thì có tiên lượng xấu.
+ Các biến chứng: nếu có biến chứng thì làm xấu
thêm tiên lượng (như nhiễm khuẩn thứ phát, tăng
kali máu, phù phổi cấp.).
+ Tiên lượng còn phụ thuộc vào chẩn đoán sớm hay
muộn, phương pháp điều trị và chăm sóc đúng hay sai.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 19 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Suy thận cấp trong thai kỳ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lê Thị Thu hàTỔNG QUAN
Tập 12, số 01
Tháng 4-2014
Tạp chí Phụ Sản
12
Tác giả liên hệ (Corresponding author): Lê Thị Thu Hà, email: tmv_thuha@yahoo.com
Ngày nhận bài (received): 19/02/2014. Ngày phản biện đánh giá bài báo (revised): 10/03/2014. Ngày bài báo được chấp nhận đăng (accepted): 11/03/2014
1. Đại cương
Suy thận cấp là hội chứng suy giảm hoặc mất
chức năng tạm thời, cấp tính của cả 2 thận, làm
ngừng hoặc suy giảm nhanh chóng độ lọc cầu thận
dẫn tới thiểu niệu hoặc vô niệu, nitơ phi protein trong
máu tăng, rối loạn cân bằng nước-điện giải, rối loạn
cân bằng kiềm-toan...Sau một thời gian từ vài ngày
đến vài tuần, khi nguyên nhân gây tổn thương thận
được loại trừ, chức năng thận có thể dần dần phục
hồi trở lại bình thường hoặc gần bình thường. Tuy
nhiên, trong thời gian thận mất chức năng, bệnh
nhân có thể chết vì các biến loạn nội môi. Lọc máu và
các phương pháp điều trị bảo tồn sẽ giúp điều chỉnh
các rối loạn này, bảo vệ bệnh nhân đến khi chức năng
thận hồi phục hoàn toàn [1].
Như vậy suy thận cấp có một số đặc điểm sau:
- Đặc điểm lâm sàng của suy thận cấp là thiểu niệu
hoặc vô niệu kéo dài, trung bình từ 1-3 tuần, đôi khi
dài hơn, dẫn tới tình trạng tăng nitơ phi protein trong
máu cấp tính, rối loạn cân bằng nước-điện giải và rối
loạn cân bằng kiềm-toan...
- Suy thận cấp có tỉ lệ tử vong cao, nhưng nếu được
chẩn đoán và điều trị kịp thời thì chức năng thận có
thể phục hồi hoàn toàn hoặc gần hoàn toàn. Hiện nay
phương pháp điều trị hữu hiệu nhất là lọc máu bằng
thận nhân tạo, kết hợp với điều trị bệnh chính.
- Suy thận cấp do nhiều nguyên nhân khác nhau
gây nên, nhưng lại giống nhau về bệnh cảnh lâm
sàng và tổn thương mô bệnh học.
2. Nguyên nhân suy thận cấp
Nguyên nhân trước thận
Nguyên nhân trước thận là các nguyên nhân gây
giảm dòng máu tới thận, làm giảm áp lực lọc cầu thận,
hay gặp là sốc do các nguyên nhân khác nhau như:
+ Sốc do giảm thể tích:
- Chảy máu: chấn thương, mổ lớn, phá thai,
chảy máu tiêu hoá.
- Mất nước: nôn, ỉa chảy, bỏng diện rộng,
dùng thuốc lợi tiểu.
+ Sốc do tim: nhồi máu cơ tim cấp, hội chứng ép
tim, viêm cơ tim cấp, loạn nhịp tim.
+ Sốc do nhiễm khuẩn: nhiễm khuẩn huyết,
nhiễm khuẩn đường tiêu hoá, nhiễm khuẩn tử cung,
viêm tuỵ cấp.
+ Sốc do quá mẫn: sốc phản vệ.
+ Sốc do chấn thương: hội chứng vùi lấp, gãy
xương lớn.
+ Sốc do tan máu cấp: gây tắc ống thận do
hemoglobin, myoglobin:
- Dập cơ lớn trong hội chứng vùi lấp.
- Tan máu cấp: do độc tố nọc rắn, do truyền
nhầm nhóm máu, sốt rét đái ra huyết cầu tố.
- Hemoglobin niệu do lạnh.
- Hemoglobin niệu do thuốc ở người thiếu
men G6PD (glucose 6 phosphat dehydrogenase). Khi
hemoglobin trong huyết thanh trên 100 mg/dl sẽ có
hemoglobin niệu.
+ Phá thai nhiễm trùng, sẩy thai, sản giật.
Lê Thị Thu hà
Bệnh viện Từ Dũ
Tóm tắt
Suy thận cấp còn được gọi bằng nhiều tên khác nhau:
viêm ống thận cấp; viêm ống- kẽ thận cấp; hoại tử ống
thận cấp. Thực tế, ngoài tổn thương ống thận còn luôn
có phù nề và viêm tổ chức kẽ thận, chỉ có cầu thận và
mạch máu thận là được bảo toàn, vì vậy thuật ngữ viêm
ống-kẽ thận cấp là thích hợp nhất, nó nhấn mạnh tới tổn
thương mô bệnh học. Trong lâm sàng, người ta thường
dùng thuật ngữ suy thận cấp (STC) là muốn nhấn mạnh
đến tổn thương chức năng của viêm ống-kẽ thận cấp.
Abstract
Acute Renal Failure in Pregnancy
Acute renal failure is also known by many different
names: acute tubular inflammation, acute renal
interstitial inflammation; acute tubular necrosis. In
fact, in addition to renal tubular injury was always
edema and renal interstitial inflammation, only
glomeruli and renal blood vessels are preserved,
hence the term acute renal interstitial inflammation
is the most appropriate, it shows histopathological
lesions. Clinically, it is common used the term acute
renal failure is a strong emphasis on functional lesions
of acute renal interstitial inflammation.
Key words: Acute renal failure, Acute tubular
necrosis, Renal cortical necrosis, Acute pyelonephritis
SUY THẬN CẤP TRONG THAI KỲ
Tập 12, số 01
Tháng 4-2014
Tạp chí Phụ Sản
13
Tạp chí phụ sản - 12(1), 12-16, 2014
Thời gian thiếu máu thận rất quan trọng, nếu
thiếu máu thời gian ngắn dưới 72 giờ thì chức năng
thận có thể phục hồi sau khi được bù đủ máu và dịch
(suy thận cấp chức năng), nếu thời gian thiếu máu
kéo dài trên 72 giờ thì hoại tử ống thận cấp có thể xảy
ra và gây suy thận cấp thực thể.
Những nghiên cứu gần đây cho thấy: các thuốc
chống viêm nhóm non-steroid làm thận giảm tiết
prostaglandin (là yếu tố gây giãn mạch), do đó có thể
gây thiếu máu thận. Vì vậy, sử dụng các thuốc này ở
các bệnh nhân có nguy cơ giảm dòng máu thận (suy
tim, xơ gan, hội chứng thận hư, viêm cầu thận) có thể
gây ra suy thận cấp.
Nguyên nhân tại thận
+ Do các tác nhân gây độc cho thận:
- Nguyên nhân thường gặp trước đây: nhiễm
độc kim loại nặng, nhiễm khuẩn, nhiễm độc rượu, các
tác nhân độc trong nghề nghiệp và môi trường.
- Các chất độc tự nhiên: mật cá trắm, mật các
loại cá lớn.
- Các chất độc là thuốc: thuốc kháng sinh
nhóm aminoglycoside, thuốc gây mê (methoxyfluran,
enfluran), cyclosporin A, manitol dùng quá liều,.
+ Các bệnh thận đặc biệt:
- Bệnh mạch máu thận: tăng huyết áp ác
tính, nghẽn tắc động mạch hoặc tĩnh mạch thận.
- Viêm cầu thận: bệnh kháng thể kháng
màng nền cầu thận (hội chứng Goodpasture), viêm
cầu thận hình liềm (viêm cầu thận tiến triển nhanh).
- Viêm kẽ thận: do thuốc, do tinh thể axit
uric, tinh thể canxi, nhiễm khuẩn lan toả.
+ Tắc nghẽn trong thận do các tinh thể: tinh thể
axit uric, thuốc sulfamit, methotrexate...
Nguyên nhân sau thận
Bao gồm các nguyên nhân gây tắc nghẽn ngoài
thận: tắc nghẽn bể thận, niệu quản, bàng quang
do sỏi hoặc do u đè ép. Liệt bàng quang do tổn
thương thần kinh. Thắt nhầm niệu quản khi mổ
vùng chậu hông.
Suy thận cấp cần được thẩm phân hiếm gặp
trong thai kỳ. Mặc dù chấn thương thận cấp tính
có thể xảy ra từ bất kỳ nguyên nhân nào không liên
quan đến thai kỳ. Một số rối loạn đặc trưng cho thời
kỳ mang thai và có thể được chia thành những rối
loạn xảy ra trong khi mang thai sớm (ví dụ: chứng
nito huyết trước thận, hoại tử ống thận cấp, hoại tử
vỏ thận, viêm bể thận, huyết khối huyết giảm tiểu
cầu, ban xuất huyết) và những phát sinh trong giai
đoạn cuối thai kỳ (ví dụ: hoại tử ống thận cấp, gan
nhiễm mỡ cấp tính).
3.Suy thận cấp trong thai kỳ
Suy thận cấp giai đoạn đầu thai kỳ
Chứng nito-huyết trước thận có thể được gây ra
bởi chứng nôn nghén, mà thường kết hợp với nhiễm
kiềm chuyển hóa. Việc chẩn đoán chứng nôn nghén
được thực hiện qua tiền sử, và điều trị tình trạng này
đòi hỏi truyền dịch tĩnh mạch. Xuất huyết liên quan
với sẩy thai tự phát cũng có thể dẫn đến chứng nito-
huyết trước thận.
Hoại tử ống thận cấp tính có thể được gây ra
bởi sự suy giảm thể tích tuần hoàn nghiêm trọng
liên quan đến chứng nôn nghén, xuất huyết từ sẩy
thai tự nhiên, thai ngoài tử cung vỡ hoặc sốc do phá
thai nhiễm trùng. Phá thai nhiễm trùng thường do
vi khuẩn Escherichia coli nhất, mặc dù trong một số
trường hợp do Clostridium perfringens, có thể gây
hoại tử cơ tử cung và myoglobin niệu. Chẩn đoán
hoại tử ống thận cấp tính có thể được thiết lập qua
thực tế lâm sàng, xét nghiệm nước tiểu, và chỉ số tiết
niệu. Điều trị bao gồm dịch, thuốc kháng sinh và lọc
máu khi cần thiết.
Hoại tử vỏ thận rất có thể được khởi đầu bởi tình
trạng đông máu nội mạch lan tỏa nguyên phát của
thiếu máu cục bộ thận nặng. Tình trạng này là một
nguyên nhân hiếm gặp của suy thận cấp nghiêm
trọng, mặc dù nó thường được kết hợp với thai kỳ.
Hoại tử vỏ thận biểu hiện với tiểu máu đại thể, đau
hông, và thiểu niệu hoặc vô niệu nặng nề sau một
thảm họa sản khoa (nhau bong non, phá thai nhiễm
trùng, thai lưu, thuyên tắc ối). Việc chẩn đoán thường
có thể được khẳng định bằng cách chứng minh một
vành thấu xạ trong vỏ thận trên chụp cắt lớp vi tính
(CT). Phục hồi từ hoại tử vỏ thận thường đòi hỏi nhiều
tháng, và phục hồi chức năng thận thường không
hoàn toàn [1].
Viêm thận bể thận cấp tính được kèm với giảm độ
lọc cầu thận (GFR) có thể được phục hồi với điều trị
các nhiễm trùng tiềm ẩn. Điều trị đòi hỏi phải nhập
viện và sử dụng kháng sinh đường tĩnh mạch và
truyền dịch tĩnh mạch. Ceftriaxone là một sự lựa chọn
thích hợp cho điều trị ban đầu.
Mặc dù ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối
(TTP: throbotic thrombocytopenic purpura) và hội
chứng urê huyết tán huyết biểu hiện phổ bao gồm
thiếu máu tán huyết bệnh vi mạch, giảm tiểu cầu và
suy thận, TTP có nhiều khả năng xảy ra trong ba tháng
đầu thai kỳ và thường không gây ra suy thận nặng.
Suy thận ở cuối thai kỳ
Những nguyên nhân quan trọng nhất của suy
thận ở cuối thai kỳ là tiền sản giật và các rối loạn liên
Lê Thị Thu hàTỔNG QUAN
Tập 12, số 01
Tháng 4-2014
Tạp chí Phụ Sản
14
quan đến sản giật và hội chứng HELLP (tán huyết,
tăng men gan, giảm tiểu cầu).
Hoại tử ống thận cấp tính
Những tháng cuối thai kỳ, hoại tử ống thận cấp
tính thường là kết quả của tiền sản giật, nhưng nó
cũng có thể được gây ra bởi hội chứng HELLP hoặc
xuất huyết tử cung với nhau bong non. Hoại tử ống
thận cấp nên được nghi ngờ từ tình trạng lâm sàng
và xét nghiệm nước tiểu có trụ hạt và nồng độ muối
natri cao.
Gan nhiễm mỡ cấp tính của thai kỳ
Gan nhiễm mỡ cấp tính của thai kỳ là một rối
loạn hiếm gặp, đặc trưng bởi sự khởi đầu của đau
bụng và vàng da, thường xảy ra sau tuần 34 của
thai kỳ. Bilirubin tăng cao, tăng nhẹ của aspartate
aminotransferase (AST) và alanine aminotransferase
(ALT). Trường hợp nghiêm trọng có thể biểu hiện
suy gan tối cấp. Rối loạn này thường liên quan đến
suy thận cấp.
Chẩn đoán được thiết lập thông qua các biểu
hiện lâm sàng và xét nghiệm cận lâm sàng; hình ảnh
không xâm lấn cũng có thể cung cấp bằng chứng của
gan nhiễm mỡ. Sinh bệnh học gan nhiễm mỡ cấp tính
thai kỳ liên quan đến việc thâm nhiễm mỡ vi mạch
của tế bào gan, có thể liên quan đến khiếm khuyết
ti thể beta- oxy hóa acid béo. Điều trị bao gồm chấm
dứt thai kỳ ngay và chăm sóc hỗ trợ. Hầu hết bệnh
nhân hồi phục hoàn toàn.
Suy thận sau sinh
Suy thận cấp sau sinh và hội chứng urê huyết
giảm tiểu cầu ban xuất huyết - tán huyết -huyết khối
biểu hiện những hội chứng chồng chéo, thường xuất
hiện trong tăng huyết áp trầm trọng, thiếu máu tán
huyết bệnh vi mạch, giảm tiểu cầu và suy thận cấp.
Hội chứng urê huyết tán huyết có thể khó phân biệt
với tiền sản giật nặng hoặc HELLP (tán huyết, tăng
men gan, giảm tiểu cầu) và có thể đòi hỏi sinh thiết
thận để chẩn đoán.
Suy thận cấp xuất hiện vài ngày đến vài tuần sau
khi sinh thường và có thể liên quan đến sót nhau.
4. Điều trị
Giai đoạn khởi đầu
Cần nhanh chóng loại bỏ nguyên nhân gây suy
thận. Việc nhận biết giai đoạn này rất quan trọng, nếu
phát hiện sớm và điều trị kịp thời có thể biến suy thận
cấp thể vô niệu thành suy thận cấp thể có bảo tồn
nước tiểu (không có vô niệu).
- Cầm máu; điều trị đi ngoài, nôn; loại trừ
nguyên nhân gây tắc đường dẫn nước tiểu (mổ lấy
sỏi, u nếu sức khoẻ bệnh nhân cho phép). Loại bỏ
chất độc nếu có nhiễm độc (rửa dạ dày, dùng chất
kháng độc đặc hiệu).
- Bù máu, dịch; nâng huyết áp: dựa vào áp lực tĩnh
mạch trung tâm (CVP), nếu có giảm thể tích thì áp lực
tĩnh mạch trung tâm giảm.
- Khi đã bù đủ dịch mà huyết áp tâm thu chưa
đạt trên 90mmHg thì nâng huyết áp bằng dopamin
pha vào huyết thanh ngọt 5%, truyền tĩnh mạch
5-10àg/kg/ph.
Giai đoạn toàn phát
+ Gây bài niệu rất quan trọng. Chỉ dùng lợi tiểu
khi không còn dấu hiệu mất nước, huyết áp tâm
thu trên 90 mmHg.
- Lasix 20 mg: tiêm tĩnh mạch 4 ống/lần, cách 4 giờ
tiêm 1 lần. Tuỳ theo đáp ứng để điều chỉnh liều, có thể
cho tới 24 ống/ngày, nếu cho 2 ngày không thấy có
đáp ứng thì phải ngừng.
- Manitol 20% x 100 ml, truyền tĩnh mạch nhanh.
Chỉ cần truyền 1 lần mà không thấy có đáp ứng thì
phải ngừng ngay để tránh hoại tử ống thận do tăng
thẩm thấu. Nếu có đáp ứng thì lượng nước tiểu 3 giờ
>120 ml (> 40 ml/giờ, cần đặt thông bàng quang để
thu nước tiểu); có thể cho tiếp liều thứ hai.
+ Điều chỉnh cân bằng nội môi:
- Cân bằng nước nên giữ ở mức âm tính nhẹ để
tránh tăng huyết áp gây phù phổi cấp.
Lượng nước vào (gồm có nước ăn, uống,
truyền)/24giờ = 500 ml + lượng nước tiểu trong 24giờ.
Khi tăng thể tích không điều chỉnh được bằng nội
khoa, có triệu chứng đe doạ phù phổi cấp (huyết áp
tăng, ran ẩm ở phổi, khó thở, X quang có phù tổ chức
kẽ, áp lực tĩnh mạch trung tâm (CVP) > 12 cmH2O,
áp lực phổi bít >20 mmHg) thì phải chỉ định lọc máu
bằng thận nhân tạo.
- Hạn chế tăng kali máu:
Không dùng các thuốc, dịch truyền, thức ăn có
nhiều kali; loại bỏ các ổ hoại tử, các ổ nhiễm khuẩn.
Nếu có chảy máu đường tiêu hoá, cần loại nhanh máu
trong đường tiêu hóa ra...
Nếu kali máu < 6 mmol/l thì chỉ cần điều chỉnh
bằng chế độ ăn.
Nếu kali máu từ 6 đến 6,5 mmol/l thì phải dùng
thuốc để làm giảm nồng độ kali máu:
• Glucoza ưu trương 20% hoặc 30% + insulin (cứ
3-5g đường cho 1 đơn vị insulin nhanh) truyền tĩnh
mạch, lượng glucoza phải dùng tối thiểu 50 - 100g.
Insulin có tác dụng chuyển kali từ ngoại bào vào
trong nội bào, do đó làm giảm kali máu. Cần loại trừ
bệnh Addison trước khi dùng insulin, vì có thể gây hạ
Tập 12, số 01
Tháng 4-2014
Tạp chí Phụ Sản
15
Tạp chí phụ sản - 12(1), 12-16, 2014
đường huyết tới mức nguy hiểm (bệnh nhân bị bệnh
Addison thường có tình trạng hạ đường huyết mạn
tính và tăng nhạy cảm với insulin).
Không nên dùng loại dung dịch glucoza quá ưu
trương (40-50%), vì khi truyền tĩnh mạch sẽ gây ưu
trương dịch ngoại bào nhanh, làm mất nước tế bào,
do đó kali sẽ từ trong tế bào ra ngoại bào làm tăng
vọt kali máu gây nguy hiểm trước khi kali máu giảm.
+ Bicacbonat 8,4%, dùng 50ml cho mỗi lần, tiêm
tĩnh mạch; nên chọn tĩnh mạch lớn để truyền; cần
thận trọng vì có thể gây quá tải natri. Thuốc gây kiềm
hoá máu, có tác dụng chuyển kali từ ngoại bào vào
trong nội bào.
+ Canxi gluconat hoặc canxi clorua 0,5 x 01 ống tiêm
tĩnh mạch chậm trong 2 phút, có thể nhắc lại sau 5 phút
dưới sự giám sát điện tim trên monitoring. Canxi có tác
dụng đối kháng với tác dụng của tăng kali máu lên
tim. Chống chỉ định tiêm canxi khi bệnh nhân đang
dùng digitalis.
Nếu kali máu > 6,5 mmol/l, hoặc kali máu tăng
đã gây biến đổi điện tim giai đoạn 3, 4 thì phải chỉ
định lọc máu bằng thận nhân tạo hoặc lọc màng
bụng cấp cứu.
+ Huyết áp phải được đánh giá tức khắc và điều
chỉnh ngay:
- Huyết áp giảm phải bù dịch, điện giải, máu; dùng
thuốc vận mạch để nhanh chóng nâng huyết áp tâm
thu lên 100-120 mmHg.
- Huyết áp cao thường do quá tải thể tích, cần
điều trị tích cực để đề phòng phù phổi cấp.
+ Hạn chế urê máu tăng:
- Chế độ ăn: cung cấp đủ calo từ 35-40 kcalo/kg/
ngày bằng glucoza và lipit.
- Giảm protein: cho ăn không quá 0,5g protein/kg
cân nặng/24giờ; cung cấp đủ vitamin.
- Cho viên ketosteril: 1viên/5kg cân nặng/ngày
chia làm 3- 4 lần/ngày.
- Làm tăng đồng hoá đạm có thể cho các thuốc:
nerobon, durabolin, testosteron [2].
+ Chống nhiễm khuẩn, chống loét:
Chú ý không dùng kháng sinh có độc cho thận.
Kháng sinh ít độc nhất cho thận là nhóm β-lactam
(penicilin, amoxixilin...), nhóm erythromycin; còn
nhóm aminoglycozit (streptomycin, kanamycin,
gentamycin...) thì rất độc với thận.
+ Điều trị nhiễm toan chuyển hoá:
Khi nồng độ bicacbonat trong máu >16 mmol/l
thì chưa cần điều trị.
Khi bicacbonat < 16 mmol/l hoặc pH máu ≤ 7,2 là
biểu hiện có nhiễm toan nặng cần phải điều trị.
Lượng kiềm cần đưa vào có thể được tính toán
như sau:
Kiềm thiếu (mmol/l) = (25 - [HCO3 -] ) x 0,2 x kg;
Hoặc kiềm thiếu (mmol/l) = BE x 0,2 x kg.
- [HCO3] là nồng độ bicacbonat trong máu bệnh
nhân; kg: là cân nặng của bệnh nhân; BE (base exess):
là lượng kiềm thừa hoặc thiếu của bệnh nhân được
đo bằng máy ASTRUP (bình thường = ± 2).
Các loại dung dịch kiềm được sử dụng:
Bicacbonat 1,4% có 0,16 mmol kiềm/1ml.
Bicacbonat 4,2% có 0,5 mmol kiềm/1ml.
Bicacbonat 8,4% có 1,0 mmol kiềm/1ml.
Lactat natri 11% có 1 mmol kiềm/1 ml.
Cần thận trọng khi dùng dung dịch kiềm, vì đưa
thêm một lượng natri vào cơ thể và gây giảm canxi
máu. Khi cần hạn chế nước thì nên chọn loại đậm đặc.
+ Chỉ định lọc máu khi bệnh nhân có 1 trong
các triệu chứng sau [3,5]:
- Kali máu > 6,5 mmol/l.
- Urê máu > 30 mmol/l.
- pH máu < 7,2.
- Quá tải thể tích gây đe doạ phù phổi cấp với
biểu hiện: huyết áp tăng cao, phù, khó thở, phổi có
nhiều ran ẩm, X quang có phù tổ chức kẽ; áp lực
tĩnh mạch trung tâm > 12 cmH2O; áp lực phổi bít >
20 mmHg; đặc biệt chú ý những bệnh nhân đã có
tổn thương phổi.
Các chỉ số trên tăng càng nhanh thì càng cần chỉ
định lọc máu sớm.
- Lọc máu sớm là cần thiết ở phụ nữ mang thai
bị suy thận và cần được xem xét khi creatinine huyết
thanh đạt 3,5 mg/dL hoặc độ lọc cầu thận (GFR) dưới
20 ml/phút. Lọc máu thường xuyên hơn (20 giờ/tuần)
có liên quan với kết quả thai nhi tốt nhất. Do đó, chạy
thận nhân tạo có thể cần thiết ít nhất 5 ngày mỗi
tuần. Cẩn thận tránh hạ huyết áp là rất quan trọng.
Thẩm phân phúc mạc với thể tích nhỏ hơn và trao đổi
thường xuyên là một tùy chọn khác.
Sinh non và thai nhẹ cân là điển hình ở những
phụ nữ mang thai chạy thận nhân tạo. Thiếu máu cần
được điều trị với erythropoietin và cẩn thận chú ý để
điều trị sắt. Hỗ trợ dinh dưỡng cho phép tăng trọng
lượng 0,3-0,5 kg/tuần nên được duy trì trong tam
cá nguyệt thứ hai và thứ ba. Mặc dù tỷ lệ sẩy thai tự
nhiên là khoảng 50% đối với phụ nữ mang thai phải
chạy thận, tỷ lệ sống sót của thai nhi với những thai
kỳ tiếp tục cao đến 71%.
Ghép thận [4,5]
Ghép thận phục hồi khả năng sinh sản, mặc dù
hầu hết phụ nữ với ghép thận có thể sinh thành công,
Lê Thị Thu hàTỔNG QUAN
Tập 12, số 01
Tháng 4-2014
Tạp chí Phụ Sản
16
nhưng nguy cơ sẩy thai cao hơn, có thể phải chấm
dứt thai kỳ vì bệnh lý, thai chết lưu, thai ngoài tử cung,
sinh non, trẻ nhẹ cân, và tử vong sơ sinh.
Hướng dẫn cho việc mang thai được ghép thận bao
gồm những điều sau đây:
• Hai năm sau ghép thận, với nồng độ creatinin
huyết thanh và sức khỏe nói chung tốt ít hơn 2,0 mg/
dL (tốt nhất là <1,5 mg/dL)
• Không có hiện tượng thải ghép gần đây.
• Huyết áp trong giới hạn bình thường.
• Protein niệu vết hoặc âm tính.
• Không có bằng chứng của sự giãn nở đài bể thận
trên siêu âm thận
Thuốc ức chế miễn dịch trong ghép thận bao gồm:
• Prednisone - Ít hơn 15 mg mỗi ngày.
• Azathioprine - 2 mg/kg/ngày hoặc ít hơn.
• Thuốc ức chế calcineurin - Điều trị cơ bản.
• Mycophenolate mofetil và sirolimus - Ngừng 6
tuần trước khi thụ thai
• Methylprednisolone – Thuốc ưa thích dành cho
điều trị thải mảnh ghép trong khi mang thai.
Sau đây là những biến chứng nguy cơ người ghép thận:
• Thuốc ức chế miễn dịch làm tăng nguy cơ cao
huyết áp trong thai kỳ.
• Tiền sản giật xảy ra trong khoảng một phần ba số
người nhận thận ghép.
• Gần 50% trường hợp có thai ở những phụ nữ kết
thúc trong sinh non do tăng huyết áp.
• Nồng độ trong máu các chất ức chế calcineurin
cần phải được thường xuyên theo dõi do sự thay đổi
trong thể tích phân phối dịch ngoại bào
• Có một nguy cơ gia tăng tình trạng nhiễm
cytomegalovirus, toxoplasmosis, và herpes, tăng
nguy cơ cho thai nhi.
Giai đoạn hồi phục:
+ Giai đoạn này chủ yếu là bù nước-điện giải bằng
truyền tĩnh mạch các dung dịch đẳng trương: glucoza
5%, natri clorua 0,9%, ringer lactat.
+ Vẫn phải hạn chế tăng kali máu và tăng urê máu
bằng chế độ ăn và thuốc.
+ Khi nồng độ urê máu về bình thường thì phải
cho ăn đủ đạm và vitamin.
+ Tiếp tục điều trị bệnh chính và các biến chứng khác.
+ Thăm dò mức lọc cầu thận và chức năng ống
thận để đánh giá mức độ hồi phục chức năng thận
sau một vài tháng.
Tiên lượng.
Người ta khó đưa ra được một tiên lượng chung
cho các bệnh nhân bị suy thận cấp vì phụ thuộc vào
nguyên nhân bệnh; mức độ tổn thương mô bệnh học;
mức độ và thời gian thiểu niệu hoặc vô niệu; phương
pháp điều trị; các biến chứng. Theo Hamburger, khi
chưa có thận nhân tạo thì tỉ lệ tử vong chiếm 71% số
bệnh nhân suy thận cấp; từ khi có thận nhân tạo thì
tỉ lệ tử vong chỉ còn 10,5% tổng số bệnh nhân. Tiên
lượng mức độ nặng của suy thận cấp có thể dựa vào:
+ Những nguyên nhân có tỉ lệ tử vong cao: phẫu
thuật lớn, chấn thương, bỏng rộng và sâu, viêm tuỵ
cấp, nhiễm khuẩn huyết...
+ Thời gian vô niệu và tốc độ tiến triển của các
triệu chứng suy thận cấp là một yếu tố giúp cho tiên
lượng: vô niệu kéo dài; tốc độ tăng urê, tăng creatinin
máu nhanh thì có tiên lượng xấu.
+ Các biến chứng: nếu có biến chứng thì làm xấu
thêm tiên lượng (như nhiễm khuẩn thứ phát, tăng
kali máu, phù phổi cấp...).
+ Tiên lượng còn phụ thuộc vào chẩn đoán sớm hay
muộn, phương pháp điều trị và chăm sóc đúng hay sai.
Tài liệu tham khảo
1. Krane NK. Acute renal failure in pregnancy. Arch Intern
Med. Nov 1988;148(11):2347-57.
2. Davison JM, Lindheimer MD. Renal disorders. In: Creasy
RK, Resnik R, Iams J (editors). Maternal–Fetal Medicine:
Principles and Practice. 5th ed. Philadelphia PA: Saunders;
2003. pp. 901–24
3. Hou SH. Pregnancy in women on haemodialysis and
peritoneal dialysis. Baillieres Clin Obstet Gynaecol. Jun
1994;8(2):481-500..
4. Davison JM, Bailey DJ. Pregnancy following renal
transplantation. J Obstet Gynaecol Res. Aug 2003;29(4):227-33.
5. Kapoor N, Makanjuola D, Shehata H. Management
of women with chronic renal disease in pregnancy. The
Obstetrician & Gynaecologist, 2009;11:185–191.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
suy_than_cap_trong_thai_ky.pdf