Kết luận
Kết quả phân tích tác động của chính
sách tài khóa đến đầu tư trực tiếp nước
ngoài trong giai đoạn khủng hoảng cho
thấy, khủng hoảng tài chính ảnh hưởng tiêu
cực lên dòng vốn FDI và phản ứng của vốn
FDI đối với chính sách tài khóa trong thời
kỳ khủng hoảng chậm hơn so với thời kỳ
không khủng hoảng. Kết luận này tương tự
nghiên cứu của Hajkova et al. (2006). Từ
kết quả nghiên cứu với kỳ vọng thu hút
nguồn vốn FDI trong thời gian tới hiệu quả
hơn chúng tôi gợi ý những chính sách sau:
Thứ nhất, từ kết quả xử lý mô hình 1
(bảng 4) cho thấy hệ số biến Et âm, nghĩa
là nếu gia tăng Et thì FDI sẽ giảm. Do đó
trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế xảy ra
chính phủ không nên khuyến khích áp
dụng chính sách tài khóa mở rộng (tức
giảm thuế và tăng chi tiêu) để thu hút FDI
mà cần phải gián tiếp thông qua bằng
những phương thức khác; tư vấn hỗ trợ
pháp lý trong suốt hoạt động dự án, cung
cấp các gói can thiệp để hỗ trợ những
ngành hoặc thị trường như cơ sở hạ tầng,
đào tạo nghề nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, nâng cao năng suất lao động đặc
biệt là chú trọng phát triển lực lượng lao
động có kỹ năng.
Thứ hai, khủng hoảng tài chính gây
ảnh hưởng tiêu cực tới dòng vốn FDI bởi
sự bất ổn trong chính sách kinh tế vĩ mô.
Do đó để thu hút FDI trong bối cảnh khủng
hoảng Chính phủ cần tiếp tục cải thiện môi
trường đầu tư bao gồm thể chế chính sách,
chính sách pháp luật phải đồng bộ, rõ ràng
có tính thực thi cao ở tất cả các cấp và cần
phổ biến chính sách đường lối của nhà
nước đến các nhà đầu tư đảm bảo thông tin
chính xác nhấtvới độ trễ nhỏ nhất.
Thứ ba, đối với chính sách tài khóa
trong những năm gần đây chưa tận dụng
hết ưu thế tác động trực tiếp có trọng tâm
mà phân bổ dàn trải manh mún và phối hợp
thiếu đồng bộ. Do đó, Nhà nước cần có
chiến lược xây dựng và thực thi chính sách
tài khóa một cách hợp lý, truyền thông một
cách hiệu quả và minh bạch hơn nữa, hạn
chế sử dụng các mệnh lệnh hành chính
trong thi hành thay vào đó là phải dựa trên
công cụ thị trường.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 443 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của chính sách tài khóa đến đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong giai đoạn khủng hoảng từ 2008-2014, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 26 (51) - Thaùng 03/2017
128
Tác động của chính sách tài khóa
đến đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
trong giai đoạn khủng hoảng từ 2008-2014
The impact of fiscal policy on foreign direct investment:
Evidence from Vietnam in the context of crisis from 2008 to 2014
Nguyễn Quyết
Trường Cao đẳng Tài chính Hải quan
Nguyen Quyet
The College of Finance and Customs
Tóm tắt
Bài viết này phân tích tác động của chính sách tài khóa đến đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam
trong giai đoạn khủng hoảng 2008-2014. Qua đó, dựa trên hàm co giãn của chính sách tài khóa đối với
dòng vốn FDI để xem xét sự phản ứng của vốn FDI trong hai thời kỳ trước và sau khủng hoảng. Bằng
phương pháp nghiên cứu định lượng được thực hiện trên dữ liệu chuỗi thời gian, kết quả nghiên cứu cho
thấy khủng hoảng tài chính ảnh hưởng tiêu cực lên dòng vốn FDI và phản ứng của vốn FDI đối với
chính sách tài khóa trong thời kỳ khủng hoảng chậm hơn so với thời kỳ không khủng hoảng.
Từ khóa: chính sách tài khóa, đầu tư trực tiếp nước ngoài, hàm co giãn, khủng hoảng.
Abstract
This paper aims to analyze the impact of fiscal policy on foreign direct investment (FDI) with evidence
from Vietnam in the context of financial crisis from 2008 to 2014. An elasticity function is created to
examine whether and to what extent the inflow of FDI responses to changes in fiscal policy before and
after the crisis. Using the quantitative method for time series, the analysis shows that financial crisis is a
negative factor to the attraction of FID capital, and that the FDI inflow responses to fiscal policy during
crisis more slowly than during the non-crisis period.
Keywords: fiscal policy, foreign direct investment, elasticity function, crisis.
1. Giới thiệu
Trong hai thập niên trở lại đây, nhiều
nước trên thế giới đã phải trải qua nhiều
bất ổn bởi các cuộc khủng hoảng tài
chínhvới phạm vi, mức độ tác động ngày
càng lớn và tần suất ngày càng tăng. Gần
nhất là cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu nổ ra từ cuối năm 2007 ở Hoa Kỳ và
cuộc khủng hoảng nợ công tại châu Âu đến
nay vẫn chưa chấm dứt đã để lại nhiều hậu
quả lâu dài và rất nghiêm trọng. Cuộc
khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ bắt đầu từ
tháng 8 năm 2007, ngày càng trở nên trầm
trọng hơn sau sự sụp đổ của Lehman
Brothers-ngân hàng đầu tư lớn nhất của
Hoa Kỳ vào tháng 9 năm 2008, đã lan rộng
NGUYỄN QUYẾT
129
thành một cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu ảnh hưởng không nhỏ tới hầu hết các
quốc gia trên thế giới trên nhiều lĩnh vực
khác nhau, đặc biệt là lĩnh vực thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Trong bối
cảnh đó, các quốc gia đã phải sử dụng
nhiều giải pháp, công cụ chính sách nhằm
hạn chế ảnh hưởng tiêu cực từ cuộc khủng
hoảng này. Một trong những giải pháp
được chính phủ các nước ưu tiên lựa chọn
là chính sách tài chính. Theo Supriyo De
(2012), Adina Dornean et al. (2014), chính
sách tài khóa bao gồm chính sách thuế, chi
tiêu, chiến lược đầu tư, các chính sách
quản lý nợ và thặng dư kinh tế của quốc
gia. Milan Brahmbhatt và Otaviano Canuto
(2012) cho rằng, thông qua chính sách tài
chính có thể tác động đến hầu hết các hoạt
động của nền kinh tế: phân bố lại thu nhập,
phân bổ lại nguồn lực xã hội tạo sự phát
triển ổn định và bền vững. Nhìn chung,
chính sách tài khóa thay đổi sẽ kéo theo sự
thay đổi của các biến số vĩ mô như GDP,
ngân sách chính phủ, nợ chính phủ và đặc
biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Mục đích của bài viết này là phân tích
tác động của chính sách tài khóa (đo bởi
thu và chi tiêu chính phủ) của Việt Nam
đến đầu tư trực tiếp nước ngoài trong giai
đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu gần
đây. Để lượng hóa sự tác động đó, bài viết
này xây dựng hàm co giãn của FDI đối với
chính sách tài khóa trong hai giai đoạn
(trước và sau khủng hoảng) nhằm so sánh
sự phản ứng của dòng vốn này với chính
sách tài khóa trong thời kỳ trước và sau
khủng hoảng xảy ra.
2. Chính sách tài khóa và vốn FDI
của Việt Nam
Chính sách tài khóa là những quyết
định của chính phủ về thu và chi tiêu, giúp
chính phủ duy trì sản lượng và việc làm ở
mức mong đợi. Chính sách tài khóa có hai
công cụ chủ yếu là chi tiêu chính phủ và
nguồn thu. Nguồn thu của chính phủ bao
gồm thu từ thuế, các khoản thu khác và
hiện nay là nguồn tài chính phát triển lớn
nhất tại Việt Nam. Trong hai thập kỷ qua,
nguồn thu này đã tăng lên nhanh chóng
cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh
mẽ. Hình 1 mô tả tăng trưởng của ngân
sách nhà nước tính theo phần trăm GDP đã
cho thấy trong giai đoạn từ 1990 tới 2007
tăng trưởng ngân sách khá ấn tượng. Việt
Nam từng là một trong những nước có tỷ lệ
nguồn thu/GDP cao nhất trong khu vực,
lên tới gần 30% vào giữa những năm 2006,
nhưng sau đó đã giảm xuống mức thấp từ
khi khủng hoảng tài chính xảy ra vào năm
2008 và khoảng 22,1% vào năm 2014.
Điều này do bị tác động bởi nhiều yếu tố,
trong số đó khủng hoảng tài chính là một
trong nhiều nhân tố ảnh hưởng tiêu cực lên
chỉ tiêu này. Để ứng phó dưới tác động của
cuộc suy thoái kinh tế thế giới đi kèm với
các áp lực của suy giảm kinh tế trong nước,
Chính phủ đã thực hiện một loạt các biện
pháp nhằm kích thích tổng cầu của nền
kinh tế chẳng hạn như miễn, giảm, giãn,
hoãn thuế cho các tổ chức, cá nhân và đặc
biệt là chính sách hỗ trợ 4% lãi suất vay
vốn lưu động cho khu vực doanh nghiệp
(Đỗ Thiên Anh Tuấn, 2014).
TÁC Đ NG CỦA CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA ĐẾN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VI T NAM
130
Hình 2.1: Thu, chi tiêu và vốn FDI của Việt Nam giai đoạn 1990-2014
0
5
10
15
20
25
30
35
40
90 92 94 96 98 00 02 04 06 08 10 12 14
E: Chi R: Thu FDI
Nguồn: Ngân hàng ADB (2014)
Về chi tiêu chính phủ, với mô hình
tăng trưởng thâm dụng vốn, Việt Nam
đang duy trì mức chi tiêu công ở mức khá
cao nhằm thúc đẩy tăng trưởng. Hình 1 cho
thấy, giai đoạn từ 1990-2014 chi tiêu hầu
như lớn hơn thu, đặc biệt là sau năm 2008
chi tiêu tăng vọt, đỉnh điểm vào năm 2011
chiếm trên 35% GDP. Chi lớn hơn thu
khiến ngân sách thường xuyên bị thâm hụt.
Khi đó chính phủ đã phải thực hiện các giải
pháp kiểm soát thâm hụt ngân sách, chủ
yếu là bằng cách cắt giảm chi đầu tư. Chi
tiêu chính phủ về định hướng vẫn chủ yếu
là hướng tới người nghèo (Chương trình hỗ
trợ đối thoại chiến lược Việt Nam-EU,
2014). Tuy nhiên, rất khó để đánh giá được
mức đóng góp thực sự của các chương
trình này vào công cuộc xóa đói giảm
nghèo. Mặt khác, trong cơ cấu chi của
chính phủ, chi đầu tư đã và đang đối diện
với những thách thức không nhỏ: thiếu sự
liên kết giữa khâu ra quyết định đầu tư và
chiến lược phát triển, và phân cấp quá
mức, dẫn đến một cách tiếp cận phân tán
trong phát triển cơ sở hạ tầng. Đây là một
trong những trở ngại lớn trong việc thu hút
vốn đầu tư FDI.
Trong thời gian qua, đầu tư trực tiếp
nước ngoài đã có nhiều biến động. Vốn
FDI tăng từ 2,8% năm 1990 lên hơn 10%
vào năm 2014. Vốn FDI là nhân tố quan
trọng góp phần tăng nguồn thu ngân sách
và cân đối cán cân thanh toán, tạo việc
làm, đây là động lực chính giúp giảm
nghèo. Từ khi khủng hoảng xảy ra, dòng
vốn này có chiều hướng giảm xuống và
thấp nhất vào năm 2011 khoảng 5,5%.
Tuy nhiên, chúng có xu hướng tăng trở lại
trong những năm gần đây. Hiện nay, bên
cạnh một số xu thế tích cực, Việt Nam
vẫn còn nhiều rào cản trong việc thu hút
FDI chất lượng cao: cơ sở hạ tầng kém,
thiếu thị trường đầu vào nội địa và các
vấn đề liên quan tới khung pháp lý. Hơn
NGUYỄN QUYẾT
131
nữa, rủi ro thường trực khác là khi mức
lương trong khu vực FDI tăng lên thì các
nhà đầu tư sẽ chuyển hướng sang các thị
trường khác cạnh tranh hơn (Báo cáo
đánh giá khu vực tài chính Việt Nam của
Ngân Hàng Thế Giới, 2014; Chương trình
hỗ trợ đối thoại chiến lược Việt Nam-EU,
2014).
3. Tổng quan lý thuyết
3.1. Chính sách tài khóa và FDI
Trong chính sách tài khóa, chính sách
thuế được xem là công cụ quan trọng và
sắc bén nhất mà hầu hết các quốc gia sử
dụng để điều tiết các hoạt động của nền
kinh tế. Trên phương diện quốc gia, chính
sách thuế là một trong những công cụ
nhằm đảm bảo nguồn thu của chính phủ,
thu hút đầu tư quốc gia. IEO-IMF (2003)
nghiên cứu về đầu tư FDI trong các quốc
gia có nền kinh tế mới nổi đã rút ra kết
luận rằng cơ sở hạ tầng, mức thuế hợp lý
và khung pháp lý ổn định là những nhân tố
quan trọng thu hút nhà đầu tư. Ngoài ra,
Morriset và Pirnia (1999) phân tích mối
quan hệ của chính sách thuế và vốn FDI
nhận định rằng chính sách thuế là nhân tố
tác động mạnh nhất trong việc thu hút đầu
tư nước ngoài và các nhà đầu tư sẽ có phản
ứng mỗi khi chính sách thuế thay đổi.
Mặc dù vậy, theo Clausing and
Dorobantu (2005), ưu đãi thuế cũng không
thể bù đắp nỗi nếu môi trường đầu tư của
nước sở tại quá kém cõi, chẳng hạn chính
sách không ổn định, cơ sở hạ tầng thấp kém
và chi phí vận chuyển quá cao. Do vậy,
ngoài thuế, chi tiêu chính phủ, cơ sở hạ tầng
cũng tác động không nhỏ tới việc thu hút
dòng vốn FDI. Bellak, Damijan, and
Leibrecht (2009), Goodspeed et al. (2007)
trong nghiên cứu về chủ đề mối quan hệ
giữa chi tiêu chính phủ và dòng vốn FDI đã
khuyến nghị rằng, những quốc gia muốn thu
hút đầu tư nước ngoài thì cần phải duy trì
mức thuế hợp lý và sử dụng nó để tái đầu tư
cho cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực
hơn là chi cho tiêu dùng. Tuy nhiên, Le và
Suruga (2005) nghiên cứu về tác động của
chi tiêu chính phủ, đầu tư FDI lên tăng
trưởng và đã cảnh báo nếu chi tiêu chính
phủ quá mức, kế hoạch không hợp lý sẽ có
nguy cơ làm giảm dòng vốn đầu tư nước
ngoài và cản trở tăng trưởng.
3.2. Khủng hoảng tài chính và FDI
Từ năm 1930 trở lại đây, kinh tế thế
giới đã trải qua ít nhất ba lần khủng hoảng
với quy mô, cường độ tác động khác nhau,
tùy thuộc từng giai đoạn, vào khả năng hội
nhập kinh tế quốc tế và chính sách của mỗi
quốc gia. Theo Urata (1999), khủng hoảng
tài chính ảnh hưởng tiêu cực tới dòng vốn
FDI bởi sự bất ổn trong chính sách kinh tế
vĩ mô của nước đầu tư cũng như nước tiếp
nhận đầu tư. Khủng hoảng ảnh hưởng tới
kế hoạch đầu tư của các nước trong dài
hạn, làm nhà đầu tư trở nên thận trọng hơn
trong khi ra quyết định. Theo UNCTAD
(2008), trêntoàn cầu chỉ có khoảng 21%
doanh nghiệp rót vốn vào các dự án FDI,
giảm khoảng 11% so với những năm trước
đó. Tuy nhiên, những nghiên cứu thực
nghiệm cho thấy sự tác động của khủng
hoảng tài chính đến việc thu hút vốn FDI
trên mỗi quốc gia hoàn toàn khác nhau.
Athukorala (2003) nghiên cứu thu hút
vốn FDI trên các nước khu vực Đông Nam
Á cho thấydòng vốn FDI tương đối ổn định
trong thời kỳ khủng hoảng. Tương tự,
Loungani và Razin (2001) nghiên cứu về
lợi ích của FDI đối với các nước đang phát
triển, các tác giả kết luận rằng FDI có sự co
giãn đối với môi trường đầu tư tuy nhiên
khá ổn định trong thời kỳ khủng hoảng tài
chính Châu Á năm 1997. Graham và Wada
(2000) phân tích chính sách thu hút vốn
TÁC Đ NG CỦA CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA ĐẾN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VI T NAM
132
FDI của Mexico trong gian đoạn 1995 (giai
đoạn khủng hoảng tại Mexico), cho thấy
dòng vốn chủ yếu đến từ thị trường Mỹ và
khá ổn định, hầu như không bị ảnh hưởng
bởi khủng hoảng.
Tuy nhiên, một vài nghiên cứu khác lại
khẳng định rằng khủng hoảng tài chính gây
cản trở đối với sự luân chuyển dòng vốn
FDI. Urata (1999), Edgington và Hayter
(2001) phân tích tác động của khủng hoảng
tài chính Châu Á năm 1997 tới dòng vốn
FDI Nhật Bản đã kết luận rằng, nữa sau
năm 1997 dòng vốn này đã giảm mạnh trên
thị trường Châu Á, đặc biệt là trong khu
vực sản xuất. Tương tự, Hui và Shang Jin
(2009) nghiên cứu sự thay đổi dòng vốn
FDI trước và sau thời kỳ khủng hoảng,
mẫu nghiên cứu gồm 3823 doanh nghiệp
trên 24 quốc gia có nền kinh tế mới nổi.
Kết quả cho thấy những doanh nghiệp FDI
trở nên khó khăn hơn từ khi xảy ra khủng
hoảng. Cùng chủ đề này, Thangavelu et al.
(2009), Ezirim và Muoghalu (2006) cũng
chỉ ra rằng khủng hoảng là nguyên nhân
chính gây tổn thương nghiêm trọng trong
chiến lược thu hút vốn từ nước ngoài trên
các quốc gia thuộc khu vực Nam Á và
Châu Phi.
3.3. Mô hình kinh tế lượng
Cơ sở xây dựng mô hình cho nghiên
cứu này được phát triển và mở rộng từ
nghiên cứu của Tieubout (1956) và Adina
Dornean et al. (2014), có dạng như sau:
t 0 1 t 3 t 3 t-1 tFDI = α +α FP +α Cr*FP +α FDI +ε (1)
Trong đó: FDIt, FDIt-1 là vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại thời điểm t, t-1. FPt
là chính sách tài chính tại thời điểm t,
Cr*FPt là biến tương tác thể hiện sự tác
động của chính sách tài chính trong giai
đoạn khủng hoảng, trong đó Cr là biến đo
lường khủng hoảng (biến giả) nhận hai giá
trị với 0 không khủng hoảng, 1 ngược lại.
Từ mô hình (1) xây dựng hàm co giãn
thể hiện sự thay đổi của FDI đối với sự
biến động của chính sách tài khóa như sau.
Trong không gian số thực (tập R) xét hàm
số 0 1 2f(x,k) :[0,+ ) R,f(x,k) = a + x(a +a k) (2)
Trong đó: f(x, k) là hàm hồi quy từ (1),
x là biến chính sách tài khóa, k là biến
khủng hoảng nhận hai giá trị 0, 1 và
0 0 3 t 1a FDI . Mục đích của chúng ta
là xem xét sự thay đổi của FDI đối với sự
biến động của chính sách tài khóa với giả
định các yếu tố khác không đổi. Do đó, giả
sử
t 1 1 1 2 2FDI FDI, a , a , mặt khác
theo Sydsæter và Hammond (2008) thì
hàm số co giãn có dạng
x
1 2
0 1 2
0
0 1 2
x df
E [f(x,k)] = .
f(x,k) dx
x
= .(a + a k)
a + x(a + a k)
a
= 1-
a + x(a + a k)
(3)
Trong đó:
0
0 1 2 1 2
1 2
a
a x(a , a k) 0 x ,a a k 0
a a k
.
Nếu 0
1 2
a
0
a a k
thì 0
1 2
a
a a k
là một tiệm
cận đứng của hàm Ex[f(x,k)]. Vậy miền xác
định của Ex[f(x,k)] là
0 0
x
1 2 1 2
a a
E [f (x,k)]:[0; ) ( ; ) [0; )
a a k a a k
(4)
Từ hàm số (3) và điều kiện (4) có thể
xây dựng hàm co giãn của FDI đối với sự
thay đổi của chính sách tài khóa trong cả
hai giai đoạn khủng hoảng và không
khủng hoảng.
4. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
Để đánh giá ảnh hưởng của chính sách
tài khóa tới đầu tư trực tiếp nước ngoài
NGUYỄN QUYẾT
133
chúng tôi sử phương pháp định lượng, các
biến nghiên cứu gồm FDIt (% GDP), chính
sách tài khóa (FPt) được đo bởi thu (R), chi
tiêu (E) của Chính phủ (% GDP). Biến
khủng hoảng (Cr) là biến nhị phân nhận hai
giá trị 0 (trước năm 2008) và 1 (giai đoạn
khủng hoảng 2008-2014) (Vũ Quang Việt,
2009). Ngoại trừ biến Cr, các biến còn lại
được thu thập theo năm trong giai đoạn
1990-2014 từ các nguồn Ngân Hàng Thế
Giới (World Bank) và Ngân Hàng Phát
Triển châu Á (ADB).
Phân tích thống kê mô tả nhằm cung
cấp những thông tin khái quát về bộ số liệu
nghiên cứu. Thật vậy, kết quả thống kê
bảng 1 cho biết các biến nghiên cứu được
thu thập trong khoảng thời gian 25 năm
(1990-2014). Giá trị độ lệch chuẩn
(Std.Dev) cho thấy chi tiêu chính phủ có
biến động lớn hơn so với các biến còn lại,
chỉ số độ nhọn của các phân phối
(Kurtosis) có sự khác biệt nhưng không
đáng kể, ngoại trừ biến FDI có độ nhọnlớn
hơn hai biến còn lại. Chỉ số độ lệch
(Skewness) của biến R mang giá trị âm
điều này cho biết phân phối của chúng lệch
về hướng bên trái, phân phối các biến còn
lại đều lệch sang phải vì tất cả hệ số độ
lệch của chúng đều lớn hơn không.
Bảng 4.1: Kết quả thống kê mô tả
FDI R E
Mean 6.3835 22.5520 25.1664
Median 6.1411 22.7000 23.5000
Maximum 12.2300 28.3000 38.3000
Minimum 2.7800 13.1000 14.2000
Std. Dev. 2.8129 3.8474 5.4217
Skewness 0.5028 -0.5625 0.7215
Kurtosis 2.1832 3.1443 3.3792
Jarque-Bera 1.7483 1.3402 2.3190
Probability 0.4172 0.5116 0.3136
Observations 25 25 25
FDI 1.0000 ---- ----
R 0.0437 1.0000 ----
E 0.3534 0.7333 1.0000
Nguồn: Tính từ phần mềm Eviews 8.0
TÁC Đ NG CỦA CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA ĐẾN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VI T NAM
134
Mặt khác, kết quả cũng cho thấy thu
và chi tiêu chính phủ có tương quan khá
mạnh (hệ số tương quan gần bằng 0.7333).
Thống kê Jarque-Bera dùng để kiểm định
các biến có phải phân phối chuẩn hay
không. Giá trị xác suất (probability) của
các biến đều lớn hơn 0,05. Chứng tỏ rằng
tất cả các biến nghiên cứu có phân phối
chuẩn.
5. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Kết quả xử lý thống kê của mô hình
kinh tế lượng chia thành hai phần. Phần thứ
nhất, ước lượng mô hình (1) với biến chính
sách tài khóa được đo bởi hai biến thu (R)
và chi tiêu chính phủ (E). Tuy nhiên, theo
kết quả bảng 1 cho thấy E và R có tương
quan khá mạnh và mô hình xảy ra hiện
tượng đa cộng tuyến. Do đó, việc ước
lượng mô hình (1) được tiếp cận theo từng
biến riêng biệt. Phần thứ hai, ước lượng
hàm co giãn phản ánh biến động của FDI
khi biến chính sách tài khóa thay đổi trong
hai giai đoạn không khủng hoảng kinh tế
và có khủng hoảng kinh tế xảy ra.
Bảng 5.1: Kết quả ước lượng mô hình
Mô hình 1:
t 0 1 t 2 t 3 t-1 tFDI = α +α E +α Cr*E +α FDI +ε
Variables Coefficient Std. Error T-Statistic Prob.
C 6.459174 2.854233 2.263016 0.0349
Et -0.174125 0.080787 -2.15535 0.0222
Cr*Et 0.069414 0.034619 2.00502 0.0435
FDIt-1 0.629320 0.183209 3.434987 0.0026
Diagnostic test
2R
0.526199
**
0.00159
Normality test 5.392293 0.06746
Serial correlation: LM test 0.643022 0.5374
Heteroscedasticity: ARCH 0.619042 0.4402
Mô hình 2:
t 0 1 t 2 t 3 t-1 tFDI = β +β R +β Cr*R +β FDI + γ
Variables Coefficient Std. Error T-Statistic Prob.
C -0.326445 3.162858 -0.103212 0.9188
Rt -0.116905 0.043322 -2.698476 0.0390
Cr*Rt 0.022159 0.010933 2.026799 0.0427
FDIt-1 0.655751 0.188033 3.487430 0.0023
NGUYỄN QUYẾT
135
Variables Coefficient Std. Error T-Statistic Prob.
Diagnostic test
2R
0.492688
**
0.00306
Normality test 3.996046 0.1356
Serial correlation: LM test 0.745034 0.4888
Heteroscedasticity: ARCH 0.378846 0.5448
Nguồn: Kết quả từ Eviews 8.0, dấu (**) chỉ thống kê có ý nghĩa mức 5%.
Kết quả bảng 5.1 cho thấy biến tương
tác Cr*Et và Cr*Rt có ý nghĩa thống kê
mức 5%. Do đó, có thể khẳng định rằng
chính sách tài khóa trong giai đoạn khủng
hoảng kinh tế có ảnh hưởng tới nguồn vốn
FDI. Hai biến thu và chi tiêu chính phủ có
tác động tiêu cực tới nguồn vốn FDI (biến
Rt và Et có ý nghĩa thống kê mức 5%). Hơn
nữa, lượng vốn FDI của năm trước cũng là
một trong những nhân tố góp phần làm gia
tăng dòng vốn này vào năm sau (FDIt-1 có
ý nghĩa mức 5%). Theo lý thuyết nếu tăng
chi tiêu chính phủ thì có thể thu hút đầu tư
FDI tăng lên nhưng thực tế trong nghiên
cứu này không cho kết quả như vậy. Điều
này có thể lý giải là trong cơ cấu chi của
chính phủ chưa hợp lý, còn dàn trải nhiều
khoản mục, chưa thật sự ưu tiên chi đầu tư
phát triển cơ cở hạ tầng để thu hút FDI.
Kiểm định chẩn đoán của hai mô hình
(Diagnostic test) cho thấy mô hình nghiên
cứu không vi phạm giả định tự tượng quan,
phương sai thay đổi và phân phối chuẩn
của phần dư. Mặt khác, kiểm định F của
hai mô hình có ý nghĩa mức 5%, hệ số xác
định tương ứng là R2=0.526199 và
0.492688 ngụ ý rằng mô hình nghiên cứu
phù hợp với mẫu 52.6199% và 49.2688%
biến động của dòng vốn FDI được giải
thích bởi các biến độc lập.
Bảng 5.2: Hàm co giãn của FDI đối với biến E
Giai đoạn khủng hoảng Giai đoạn không khủng hoảng
Ex[f(x,k)]: [0;100.053) (100.053; ) Ex[f(x,k)]: [0;60.168) (60.168; )
x
10.4766
E [f(x,k)] = 1-
10.4766 -0.10471.x
x
10.4766
E [f(x,k)] = 1-
10.4766 -0.174125.x
xE f 50.03 =1 xE f 30.08 1
Nguồn: Tính toán dựa trên kết quả bảng 4 và phương trình (3), (4)
TÁC Đ NG CỦA CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA ĐẾN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VI T NAM
136
Hình 5.1: Đồ thị hàm co giãn của FDI đối với biến E
Nguồn: Hình vẽ từ phần mềm R
Đồ thị trong hình 5.1 cho thấy biến
động của dòng vốn FDI đối với chi tiêu
chính phủ trong giai đoạn khủng hoảng
kinh tế chậm hơn trong giai đoạn không có
xảy ra khủng hoảng. Thời kỳ không khủng
hoảng, nếu chi tiêu chính phủ vượt 30.08%
GDP thì co giãn của FDI lớn hơn 1. Nghĩa
là trong giai đoạn không khủng hoảng nếu
chi tiêu chính phủ thay đổi (x) đơn
vị (x 30,08) thì lượng vốn FDI thay đổi
lớn hơn (x) (đơn vị). Trái lại trong thời
kỳ khủng hoảng thì con số này lên tới
50.03% GDP.
Bảng 5.3: Hàm co giãn của FDI đối với biến R
Giai đoạn khủng hoảng Giai đoạn không khủng hoảng
Ex[f(x,k)]: [0;40.74) (40.74; ) Ex[f(x,k)]: [0;33.016) (33.016; )
x
3.8598
E [f(x,k)] = 1-
3.8598-0.0947.x
x
3.8598
E [f(x,k)] = 1-
3.8598-0.116905.x
xE f 20.38 =1 xE f 16.51 1
Nguồn: Tính toán dựa trên kết quả bảng 4 và phương trình (3), (4)
Ex
K
h
ô
n
g
k
h
ủ
n
g
h
o
ản
g
K
h
ủ
n
g
h
o
ản
g
%GDP
NGUYỄN QUYẾT
137
Hình 5.2: Đồ thị hàm co giãn của FDI đối với biến R
Nguồn: Hình vẽ từ phần mềm R
Tương tự đối với chi tiêu chính phủ, đồ
thị trong hình 5.2 cũng cho thấy trong giai
đoạn khủng hoảng kinh tế biến động của
dòng vốn FDI đối với thu chính phủ chậm
hơn so với giai đoạn không khủng hoảng.
Thật vậy, nếu trong giai đoạn khủng hoảng
thu chính phủ vượt quá 20.38% GDP thì co
giãn của FDI sẽ lớn hơn 1. Nhưng trong
thời kỳ không khủng hoảng thì tình huống
này xảy ra khi thu của chính phủ lớn
16.51% GDP. Nghĩa là trong giai đoạn
không khủng hoảng nếu thu chính phủ thay
đổi (x) đơn vị (x 16,51) thì lượng vốn
FDI thay đổi lớn hơn (x) (đơn vị).
Vậy, phản ứng của vốn FDI với chính
sách tài khóa trong thời kỳ khủng hoảng
chậm hơn so với thời kỳ không khủng
hoảng. Qua đó cũng cho thấy trong thời kỳ
khủng hoảng tài chính xảy ra thì chính sách
tài khóa vẫn chưa thật sự đủ mạnh, chưa
phát huy hết hiệu quả trong việc thu hút
dòng vốn FDI.
6. Kết luận
Kết quả phân tích tác động của chính
sách tài khóa đến đầu tư trực tiếp nước
ngoài trong giai đoạn khủng hoảng cho
thấy, khủng hoảng tài chính ảnh hưởng tiêu
cực lên dòng vốn FDI và phản ứng của vốn
FDI đối với chính sách tài khóa trong thời
kỳ khủng hoảng chậm hơn so với thời kỳ
không khủng hoảng. Kết luận này tương tự
nghiên cứu của Hajkova et al. (2006). Từ
kết quả nghiên cứu với kỳ vọng thu hút
nguồn vốn FDI trong thời gian tới hiệu quả
hơn chúng tôi gợi ý những chính sách sau:
Thứ nhất, từ kết quả xử lý mô hình 1
(bảng 4) cho thấy hệ số biến Et âm, nghĩa
là nếu gia tăng Et thì FDI sẽ giảm. Do đó
%GDP
Ex
K
h
ô
n
g
k
h
ủ
n
g
h
o
ản
g
K
h
ủ
n
g
h
o
ản
g
TÁC Đ NG CỦA CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA ĐẾN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VI T NAM
138
trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế xảy ra
chính phủ không nên khuyến khích áp
dụng chính sách tài khóa mở rộng (tức
giảm thuế và tăng chi tiêu) để thu hút FDI
mà cần phải gián tiếp thông qua bằng
những phương thức khác; tư vấn hỗ trợ
pháp lý trong suốt hoạt động dự án, cung
cấp các gói can thiệp để hỗ trợ những
ngành hoặc thị trường như cơ sở hạ tầng,
đào tạo nghề nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, nâng cao năng suất lao động đặc
biệt là chú trọng phát triển lực lượng lao
động có kỹ năng.
Thứ hai, khủng hoảng tài chính gây
ảnh hưởng tiêu cực tới dòng vốn FDI bởi
sự bất ổn trong chính sách kinh tế vĩ mô.
Do đó để thu hút FDI trong bối cảnh khủng
hoảng Chính phủ cần tiếp tục cải thiện môi
trường đầu tư bao gồm thể chế chính sách,
chính sách pháp luật phải đồng bộ, rõ ràng
có tính thực thi cao ở tất cả các cấp và cần
phổ biến chính sách đường lối của nhà
nước đến các nhà đầu tư đảm bảo thông tin
chính xác nhấtvới độ trễ nhỏ nhất.
Thứ ba, đối với chính sách tài khóa
trong những năm gần đây chưa tận dụng
hết ưu thế tác động trực tiếp có trọng tâm
mà phân bổ dàn trải manh mún và phối hợp
thiếu đồng bộ. Do đó, Nhà nước cần có
chiến lược xây dựng và thực thi chính sách
tài khóa một cách hợp lý, truyền thông một
cách hiệu quả và minh bạch hơn nữa, hạn
chế sử dụng các mệnh lệnh hành chính
trong thi hành thay vào đó là phải dựa trên
công cụ thị trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Adina Dornean, Dumitru - Cristian Oanea
(2014). “The impact of financial policy on
FDI in the context of crisis: Evidence from
Central and Easterm European Countries”.
Procedia Economics and Finance 15,
pp. 407-413.
2. Asian Development Bank. “Key indicators
for Asian and the Pacific”. Retrievied 10
February, 2015 from
indicators-for-asia-and-the-pacific.
3. Athukorala, P. C. (2003). “Foreign direct
investment in crisis and recovery: Lessson
from the 1997 - 1998 Asian crises”.
Australian economic history review 43(2),
pp. 197-213.
4. Bellak, C., Damijan, J., & Leibrecht, M.
(2009). “Infrastructure endowment and
corporate income taxes as determinants of
foreign direct investment in Central and
Eastern European countries”. The World
Economy, 32, 267-290.
5. Clausing, K. A., & Dorobantu, C. L. (2005).
“Re-entering Europe: Does European Union
candidacy boost foreign direct investment?”.
Economics of Transition, 13,77-103.
6. Edgington, D. W., Hayter, R. (2001).
“Japanese foreign direct investment and the
Asian financial crisis”. Geoforum 32(1),
pp.103-120.
7. Ezirim, C. B., Moughalu, M. I. (2006).
“Exchange rate determination, foreign direct
investment burden and external debt crisis in
less developed countries: Negerian
experiece”. International journal of business
and economics perspectives 1(1), pp. 1-15.
8. Giàu V. N (2014). “Giám sát hệ thống tài
chính: Chỉ tiêu và mô hình định lượng”. Nhà
Xuất bản Tri Thức.
9. Graham, E. M., Wada, E. (2000). “Domestic
reform, trade and investiment liberalization,
financial crisis and foreign direct investment
in to Mexico”. The world economy 23(6),
pp. 777-797.
10. Goodspeed, T., Vazquez, J. M., & Zhang, L.
(2006). Are other government policies more
important than taxation in attracting FDI?
Andrew young school of policy studies.
Research Paper Series (working paper 28),
pp. 56-63.
11. Hajkova, D. Nicoletti, G.Vartia, L.,Yoo, K.
(2006). “Taxation, Business environment and
FDI location in OECD countries”.Working
paper No 102, pp. 13-20.
12. Hui, T., Shang - Jin, W. (2009). “The
NGUYỄN QUYẾT
139
composition matters: Capital flows and
liquidity crush during a global economic
crisis International Money Fund”. IMF
working papers, No. 09, pp. 164-170.
13. IEO-IMF (2003). “Foreign direct invest in
emerging market countries”. Report of
working group of the capital markets
consultative group (CMCG)
14. Le, M., Suruga, T. (2005). “Foreign direct
investment, public expenditure and
economic growth: empirical evidence for
the period 1970-2001”. Applied economics
letters, vol. 12, No 1, pp. 45-49.
15. Loungani, P., Razin, A. (2001). “How
benifical is foreign direct investment for
developing countries?”. Finance and
development 38(2), pp. 6-9.
16. Morriset, J. and Pirnia, N. (1999). “How tax
policy and incentives affect foreing direct
investment”. A review, The world bank
elibrary.
17. Milan Brahmbhatt and Otaviano Canuto
(2012). “Fiscal Policy for Growth and
Development”. Poverty reduction and
economic management network (prem),
World Bank.
18. Ngân Hàng Thế Giới (2014). “Báo cáo
đánh giá khu vực tài chính Việt Nam”. Văn
phòng phó chủ tịch phụ trách phát triển tài
chính và tư nhân ấn hành.
22. Supriyo De (2012). “Fiscal Policy in India:
Trends and Trajectory”. Applying Economy,
34 (7), p.877-884.
19. Sydsæter, K., and Hammond, P. (2008).
“Essential mathematics for economic
analysis”. 3
rd
edition, Prentice-Hall, United
Kingdom.
20. Tiebout, C., (1956). “A pure theory of local
expenditures”. Journal of Political economy,
vol. 64, No 05, pp.416-424.
21. Tuấn Đ. T. A (2014).“Chính sách tài khóa”.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright.
22. Thangavule, S. M., Yong, Y. W,
Chongvilaivan, A. (2009). “FDI, growth and
Asian financial crisis: the experience of
selected Asian countries”. World economy
32(10), pp. 61-77.
23. UNCTAD (2008). “World Investment
Prospects Survey: 2008-2010”. New York
and Geneva: United Nations.
24. Urata, S (1999). “The east Asian economic
crisis and japanese foreign direct investment
in Asia”. ASEME regional economic’ work
shop, Bali, Indonesia, September 15-17,
pp.1-33.
25. Việt V. Q (2009). “Viet Nam's economic
crisis policy follies and the role of state-
owned conglomerates”. Southeast Asian
Affairs.
26. World Bank. “Featured Indicators”.
Retrievied 10 February, 2015 from
Ngày nhận bài: 08/9/2015 Biên tập xong: 15/3/2017 Duyệt đăng: 20/3/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tac_dong_cua_chinh_sach_tai_khoa_den_dau_tu_truc_tiep_nuoc_n.pdf