Thực hiện phương châm của Đảng và Chính phủ “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ hợp tác. Việt Nam muốn làm bạn với các nước trong khu vực và thế giới.” được cụ thể hóa qua hệ thống pháp luật ĐTNN, qua 20 năm đã có 81 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký trên 83 tỷ đô la Mỹ. Trong đó, các nước Châu Á chiếm 69%, trong đó khối ASEAN chiếm 19% tổng vốn đăng ký. Các nước châu Âu chiếm 24%, trong đó EU chiếm 10%. Các nước Châu Mỹ chiếm 5%, riêng Hoa Kỳ chiếm 3,6%. Tuy nhiên, nếu tính cả số vốn đầu tư từ các chi nhánh tại nước thứ 3 của các nhà đầu tư Hoa Kỳ thì vốn đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam sẽ đạt con số trên 3 tỷ USD, đứng vị trí thứ 5 trong tổng số 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam, ví dụ Tập đoàn Intel không đầu tư thẳng từ Mỹ vào Việt Nam mà thông qua chi nhánh tại Hồng Kông. Hai nước châu Úc (New Zealand và Australia) chỉ chiếm 1% tổng vốn đăng ký. Hiện đã có 15 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vốn đăng ký cam kết trên 1 tỷ USD tại Việt Nam (xem Phụ lục). Đứng đầu là Hàn Quốc vốn đăng ký 13,5 tỷ USD, thứ 2 là Singapore 10,7 tỷ USD, thứ 3 là Đài loan 10,5 tỷ USD (đồng thời cũng đứng thứ 3 trong giải ngân vốn đạt 3,07 tỷ USD), thứ 4 là Nhật Bản 9,03 tỷ USD. Nhưng nếu tính về vốn thực hiện thì Nhật Bản đứng đầu với vốn giải ngân đạt gần 5 tỷ USD, tiếp theo là Singapore đứng thứ 2 đạt 3,8 tỷ USD. Hàn Quốc đứng thứ 4 với vốn giải ngân đạt 2,7 tỷ USD.
44 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1175 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tác động của đầu tư đễn chuyển dịch cơ cấu kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iện đang xây dựng các hạng mục công trình theo tiến độ với vốn đầu tư thực hiện khoảng 100 triệu USD. Ngoài ra còn có dự án đầu tư trong công nghiệp sản xuất hàng may mặc tại Lào của Công ty Scavi Việt Nam (một doanh nghiệp 100% vốn của Việt kiều Pháp thành lập theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam) đang hoạt động rất hiệu quả.
Một số dự án trong lĩnh vực dịch vụ cũng đã triển khai thực hiện như: dự án đầu tư sang Singapore của Công ty TNHH cà phê Trung Nguyên hoạt động hiệu qua, đã đưa hương vị cà phê Việt Nam giới thiệu với bạn bè quốc tế; dự án đầu tư sang Nhật Bản của Công ty cổ phần phần mềm FPT bước đầu đã hợp tác đào tạo được một ngũ lập trình viên phần mềm có trình độ quốc tế; dự án xây dựng trung tâm cộng đồng đa năng TP HCM tại Liên bang Nga của Công ty cổ phần đầu tư Việt Sô đã góp vốn khoảng 2,5 triệu USD ;dự án đầu tư sang Campuchia của Công ty viễn thông Quân đội (Viettel) đang triển khai theo tiến độ đề ra
Từ thực tiễn thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 20 năm qua,đến nay có thể nói trong điều kiện của Thế Giới và khu vực hiện nay,đầu tư nước ngoài thực sự trở thành hình thức hợp tác kinh tế quốc tế rất hiệu quả đối với Việt Nam.
II.THỰC TRẠNG CHUYẺN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ CỦA NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA
VIỆT NAM đang tiến hành công cuộc công nghiệp hóa ,hiện đại hoá nhằm đưa đất nước về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế chịu tác động của nhiều yếu tố trong nước và ngoài nước.Có hai khía cạnh cơ bản phản ánh quá trình chuyển dịch
-Một là :chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình khách quan vận hành theo quy luật nội tại nghĩa là khi có đủ sự tích luỹ về lượng sẽ có sự thay đổi về chất trong cơ cấu. Đây là quá trình đào thải và sàng lọc để lựa chọn được các bộ phận phát triển phù hợp với bản chất của cơ cấu mà cụ thể là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ phận phát triển phù hợp với bản chất của cơ cấu mà cụ thể là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ phận ,thứ tự,mối quan hệ giữa các bộ phận trong cơ cấu cũng như sự vận hành của chúng.Sự chuyển dịch cơ cấu thường gắn với sự thay đổi của lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh, lợi thế theo qui mô và lợi thế sở hữu.
-Hai là:quá trình vận hành khách quan song lai được thực hiện bởi hàng loạt các chính sách tác động theo ý chí và nhận thức của các nhà hoạch chính sách và bộ máy thực hiện. Theo khía cạnh này, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình chủ quan và về cơ bản phụ thuộc vào các nhà hoạch định về tính khách quan của cơ cấu vốn, là một thực thể thống nhất hữu cơ.Việc phân kì chuyển dịch cơ cấu có ý nghĩa quan trọng trong việc hoạch định các chính sách để đạt mục tiêu. Sự tách rời càng lớn giữa yếu tố khách quan và chủ quan là nguyên nhân của tính bất cân xứng trong cơ cấu kinh tế và bộc lộ tính phi hiệu quả của các chính sách điều chỉnh .Việc kiểm định mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tếtạo căn cứ đánh giá mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tạo căn cứ đánh giá mức độ phù hợp của chính sách áp dụng và đề xuất giải pháp điều chỉnh.Các chính sách cần hướng vào việc tạo dựng và phát triển các lợi thế tự tạo để thúc đẩy chuyển dịch
-Theo quan điểm của V.I.LêNin về chuyển dịch cơ cấu kinh tế khẳng định công nghiệp hoá là quá trình xây dựng một nền đai công nghiệp có khả năng cải tạo nông nghiệp.LêNin đã đưa ra mô hình tái sản xuất mở rộng mang tính giả định quan trọng.Kết luận về phương pháp luận trong xây dựng cỏ cấu kinh tế là khu vực sản xuất tư liệu sản xuất, để sản xuất tư liệu sản xuất phải gia tăng nhanh nhất, tiếp đến là sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất tư liệu tiêu dùng.Nói cách khác, các ngành sản xuất các yếu tố đầu vào thì cần phát triển nhanh nhất.Nếu một nềnkinh tế vận hành theo đúng quy luật này thì mới có tái sản xuất mở rộng nghĩa là có tăng trưởng.Cũng theo quan điểm cuả V.I.Lênin, công nghiệp hoá là một quá trình cải biến toàn bộ xã hội. đây là một quan điểm có tính khái quát rất cao, phản ánh mối quan hệ hữu cơ giữa hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc.
- Còn theo W.Rostow chỉ ra các giai đoạn công nghiệp hoá, song không dựa vào việc đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu chủ yếu dựa vào quá trình thay đổi xã hội với tính ước lệ khá cao của 5 giai đoạn là:xã hội truyền thống, tiền cất cánh, cất cánh, chin muồi, và tiêu thụ hàng loạt.Về thực chất, đây là quá trình cải biến mang tính cách mạng công nghiệp, tức là có sự thay đổi về chất trong hệ thống tư liệu sản xuất.Cũng theo W.Rostow quá trình công nghiệp hoá, về mặt thời gian, được thực hiện trong vòng từ 15 năm đến 20 năm.Thực tế,quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong công nghiệp hoá ở các nứơc có cự khác nhau là do điều kiện đăc thù và chính sách thực hiện.
- Hiện nay chính phủ ta đang đưa đát nước chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá,hiện đại hoá.Chuyển dich kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường đã được Đảng và nhà nứơc ta xác định là hướng đi tất yếu để phát triển kinh tế, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng lạc hậu,chậm phát triển trở thành một quốc gia văn minh, hiện đại.Chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta đựoc xac định trên những căn cứ sau:
-Một là: căn cứ xu thế phát triển kinh tế quốc tể trong những năm tới, kinh tế tiếp tục chuyển mạnh sang ngành kinh tế tri thức, công nghệ cao.Xu hướng toàn cầu hoá phát triển nhanh chóng cả theo chiều rộng và chiều sâu, tạo cơ hội cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài,nhận chuyển giao công nghệ,tiếp thu kỹ năng tổ chức sản xuất kinh doanh kỹ năng quản lý tiên tiến, mở rộng thị trường, phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
-Hai là: căn cứ thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta.Trong những năm qua nền kinh tế nước ta có những bứoc phát triển mạnh mẽ,kinh tế tăng trưởng lien tục với tốc độ khá cao,kim ngạch xuất khẩu tăng với tốc độ nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế (năm 2001:15,03 tỷ USD;năm 2002:16,06 tỷ USD;năm 2003:19,9 tỷ USD;năm 2004:26,003 tỷ USD).Tăng trưởng kinh tế cùng với những thành công của chính sách dân số làm cho bình quân đầu người tăng liên tục.
- Các cách tiếp cận gần đây chỉ ra quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chủ yếu thể hiện ở sự thay đổi quan hệ giữa vốn và lao động mà đặc biệt là việc tăng tỉ trọng vốn,công nghệ cao và giảm lao động giản đơn với viẹc sử dụng hàm Cobb Douglas và năng suất tổng hợp các yếu tố để phân tích .Trong cơ cấu xuất khẩu ,tỉ trọng các mặt hàng chế biến, các mặt hàng có gía trị gia tăng cao ngày càng tăng và giảm các mặt hàng ché biến thô hoặc xuất khẩu tài nguyên. Đây là chuyển dich cơ cấu kinh tế theo chiều sâu và để có sự chuyển dịch đó cần đầu tư nhiều hơn vào vốn và công nghệ cao,sản xuất nhiều hàng hoá có hàm lượng vốn và công nghệ hơn là hàng hoá sử dụng nhiều lao động giản đơn hoặc hàng hoá nhiều tài nguyên thiên nhiên.Nếu không có sự chuyển dịch như vậy,mức độ cải thiện khả năng cạnh tranh của nền kinh tế rất hạn chế và nền kinh tế dễ bị tụt hậu trong dài hạn.
- Cùng với tốc độ tăng cao của GDP,cơ cấu kinh tế trong nước đã có sự thay đổi đáng kể.Từ năm 1990 đến năm 2005,tỷ trọng của khu vực nông nghiệp đã giảm từ38,7% xuống 20,89% GDP nhường chỗ cho sự tăng lên về tỷ trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng từ 22,7% lên 41,03%, còn khu vực dịch vụ duy trì ở mức gần như không thay đổi:38,6% năm 1990 và 38,10% năm 2005.Trong các nhóm ngành ,cơ cấu cũng có sự thay đổi tích cực .Trong khu vực tỉ trọng của ngành nông và lâm nghiệp đã giảm từ 84,4% năm 1990 xuống 77,7% năm 2003,phần còn lại là tỉ trọng ngày càng tăng của các ngành thuỷ sản.Trong cơ cấu công nghiệp,tỉ trọng của ngành công nghiệp chế biến tăng từ 12,3% năm 1990 lên 20,8% năm 2003,chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao.Cơ cấu của khu vưc dịch vụ thay đổi theo hướng tăng nhanh tỉ trọng của các ngành dịch vụ có chất lượngcao như tài chính,ngân hàng,bảo hiểm,du lịch
- Cơ cấu các thành phần kinh tế ngày càng được chuyển dịch theo hướng phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước ,trong đó kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế về qui mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm.Từ những định hướng đó,khung pháp lí ngày càng được đổi mới,tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung,quan lieu,bao cấp ,sang nền kinh tế thị trưòng nhằm giải phóng sức sản xuất,huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả,tạo đà cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Cơ cấu kinh tế có những chuyển biến tích cực, đúng hướng nhưng chưa mạnh. Ngành Công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao, giữ tỉ trọng lớn trong nền kinh tế. Cơ cấu công nghiệp có sự chuyển dịch đáng kể. Tuy nhiên, yếu tố hiện đại hoá chưa được quan tâm đúng mức. Công nghiệp chế biến, đặc biệt là những ngành công nghệ cao chưa phát triển. Tỉ trọng ngành dịch vụ trong GDP giảm liên tục trong những năm gần đây. Những ngành dịch vụ có hàm lượng chất xám và giá trị gia tăng cao như dịch vụ tài chính – tín dụng, dịch vụ tư vấn chậm phát triển. Tình trạng độc quyền, dẫn tới giá cả dịch vụ cao, chất lượng dịch vụ thấp còn tồn tại ở nhiều ngành dịch vụ như viễn thông, đường sắt. Một số ngành có tính chất động lực như giáo dục - đào tạo, khoa học – công nghệ, tính chất xã hội hoá còn thấp, chủ yếu dựa vào nguồn vốn của Nhà nước. Cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, vẫn diễn ra tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”; chất lượng giáo dục đào tạo chưa đáp ứng với yêu cầu của quá trình chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH. Trong nhóm ngành nông, lâm, ngư nghiệp xu hướng tích cực là tỉ trọng hàng hoá trong tổng sản phẩm tăng lên, cơ cấu sản xuất đã bước đầu hướng về xuất khẩu.
-Về cơ cấu thành phần kinh tế: Chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước ta đã góp phần giải phóng sức sản xuất xã hội, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, bước đầu hình thành nên một nền kinh tế nhiều thành phần sôi động, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống của nhân dân, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, cơ cấu thành phần kinh tế còn bộc lộ những mặt hạn chế sau:
- Tỉ trọng của thành phần kinh tế nhà nước còn cao, điều này là một nguyên nhân của tình trạng hiệu quả thấp, sức cạnh tranh yếu của nền kinh tế.
- Tỉ trọng của khu vực kinh tế cá thể cao phản ánh phương thức kinh doanh nhỏ lẻ, phân tán còn khá phổ biến trong nền kinh tế.
- Khu vực kinh tế tư nhân còn quá nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng, mặc dù đây là thành phần kinh tế hết sức quan trọng để thu hút các nguồn lực trong dân cư, để phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giải quyết việc làm, nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
-Tỉ trọng kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn thấp và tăng không đáng kể trong những năm vừa qua, chứng tỏ sức hấp dẫn của môi trường đầu tư của nước ta chưa được cải thiện tương xứng với mong muốn của các nhà đầu tư nước ngoài.
-Về cơ cấu vùng kinh tế: trong những năm vừa qua cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế. Trên bình diện quốc gia, đã hình thành 6 vùng kinh tế: Vùng Trung du miền núi phía Bắc, vùng Đồng bằng sông Hồng, Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Miền Trung, Vùng Tây Nguyên, Vùng Đông Nam Bộ và Vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó có 3 vùng kinh tế trọng điểm, là vùng động lực cho tăng trưởng kinh tế cả nước.
- Các địa phương cũng đẩy mạnh việc phát triển sản xuất trên cơ sở xây dựng các khu công nghiệp tập trung, hình thành các vùng chuyên canh cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chế biến, nuôi trồng thuỷ sản, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá trên cơ sở điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội của từng vùng. Điều này tạo thuận lợi cho phát triển công nghiệp chế biến, góp phần tạo nên xu hướng chuyển dịch c ơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng sản xuất hàng hoá, hướng về xuất khẩu.
- Tuy nhiên, ở các địa phương, quy hoạch vùng kinh tế còn rập khuôn, mang nặng tính phong trào. Có thể lấy ví dụ về điều này qua việc xây dựng tràn lan nhà máy đường, nhà máy xi măng lò đứng, cảng biển, khu công nghiệp ở các tỉnh, dẫn đến hiệu quả đầu tư rất thấp. Nhiều vùng sản xuất hình thành một cách tự phát, hoặc quy hoạch phát triển thiếu khoa học, như phát triển tràn lan cây cà phê ở Tây Nguyên, xây dựng nhiều nhà máy đường ở các địa phương khác trong cả nước...
Trên cơ sở phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta trong những năm vừa qua cùng xu thế phát triển tất yếu của kinh tế thế giới, hệ thống mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta có những nội dung cụ thể sau:
- Tăng tỉ trọng của công nghiệp, dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc nội. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trước hết chính là quá trình phát triển mạnh các ngành nghề phi nông nghiệp, thông qua đó giảm bớt lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, tăng khả năng tích luỹ cho dân cư. Đây lại chính là điều kiện để tái đầu tư, áp dụng các phương pháp sản xuất, công nghệ tiên tiến hiện đại vào sản xuất, trong đó có cả sản xuất nông nghiệp. Kết quả là, tất cả các ngành kinh tế đều phát triển, nhưng ngành công nghiệp và dịch vụ phát triển nhanh hơn, biểu hiện là tăng tỷ trọng của sản phẩm công nghiệp và dịch vụ trong GDP.
- Hình thành các vùng kinh tế dựa trên tiềm năng, lợi thế của vùng, gắn với nhu cầu của thị trường. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,hiện đại hoá là quá trình chuyển biến căn bản về phân công lao động xã hội theo lãnh thổ. Xoá bỏ tình trạng chia cắt về thị trường giữa các vùng; xoá bỏ tình trạng tự cung tự cấp, đặc biệt là tự cung, tự cấp về lương thực của từng vùng, từng địa phương. Mỗi địa phương phải đặt mình trong một thị trường thống nhất, không chỉ là thị trường cả nước mà còn là thị trường quốc tế, trên cơ sở đó xác định những khả năng, thế mạnh của mình để tập trung phát triển, tham gia vào quá trình phân công và hợp tác lao động có hiệu quả.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,hiện đại hoá gắn với quá trình hình thành các trung tâm kinh tế thương mại, gắn liền với quá trình đô thị hoá. Mặt khác, việc quy hoạch xây dựng các khu đô thị, trung tâm kinh tế, thương mại có ảnh hưởng trực tiếp trở lại tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Giải quyết việc làm, giảm tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng số lao động xã hội. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng c ông nghiệp hoá,hiên đại hoá là quá trình phân công lao động xã hội, là quá trình chuyển dịch lao động từ ngành nông nghiệp sang các ngành công nghiệp và dịch vụ. Đây là giải pháp vừa cấp bách, vừa triệt để để giải quyết tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn hiện nay, đồng thời là hệ quả tất yếu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,hiện đại hoá.
- Để đạt được hệ thống mục tiêu trên, phương thức tác động của các chính sách kinh tế cần phù hợp với các quy luật kinh tế thị trường, đảm bảo tính linh hoạt mềm dẻo. Cần kết hợp giữa phương thức tác động trực tiếp với phương thức tác động gián tiếp để tác động tới quá trình chuyển dịch CCKT, nhằm đạt được hiệu quả mong muốn.
- Thứ nhất, phương thức tác động trực tiếp. Nhà nước có thể tác động trực tiếp tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế bằng các cách sau: Dùng vốn ngân sách đầu tư thành lập mới doanh nghiệp nước ngoài, hoặc đầu tư bổ sung vốn cho các doanh nghiệp nhà nước để phát triển các ngành, các dự án sản xuất kinh doanh, các sản phẩm mà Nhà nước mong muốn; Nhà nước cũng có thể dùng mệnh lệnh hành chính buộc các doanh nghiệp n ước ngoài tiến hành đầu tư vào các lĩnh vực theo sự chỉ đạo của mình, yêu cầu các tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại nhà nước cho các doanh nghiệp, hộ gia đình vay ưu đãi để thực hiện một số dự án phát triển kinh tế cụ thể... Phương thức này bước đầu có thể mang lại hiệu quả chuyển dịch chuyển cơ cấu kinh tế nhanh chóng theo kế hoạch của Nhà nước. Tuy nhiên, thực tiễn đã chứng tỏ, sự tăng trưởng đạt được bằng cách làm này thường không bền vững, bởi vì các quyết định đầu tư dựa trên nguyên tắc mệnh lệnh hành chính thường không mang lại hiệu quả kinh tế như mong muốn. Nhà nước chỉ nên sử dụng phương thức này trong các trường hợp thật cần thiết như phát triển các ngành mới, công nghệ mới, vật liệu mới có khả năng tạo tạo những bước đột phá, thúc đẩy các ngành, sản phẩm khác phát triển, mà vốn đầu tư lớn, khả năng rủi ro cao nên khu vực kinh tế tư nhân không muốn làm. Sau khi hoàn thành sứ mệnh tiên phong, gánh chịu rủi ro ban đầu, Nhà nước nên tiến hành cổ phần hoá, chuyển giao các doanh nghiệp này cho khu vực kinh tế tư nhân để nâng cao hiệu quả kinh doanh một cách lâu bền, đồng thời Nhà nước thu hồi vốn để tiếp tục đầu tư vào các công nghệ, sản phẩm mũi nhọn khác.
- Thứ hai, phương thức tác động gián tiếp thông qua việc tạo lập môi trường. Có thể hiểu phương thức này là Nhà nước tạo lập một môi trường kinh doanh thuận lợi, bao gồm: sự ổn định về chính trị, an ninh, quốc phòng; ổn định về kinh tế vĩ mô; một hệ thống thị trưòng đồng bộ, hoàn thiện; môi trường pháp lý thông thoáng và minh bạch; bộ máy hành chính hoạt động hiệu quả, trong sạch; một môi trường tâm lý khuyến khích và tôn vinh các hoạt động sản xuất kinh doanh, làm giầu chân chính; môi trường thông tin đa dạng, đầy đủ, chính xác và kịp thời, đặc biệt là các thông tin về chính sách và thị trường.
Môi trường kinh doanh thuận lợi này sẽ tác động tới các chủ thể kinh tế, thúc đẩy, khuyến khích, hướng dẫn các chủ thể kinh tế phát huy sự năng động sáng tạo, khai thác các tiềm năng, phát triển sản xuất kinh doanh. Bằng các quy luật thị trường, các nguồn lực sẽ được khai thác, phân bổ tập trung vào các ngành, các lĩnh vực, các sản phẩm có thế mạnh, có lợi thế so sách, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách hiệu quả và bền vững. Đây có thể coi là phương thức tác động cơ bản, lâu dài và hiệu quả nhất của Nhà nước đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Thứ ba, phương thức tác động gián tiếp tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển khoa học công nghệ, giáo dục, y tế...
Kết cấu hạ tầng, khoa học công nghệ, y tế, giáo dục có vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng c ông nghiệp hoá,hiện đại hoá: hệ thống giao thông, thuỷ lợi, điện, thông tin là những điều kiện kinh tế thiết yếu để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Phát triển y tế, giáo dục vừa là mục tiêu của phát triển kinh tế, vừa là giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Khoa học công nghệ là một bộ phận quan trọng của lực lượng sản xuất. Trong nền kinh tế tri thức, khoa học - công nghệ là yếu tố quyết định tính cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế. Tuy nhiên, đây là những lĩnh vực ít hấp dẫn với thành phần kinh tế NQD vì đầu tư vào các lĩnh vực này đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn và thời gian thu hồi vốn chậm. Do vậy, Nhà nước cần tập trung nguồn lực để đầu tư vào lĩnh vực này.
- Các phương thức tác động trên đây cần được phối hợp thực hiện bằng một hệ thống chính sách đồng bộ. Sự phối hợp giữa các phương thức phải đặt trên một nguyên tắc rõ ràng và nhất quán đó là: phương thức tác động gián tiếp thông qua việc tạo lập môi trường là phương thức hàng đầu, cơ bản và quan trọng nhất, hai phương thức còn lại là phương thức bổ sung, hỗ trợ cho phương thức này. Thông qua việc tạo lập môi trường, Nhà nước làm cho và để cho cơ chế thị trường hoạt động có hiệu quả. Bằng các quy luật kinh tế thị trường, các tiềm năng sẽ được khai thác, các nguồn lực sẽ được phân bổ, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ diễn ra một cách hiệu quả mà không cần có bàn tay trực tiếp của Nhà nước. Kể cả trong lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng, khoa học, công nghệ, y tế, giáo dục, Nhà nước cũng cần tạo mọi điều kiện để phát huy những khả năng to lớn của cơ chế thị trường. Nhà nước chỉ nên tập trung nguồn lực để giải quyết những vấn đề mà cơ chế thị trường không giải quyết được hoặc giải quyết kém hiệu quả.
-Hơn 20 năm đổi mới chính phủ việt nam đã đưa đất nước thoát khỏi tinh trạng nghèo đói,xây dựng nền kinh tế công nghiệp hoá, đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đi đôi với sự công băng tương đối trong xã hội.Trong tương lai Việt Nam đang cố gắng để cải cách hành chính để tạo ra một thể chế năng động , đáp ứng nhu cầu phát triển của đat n ước trước xu thế hội nhập của toàn cầu .
III.ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐẾN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ THÔNG QUA CÁC HỆ SỐ
Hệ số chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam thời kỳ 1990-2007 được thể hiện qua bảng sau:
1.Hệ số chuyển dịch cơ cấu kinh tế và độ lệch tỷ trọng
Cơ cấu GDP phân theo ngành kinh tế
Năm
1990
1994
1995
1999
2000
2004
2005
2007
GDP(%)
100
100
100
100
100
100
100
100
Nông nghiệp
38,7
27,4
27,2
25,4
24,5
20,4
20,9
20,7
Công nghiệp
22,7
28,9
28.8
34,5
36,7
41,1
41
40.7
Dịch vụ
38,6
43,7
44,1
40,1
38,7
38,5
38,1
38.6
ơ
Chuyển dịch cơ cấu của hai ngành nông nghiệp và phi nông nghiệp
ơ
Giai đoạn
1990-1994
1995-1999
2000-2004
2005-2007
cosq°
0,97957
0,99959
0,99799
0,99999
gócq°
11,6
1,64
3,64
0,256
hệ số k
0.129
0,018
0.040
0,00284
Độ lệch tỷ trọng(dnn)
-11.31
-1,75
-4,13
-0,2
1.1.Độ lệch tỷ trọng nông nghiệp dnn thời kỳ 1990-2007 âm:
+ Giai đoạn 1990-1994: -11,3%
+ Giai đoạn 1995-1999: -1,75%
+ Giai đoạn 2000-2004: -4,13%
+ Giai đoạn 2005-2007: -0,2%
- Số liệu này cho thấy, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa diễn ra bình thường.
- Hệ số k chuyển dịch cơ cấu kinh tế của hai ngành nông nghiệp và phi nông nghiệp thờI kỳ 1990-2007 đều dương và nhỏ hơn ½ cho thấy: cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo đúng hướng công nghiệp hóa nhưng chưa có sự chuyển dịch mạnh mẽ.
- Trong bốn giai đoạn thì giai đoạn 2005-2007 có sự chuyển dịch cơ cấu chậm nhất (k=0,00284) so với ba giai đoạn còn lại.
- Từ đó ta xem xét sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của hai ngành dịch vụ và sản xuất vật chất:
Giai đoạn
1990-1994
1995-1999
2000-2004
2005-2007
cosq°
0,99512
0,99696
0,99999
0,99996
gócq°
5,663
4,4690
0,256
0,512
hệ số k
0,0629
0,0497
0,00284
0.00867
Độ lệch tỷ trọng dịch vụ(dv)
5,1
-4
-0,2
-0,5
1.2.Độ lệch tỷ trọng dịch vụ ddv thời kỳ 1990-2007
+Giai đoạn 1990-1994: 5,1%
+Giai đoạn 1994-1999: -4%
+Giai đoạn 2000-2004: -0,2%
+Giai đoạn 2005-2007: -0,5%
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa diễn ra bình thường
- Hệ số chuyển dịch cơ cấu kinh tế của hai ngành dịch vụ và sản xuất vật chất trong thời kỳ từ 1990-1994 đều dương và nhỏ hơn ½ cho thấy cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa nhưng chưa có sự chuyển dịch mạnh mẽ.
- Còn từ giai đoạn 1995-2007 thì cơ cấu kinh tế chuyển dịch không theo hướng công nghiệp hóa, và giảm tỷ trọng của ngành dịch vụ trong GDP
- Trong bốn giai đoạn thì giai đoạn từ năm 2000-2004 có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm nhất (k= 0,00284) so vớI ba giai đoạn còn lại.
- Để đánh giá vai trò của đầu tư tác động như thế nào đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế chúng ta dùng các chỉ tiêu sau:
2.Hệ số co giãn
Tỷ trọng vốn đầu tư theo ngành kinh tế(%)
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Nông nghiệp
0,14
0,09
0,08
0,08
0,08
0,08
0,07
0,06
Công ngiệp xây dựng
0,39
0,43
0,42
0,42
0,43
0,43
0,42
0,44
Dịch vụ
0,47
0,48
0,49
0,5
0,49
0,49
0,5
0,5
Tốc độ tăng trưởng GDP
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
GDP
6,8
6,9
7,1
7,3
7,8
8,4
8,2
8,4
Nông lâm thủy sản
4,63
2,89
4,17
3,62
4,36
4,02
3,3
3
Công nghiệp xây dựng
10,07
10,39
9,48
10,48
10,22
10,69
10,37
10,4
Dịch vụ
5,32
6,1
6,54
6,45
7,26
8,48
8,29
8,5
2.1.Hệ số co giãn giữa việc thay đổi cơ cấu đầu tư ngành với thay đổi GDP
Giai đoạn
2000-2001
2002-2003
2004-2005
2006-2007
Nông lâm thủy sản
-0,5
-0,05
0
-0,05
Công nghiệp xây dựng
0,4
0
0
0,1
Dịch vụ
0,1
0,05
0
0
- Trong giai đoạn từ năm 2000-2007 có xu hướng là giảm tỷ trọng đầu tư vào ngành nông nghiệp:
+ Giai đoạn 2000-2001: thì để góp phần đưa tăng trưởng kinh tế lên 1% thì chúng ta giảm tỷ trọng đầu tư của ngành nông nghiệp đi 50% so với năm 2000
+ Giai đoạn 2002-2003: thì để góp phần đưa tăng trưởng kinh tế lên 1% thì chúng ta giảm tỷ trọng đầu tư của ngành nông nghiệp đi 5% so với năm 2002
+ Giai đoạn 2004-2005: để góp phần đưa tăng trưởng kinh tế lên 1% thì chúng ta giữ nguyên tỷ trọng đầu tư vào ngành nông nghiệp so với năm 2004
+ Giai đoạn 2006-2007: thì để góp phần đưa tăng trưởng kinh tế lên 1% thì chúng ta giảm tỷ trọng đầu tư vào ngành nông nghiệp đi 5% so với năm 2006
Trong giai đoạn từ năm 2000-2007 có xu hướng là tăng tỷ trọng đầu tư vào ngành công nghiệp:
+ Giai đoạn 2000-2001: thì để góp phần đưa tăng trưởng kinh tế lên 1% thì chúng ta tăng tỷ trọng đầu tư của ngành công nghiệp thêm 40% so với năm 2000
+ Giai đoạn 2002-2003: thì để góp phần đưa tăng trưởng kinh tế lên 1% thì chúng ta phải giữ nguyên tỷ trọng đầu tư của ngành công nghiệp so với năm 2003
+Giai đoạn 2004-2005:thì để góp phần đưa tăng trưởng kinh tế lên 1% thì phải giữ nguyên tỷ trọng của ngành công nghiệp so với năm 2004
+ Giai đoạn 2006-2007: thì để góp phần đưa tăng trưởng kinh tế lên 1% thì chúng ta tăng tỷ trọng đầu tư vào ngành nông nghiệp thêm 10%
- Trong giai đoạn từ năm 2000-2007 có xu hướng là tăng tỷ trọng đầu tư vào ngành dịch vụ, nhưng tăng không mạnh:
+ Giai đoạn 2000-2001: thì để góp phần đưa tăng trưởng kinh tế lên 1% thì chúng ta tăng tỷ trọng đầu tư của ngành dịch vụ thêm 10% so vớI năm 2000
+ Giai đoạn 2002-2003: thì để góp phần đưa tăng trưởng kinh tế lên 1% thì chúng ta phải tăng tỷ trọng đầu tư của ngành dịch vụ thêm 5% so với năm 2002
+ Giai đoạn 2004-2005: thì để góp phần đưa tăng trưởng kinh tế lên 1% thì chúng ta phảI giữ nguyên tỷ trọng đầu tư vào ngành dịch vụ so với năm 2004
+Giai đoạn 2006-2007:thì để góp phần đưa tăng trưởng kinh tế lên 1% thì chúng ta phải giữ nguyên tỷ trọng đầu tư vào ngành nông nghiệp so với năm 2006
2.2.Hệ số co giãn giữa việc thay đổi cơ cấu đầu tư với thay đổi kinh tế ngành
Giai đoạn
2000-2001
2002-2003
2004-2005
2006-2007
Nông lâm thủy sản
0,0385
0,02
0
-0,059
Công nghiệp xây dựng
0,02860
0
0
-0,067
Dịch vụ
-0,1
0,01
0
0
Đối với ngành nông nghiệp:
-Giai đoạn 2000-2001:để tăng 1% tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong tổng GDP thì phải đầu tư cho ngành tăng thêm 3,85% so với năm 2000
- Giai đoạn 2002-2003:để tăng tỷ trọng của ngành nông nghiệp lên 1% trong tổng GDP thì phải đầu tư cho ngành tăng thêm 2% so với năm 2003
-Giai đoạn 2004-2005:để tăng tỷ trọng của ngành nông nghiệp lên 1% trong tổng gdp thì phải giữ nguyên tỷ trọng đầu tư cho ngành so với năm 2004
-Giai đoạn 2006-2007:để tăng 1% tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong tổng GDP thì giảm tỷ trọng đầu tư vào ngành 5,9% so với năm 2006.
Đối với ngành công nghiệp:
-Giai đoạn 2000-2001: để tăng 1% tỷ trọng của ngành công nghiệp trong tổng GDP thì phải tăng đầu tư cho ngành thêm 2,86% so với năm 2000
-Giai đoạn 2002-2003:để tăng 1% tỷ trọng của ngành công nghiệp trong tổng GDP thì giữ nguyên đầu tư cho ngành so với năm 2002
-Giai đoạn 2004-2005: để tăng 1% tỷ trọng của ngành công nghiệp trong tổng GDP thì giữ nguyên đẩu tư cho ngành so với năm 2004.
-Giai đoạn 2006-2007:để tăng 1% tỷ trọng của ngành công nghiệp trong tổng GDP thì giảm đầu tư cho ngành đi 6,7% so với năm 2006.
Đối với ngành dịch vụ:
-Giai đọan 2000-2001: để tăng 1% tỷ trọng của ngành dịch vụ trong tổng GDP thì phải giảm đầu tư vào ngành 10% so với năm 2000.
-Giai đoạn 2002-2003:để tăng 1% tỷ trọng của ngành dịch vụ trong tổng GDP thì phải tăng đầu tư cho ngành thêm 1% so với năm 2002.
-Giai đoạn 2004-2005:để tăng 1% tỷ trọng của ngành trong tổng GDP thì phải gĩư nguyên đầu tư vào ngành so với năm 2004.
-Giai đoạn 2006-2007: để tăng 1% tỷ trọng của ngành trong tổng GDP thì phải giữ nguyên tỷ trọng đầu tư vào ngành so với năm 2006.
IV.HẠN CHẾ CỦA ĐẦU TƯ VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
1. Hạn chế của hoạt động đầu tư
Trong thời gian qua bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, hoạt động đầu tư tại Việt Nam vẫn tồn tại khá nhiều mặt hạn chế và cần được khắc phục. Đó chính là những bài toán đặt ra cho Đảng và Nhà nước tìm các lời giải đáp thoả đáng để hướng nền kinh tế quốc dân hướng tới một sự phát triển bền vững.
1.1. Tình trạng lãng phí, thất thoát vốn đầu tư.
Đây là những hạn chế, yếu kém có tính đặc thù của nền kinh tế Việt Nam, một nền kinh tế mới bước vào thị trường. Có nhiều quyết định đầu tư sai mục tiêu, sai đối tượng đầu tư đã gây thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế quốc dân, cho đất nước và cả xã hội. Điều đó đã làm giảm niềm tin của nhân dân và các dự án đầu tư mà chính họ là người mong mỏi nhất. Đó là sự yếu kém trong công tác quản lý, lãnh đạo của các cơ quan có trách nhiệm trực thuộc.
Có thể lấy ví dụ trong khoảng thời gian từ năm 2005 – 2007 Bộ Kế Hoạch Đầu Tư, Bộ Tài Chính, Kiểm Toán Nhà Nước, các Ngành, địa phương đã tiến hành hàng ngàn cuộc thanh tra các dự án, công trình của các cấp. Trong đó, Bộ Kế Hoạch Đầu Tư đã phát hiện 14 vụ sai phạm kinh tế với tổng số tiền sai phạm là 101,4 tỷ đồng. Bộ Tài Chính tiến hành thanh tra 14 dự án do các Bộ ngành Trung ương và 18 địa phương quản lý thì phát hiện số tiền sai phạm là 3212 tỷ đồng. Cũng trong thời gian nói trên, Kiểm toán nhà nước cũng tiến hành 65 cuộc sử lý sai phạm, với số tiền phạt sử lý lên đến 1068 tỷ đồng.
Mặc dù vậy các quyết định sai phạm này hầu hết chưa được làm rõ trong các báo cáo gửi các cơ quan trực thuộc hay chịu trách nhiệm liên quan.
1.2. Tình trạng đầu tư dàn trải phân tán.
Các dự án đầu tư thường bị kéo dài thời gian thực hiện, thời kỳ đầu tư theo đó mà cũng bị kéo dài theo. Nguyên nhân là do một số những điều kiện khách quan như việc giải phóng mặt bằng khó khăn dẫn đến làm chậm tiến độ đầu tư gây tốn kém, giá đất tăng làm cho lượng vốn đầu tư cần phải đầu tư tăng lên. Nếu không đáp ứng được gây cho tiến độ thi công dự án chậm, công trình dở dang nhiều. Nguồn vốn còn có thể bị ảnh hưởng đến lãi suất dẫn đến hiện tượng lãi suất liên tục trồng lên vốn vay. Điều này làm cho nguồn vốn đầu tư bị phân tán.
1.3. Công tác quy hoạch dự án đầu tư còn thiếu tâm lý chiến lược
Đây cũng có thể coi là một trong những yếu kém hạn chế cố hữu của quá trình thực hiện đầu tư của nước ta. Lý do bởi chất lượng quy hoạch thấp, năng lực của đội ngũ cán bộ quy hoạch chưa đủ tầm.
Trước thực tế này, chúng ta nhận thấy rằng phải đưa công tác quy hoạch lên hàng đầu. Đó là điều kiện kiên quyết bảo đảm sự hiệu quả của hoạt động đầu tư. Hoạt động quy hoạch giờ đây phải được đảm bảo phù hợp với tổng thể, gắn kết với quy hoạch ngành, quy hoạch vùng miền, đảm bảo an ninh quốc gia, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, đáp ứng được chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng và Nhà nước. Quy hoạch đầu tư phải khai thác được các thế mạnh của đất nước, của các vùng lãnh thổ, đảm bảo khả năng quản lý đúng tầm, phát triển có hệ thống trong dài hạn và trong tương lai xa.
Những dự án đầu tư phải phù hợp và tránh phá vỡ, đảo lộn những quy hoạch như ở hiện tại. Công tác quy hoạch phải được chỉ đạo từ Trung ương đến địa phương, từ cấp độ vĩ mô đến vi mô, phù hợp với chiến lược của đất nước.
1.4. Cơ cấu đầu tư còn có nhiều bất hợp lý
Các nguồn đầu tư tập trung chủ yếu vào các vũng có điều kiện tự nhiên thuận lợi hay các ngành có tỷ suất sinh lời cao. Điều này dẫn đến sự phát triển của một bộ phận ngành kinh tế hay một vũng lãnh thổ thu hút được đầu tư. Các vùng, ngành có điều kiện thuận lợi lại càng được đầu tư nhiều trong khi các nguồn đầu tư rất hạn chế tới một số khu vực khó khăn như miền núi phía Bắc, một số miền Trung và Tây Nguyên.
1.5. Tình trạng nợ đọng vốn đầu tư còn khá lớn và kéo dài.
Do các kế hoạch triển khai hoạt động đầu tư của Bộ, ngành, địa phương còn chậm. Nhiều phần vay chúng ta phải danh để trả nợ cũ. Đó cũng là hậu quả tất yếu của các dự án đầu tư chưa được quy hoạch. Ngày càng tăng các dự án chưa đủ các thủ tục để tiến hành hoạt động đầu tư nhưng vẫn được phê duyệt đầu tư làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả đầu tư.
1.6. Tính công khai, minh bạch của các nguồn đầu tư trong các dự án đầu tư là chưa cao.
Nguyên nhân của tình trạng này một phần là do công tác quản lý chưa cao. Các bộ, ngành quản lý còn chưa có trách nhiệm và có một số cố ý làm trái, làm sai dẫn đến tham ô, tham nhũng các nguồn đầu tư của Nhà nước.
Việc thực hiện giám sát, quản lý chất lượng công trình cũng như xử lý sai phạm còn nhiều hạn chế, có phần nương nhẹ làm cho hoạt động đầu tư có nhiều thất thoát tiêu cực.
1.7. Hệ thống pháp luật, chính sách đầu tư còn đang trong quá trình thực hiện nên thiếu sự đồng bộ và ổn định.
1.8. Tỷ lệ các dự án đổ bể, các dự án phải giải thể trước thời hạn là khá cao. Một số dự án quy mô lớn, trọng điểm nhưng lại bị chậm triển khai hoặc tiến độ thi công rất hạn chế không đảm bảo.
1.9. Làm cho phúc lợi xã hội đối với các địa phương được đầu tư và không được đầu tư có sự chênh lệnh đáng kể.
2. NHỮNG HẠN CHẾ CỦA CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ TẠI VIỆT NAM
Các hoạt động đầu tư trong cả nước và nước ngoài của Việt Nam trong thời gian qua nhìn chung là có sự tăng trưởng đều qua các năm. Các nguồn vốn đầu tư đã đăng ký và tỷ lệ các nguồn vốn thực hiện cũng tăng cao. Điều này đã chứng tỏ môi trường đầu tư tại Việt Nam đang từng bước được cải thiện và hấp dẫn được các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Một nguồn đầu tư đủ mạnh, đúng trọng tâm sẽ như một liều thuốc kích thích một ngành kinh tế hay cả một nền kinh tế. Từ sự đầu tư đó các nguồn kinh tế đầu tư đúng sẽ phát triển cả về lượng và chất theo cả chiều rộng và chiều sâu. Kéo theo sự phát triển của các cơ sở kinh tế được đầu tư đúng đắn là sự phát triển của các vùng lãnh thổ, nơi các cơ sở kinh tế được tạo dựng nên.
Đất nước ta đang trong quá trình đổi mới, các nguồn lực đầu tư là tối quan trọng với công cuộc phát triển đất nước và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu hướng thế giới và sự phát triển tự nhiên của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn kinh tế thị trường. Quá trình đầu tư của nước ta khi đã đạt được những kết quả quan trọng nhưng hoạt động này tất yếu dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bởi vậy vẫn tồn tại nhiều mặt hạn chế của cơ cấu kinh tế Việt Nam.
2.1. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế này xảy ra giữa các ngành kinh tế với sự phát triển không đồng đều về quy mô và tốc độ phát triển.
Mục đích cao nhất của các nhà đầu tư là lợi nhuận. Do đó những lĩnh vực, dự án, ngành có tỷ suất lợi nhuận cao đều các nhà đầu tư quan tâm. Còn những dự án, lĩnh vực dù có sự cấp thiết cho dân sinh, có hiệu quả phục lợi cho xã hội nhưng không đưa lại lợi nhuận thoả đáng thì sẽ không thu hút được các nguồn đầu tư.Do đó các ngành được đầu tư sẽ có sự phát triển vượt bậc, ngược lại các ngành cần vốn đầu tư nhưng lại thiếu sự đầu tư của các nhà đầu tư sẽ không phát triển hoặc ngày càng bị rơi vào tình trạng lạc hậu so với thế giới. Điều đó sẽ dẫn đến sự mất cần đối về các ngành nghề kinh tế quốc dân.
2.2. Sự mất cân đối về cơ cấu kinh tế tại các vùng lãnh thổ.
Nguyên nhân chính là sự đầu tư ồ ạt của các nhà đầu tư vào các vùng kinh tế trọng điểm. Nơi có môi trường đầu tư tốt sẽ dẫn đến sự phát triển vượt trội so với các vùng kinh tế khác. Hơn nữa các nhà đầu tư trong khi lựa chọn địa điểm để triển khai các dự án đầu tư thường tập chung vào những nơi có kết cấu hạ tầng Kinh tế - Xã hội thuận lợi. Do đó các thành phố lớn, những địa phương có cảng biển, cảng hàng không, các tỉnh đồng bào có điều kiện địa lý, giao thông thuận lợi sẽ là nơi thu hút được nhiều nguồn đầu tư nhất. Trong khi đó các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, những địa phương cần được đẩy nhanh phát triển kinh tế, mặc dù Chính phủ và chính quyền địa phương đã có nhiều ưu đãi nhưng vẫn không được các nhà đầu tư quan tâm. Điều đó đặt ra một bài toán khó cho nền kinh tế quốc dân bởi sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế sẽ làm cho sự di chuyển vốn, lao động, tri thức đến các vùng cần được đẩy nhanh phát triển kinh tế là rất khó.
Điều đó đã đặt ra một nghịch lý, những địa phương có trình độ phát triển kinh tế cao thì thu hút được vốn đầu tư nhiều do đó tốc độ phát triển kinh tế thường vượt quá tốc độ phát triển trung bình cả nước. Trong khi đó những vùng có trình độ kém phát triển thì có ít dự án đầu tư, tốc độ phát triển kinh tế thấp.
2.3. Các nguồn đầu tư đã dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của một số thành phần kinh tế trọng điểm.
Sự phát này đòi hỏi một sự đầu tư lớn , do đó sự thu hút vốn đầu tư vào các ngành này làm cho tỷ trọng đầu tư vào các thành phần kinh tế khác giảm mạnh. Góp phần làm tăng sự chênh lệnh của các thành phần kinh tế.
2.4.Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế có thể đem lại nhiều lợi ích đối với nền kinh tế.Tuy nhiên để đánh đổi lại có thể là sự mất cân bằng sinh thái, huỷ hoại môi trường tự nhiên, môi trường sống của con người bị ảnh hưởng.
Sự ảnh hưởng đó chưa đến ngay trong thời gian gần nhưng sẽ là sự tác động to lớn trong tương lai. Vì vậy chúng ta cần có chính sách phát triển nền kinh tế mà vẫn đảm bảo môi trường sống cho con người và sinh thực vật. Đó là điều kiện cho một xu hướng phát triển kinh tế tích cực.
2.5. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn quá chậm, thậm chí có một số lĩnh vực trong tình trạng lạc hậu so với sự phát triển.
Sự chậm trễ này thể hiện ở các bằng chứng sau: Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp sang cơ cấu kinh tế công nghiệp là một trong những điểm yếu nhất của chúng ta hiện nay. Mô hình tăng trưởng chủ yếu của Việt Nam hiện nay là dựa vào những lợi thế so sánh tĩnh. Đó là các nguồn tài nguyên chưa khai thác và nguồn lao động rẻ chưa có kỹ năng. Sản phẩm công nghiệp chủ yếu vẫn là gia công lắp ráp, rất ít sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao. Điều đó thể hiện quá trình Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn có rất nhiều bất cập
CHƯƠNG III : BÀI HỌC VỀ ĐẦU TƯ VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
I . BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM
1. Bài học về thời cơ.
Kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế đã tạo ra thời cơ thuận lợi cho mỗi quốc gia. Thời cơ và thách thức luôn tồn tại đồng thời, khi xuất hiện thời cơ mới thì đồng thời phải đối phó với thách thức mới. Vấn đề đặt ra cho các Chính phủ là phải biết tranh thủ thời cơ bằng đổi mới chính sách và luật pháp, môi trường kinh doanh và đầu tư hấp dẫn, biến thời cơ thành thế lực mới, để vượt qua thách thức đưa đất nước tiến lên. Thời cơ sẽ qua đi nếu không biết tận dụng chúng, thách thức sẽ trở lên nghiêm trọng nếu không có giải pháp đúng để vượt qua.
Nếu chúng ta nắm bắt được thời cơ, nắm bắt được xu thế chuyển dịch thì chính các nguồn đầu tư to lớn để giúp nền kinh tế nước ta chuyển dịch một cách mạnh mẽ và sâu rộng cả về lượng và chất.
Có thể lấy ví dụ: Vào tháng 7 năm 1995 là tháng đầy áp các sự kiện đối ngoại của Việt Nam. Việt Nam ra nhập ASEAN, bình thường hóa quan hệ với Mỹ, ký hiệp định khung về hợp tác với EU. Đây có thể coi là 3 sự kiện lớn tạo ra thời cơ mới cho đất nước.
Ngày 02/07/2007, cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực bắt đầu từ Thái Lan khi nước này thả nổi tỷ giá đồng Bath, tiếp đó lan sang Philippin, Malaixia, Indonexia, Singapo và một số nước ở Châu á khác. Tuy vậy Việt Nam nằm ngoài vòng xoáy của cuộc khủng hoảng và có thể được hưởng lợi do các nước láng giềng gặp khó khăn. Nếu khi đó chúng ta chủ động đề ra các giải pháp để đối phó tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn, tranh thủ nôi kéo các nhà đầu tư muốn di rời nhà máy ở các nước đang khủng hoảng kinh tế sang nước ta. Điều đó đã không thành hiện thực. Thời cơ tạo ra do các sự kiện đối ngoại hội nhập kinh tế quốc tế và thách thức của cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực có thể là cơ hội của chúng ta nhưng đã bị bỏ lỡ rất đáng tiếc.
Hiện nay nước ta đang đứng trước thời cơ mới, vận hội mới. Do đó chúng ta phải biết tranh thủ thời cơ để biến nó thành thế và lực mới đưa đất nước tiến lên.
2. Bài học về lợi ích.
Đối với hoạt động đầu tư, mỗi hình thức đầu tư đều thiết lập nên các mói quan hệ cơ bản về lợi ích, giữa lợi ích đất nước và nhà đầu tư, lợi ích giữa bên nhận đầu tư và bên đầu tư
Lợi ích của đât nước là rất lớn, đòi hỏi lợi ích của từng ngành, của từng địa phương, doanh nghiệp phải phục vụ và đối lập với nó. Thế nhưng trong thực tế đã có nhận thức và hành động tác động tiêu cực đến lợi ích của dân tộc như: Không chịu mở của thị trường, muốn kéo dài tình trạng độc quyền, đề ra điều kiện trả lời pháp luật
Có thể dẫn theo một số ví dụ điển hình:
Ngành bưu chính viễn thông chủ trương không liên doanh và đầu tư 100% vốn nước ngoài trong dịch vụ viễn thông nên hạn chế việc đáp ứng yêu cầu đang gia tăng nhanh chóng với dịch vụ này.
Nhiều doanh nghiệp gây sức ép và bằng một số kênh liên hệ để chính phủ bảo hộ mậu dịch. Tình trạng đó vừa trái với pháp luật của Nhà nước, không phù hợp với các cam kết Quốc tế của nước ta,vừa làm chậm quá trình chuyển sang kinh tế thị trường và hội nhập Quốc tế.
Trong đó có các trường hợp liên doanh mà doanh nghiệp nhà nước Việt Nam liên doanh với nước ngoài thì tình trạng phổ biến là đại diện Việt Nam không đủ năng lực, không đấu trạnh bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp mình thường phó mặc cho người nước ngoài điều hành kinh doanh. Đây là vấn đềcần được giải quyết nếu không muốn biến liên doanh là nơi làm giầu cho một số cá nhân.
Nếu chúng ta dung hòa được lợi ích của cá nhân và tập thể của Quốc gia và địa phương, của cá nhân và cá nhânthì quá trình thu hút đầu tư của chúng ta sẽ có hiệu quả cao. Là bàn đạp cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả.
3. Bài học về lợi thế so sánh.
Mỗi nước đều tìm cách khai thác lợi thế so sánh của đất nước để thu hút nguồn đầu tư. Trong thế giới hiện nay lợi thế so sánh đã biến đổi. Tài nguyên thiên nhiên là một lợi thế không còn đóng vai trò trọng yếu như thời kỳ phát triển công nghiệp chủ yếu dựa vào tài nguyên và vốn. Chính trị vẫn là yếu tố quan trọng nhưng cũng giảm bớt ảnh hưởng do cuộc cách mạng về viễn thông và giao thông vận tải đang làm cho thế giới “Thu nhỏ lại”. Sau sự kiện khủng bố 11/09/2001 vấn đề an ninh kinh tế, an toàn xã hội, ổn định chính trị nổi lên như những vấn đề hàng đầu. Chi phí lao động vẫn được các nhà đầu tư quan tâm nhất là trong các dự án sử dụng nhiều lao động. Nhưng năng suất lao động mới là yếu tố quan trọng gắn với trình độ ngành nghề, năng lực tiếp cận công nghệ hiện đại chất lượng với cơ cấu hợp lý.
10 Nhân tố hàng đầu được nhà đầu tư tính đến khi lựa chọn địa bàn đầu tư.
(mức độ quan trọng)
1. Tiếp cận khách hàng
77%
2. Môi trường chính trị và xã hội ổn định
64%
3. Điều kiện kinh doanh dễ dàng
545
4. Độ tin cậy và chất lượng cơ sở hạ tầng
50%
5. Khả năng thuê chuyên viên có trình độ cao
39%
6. Khả năng thuê nhân viên quản lý
38%
7. Mức độ tham những
36%
8. Chi phí lao động
33%
9. Tội phạm
33%
10. Khả năng thuê lao động kỷ luật
32%
(Nguồn MYGA, điều tra đầu tư trực tiếp nước ngoài tháng 1 năm 2002)
Có thể thấy rằng nếu nhà nước có các chính sách để đảm bảo tốt các điều trên trên thì sẽ làm môi trường đầu tư của nước ta sẽ ngày càng tốt hơn, hấp dẫn các nhà đầu tư. Đầu tư chính là công cụ để giúp nhà nước chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho đường lối của Đảng đã đặt ra phục vụ cho quá trình Công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Lợi thế nổi trội hiện nay của nước ta là ổn định về chính trị gắn với thể chế kinh tế, an ninh và an toàn xã hội đã được đảm bảo so với nhiều nước trong khu vực, tốc độ tăng trưởng cao, thu nhập của người dân tăng lên nhanh chóng sắp vượt qua ngưỡng của nước có thu nhập thấp, dung lượng thị trường ngày càng lớn của hơn 80 triệu dân càng trở nên hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
4. Bài học về chính sách.
Nhờ đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng cũng như cố gắng và tiến bộ trong công tác quản lý nhà nước đã phát huy được nhân tố có ý nghĩa quyết định là tính năng động, sáng tạo và sự nỗ lực phấn đấu của các cấp các ngành.
Hiện nay, trong điều kiện nước ta đã là thành viên của WTO, thì các tập đoàn kinh tế lớn, các nhà đầu tư nước ngoài đòi hỏi nhà nước và chính phủ Việt Nam có những cam kết rõ ràng như công khai minh bạch về luật pháp, thực hiện quy định của WTO về đầu tư có liên quan đến thương mại, về xử lý tranh chấp và đảm bảo các cam kết đó được thực hiện trong cả quá trình đầu tư và vận hành kết quả đầu tư.
5. Bài học về quản lý nhà nước.
Vai trò của nhà nước trong kinh tế thị trường luôn là vấn đề thời sự, gây ra nhiều cuộc tranh cãi trên phạm vi toàn cầu. Hiện nay, quan điểm của phần đông mọi người ủng hộ là đã qua thời kỳ “Nhà nước cai trị”, Nhà nước quản lý đơn thuần bằng mệnh lệnh hành chính, cũng không thể có “Nhà nước yếu và thị trường mạnh”. Ngày nay nhà nước đóng vai trò tạo lập thể chế và cơ sở hạ tầng thuận lợi hấp dẫn để mọi người. Cần đặt trọng tâm công tác quản ký nhà nước vào hành động xúc tiến đầu tư, bởi đây là công đoạn đâu tiên và quan trọng nhất để các nhà đầu tư thực hiện các dự án đầu tư. Hoạt động xúc tiến đầu tư phải đáp ứng được đòi hỏi các nhà đầu tư, không chỉ là giải thích môi trường, luật pháp như trong thời kỳ đầu mà là cụ thể hóa chính sách tiềm năng kinh tế, nguồn nhân lực, dự án phát triển, các quy định ưu đãi về đất đai, thuế, tình trạng giao thông.
II ĐỊNH HƯỚNG ĐẦU TƯ VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ.
Mục tiêu phát triển Kinh tế - Xã hội từ 2006 đến 2010 do đại hội lần thứ X của Đàng đề ra là: Đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế theo hướng bền vững, sớm đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Tận dụng các nguồn đầu tư của trong nước và nước ngoài tạo bàn đạp cho sự phát triển và tăng trưởng kinh tế. Theo đó có xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý. Đẩy mạnh Công nghiệp hóa và hiện đại hóa, tạo nền tảng cho đất nước ta cơ bản thành nước Công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Giữ vững an ninh chính trị, bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, cải thiện đời sống vật chất văn hóa tinh thần của nhân dân, nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trường quốc tế.
III. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ.
1. Nhóm giải pháp về quy hoạch.
Quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định của luật đầu tư trong công tác quy hoạch. Đảm bảo cho sự quy hoạch và phân bố các nguồn vốn trong các ngành, lĩnh vực, sản phẩm. Từ đó có định hướng cho sự chuyển dịch kinh tế đúng hướng.
Cần thay đổi cơ cấu đầu tư, tập trung vào khu vực có khả năng cạnh tranh tốt, trách đầu tư dàn trải, thiếu trọng điểm, kém hiệu quả ở các ngành, địa phương. Nâng cao hiệu quả và sử dụng các nguồn đầu tư, tăng cường huy động đầu tư trong nhân dân, thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Cụ thế hóa quy hoạch và thực hiện nhiệm vụ kế hoạch của từng thời kỳ, xác định cơ cấu đầu tư và phương thức đầu tư phù hợp để thực hiện quy hoạch là một các ngành phải xem xét kỹ tính khả thi và hiệu quả dự án trước khi quy hoạch và có trách nhiệm về quyết định đó. Qua đó hạn chế chi phí không đáng có như làm đi làm lại sửa chữa
2. Nhóm giải pháp về cải cách hành chính.
Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư, đặc biệt là trong việc phê duyệt, cấp phép đầu tư, tăng cường hợp tác hỗ trợ tăng hiệu quả công tác kiểm tra.
Đơn giản hóa và công khai quy trình, thủ tục hành chính đối với hoạt động đầu tư. Thực hiện cơ chế “một cửa” trong việc giải quyết thủ tục đầu tư. Đảm bảo sự thống nhất các quy trình, thủ tục tại địa phương và đồng thời phù hợp với điều kiện cụ thể.
Xử lý kịp thời các vấn đề vướng mắc trong quá trình đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
3. Nhóm giải pháp về cải thiện cơ cấu hạ tầng.
Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là ưu đãi các nguồn vốn nước ngoài, ngân sách nhà nước, ưu tiên các lĩnh vực cấp thoát nước, vệ sinh môi trường, hệ thống đường giao thông cao tốc, các tuyến Bắc – Nam, hai hành lang kinh tế Việt Nam – Trung Quốc.
Đầu tư xây dựng, chỉ đạo giải quyết các việc cung cấp điện nước, nguyên vật liệu cho các cơ sở vật chất, sản xuất.
Khẩn trương xây dựng và ban hành quy chế khuyến khích các thành phần kinh tế của Nhà nước tham gia phát triển kết cấu hạ tầng trong đó có các công trình giao thông, cảng biển, nhà máy.
Tập trung thu hút vốn đầu tư vào một số lĩnh vực như: Bưu chính viễn thông để phát triển các dịch vụ mới và phát triển hạ tầng mạng lưới thông tin.
4. Nhóm giải pháp về chính sách
Để thúc đẩy hoạt động của các nhà đầu tư thì một phần tác động rất lớn vào họ là chính sách của nhà nước. Chính sách đó sẽ quyết định một phần lớn vào quyết định đầu tư của nhà đầu tư. Đối với các dự án đầu tư thực hiện được các mục tiêu quan trọng có tác động tích cực đến phát triển kinh tế của nước ta thì chính sách của nhà nước sẽ là khuyến khích sự đầu tư phát triển và sẽ là ngược lại đối với các hoạt động có tác động tiêu cực.
Tuy nhiên trong quá trình hiện nay để thu hút đầu tư cho nền kinh tế nhà nước, phải thực hiện nhiều chính sách đầu tư. Hỗ trợ nguồn vốn đầu tư đẩy nhanh tiến trình củng cố và phát triển hệ thống ngân hàng thương mại, tiến độ cổ phần hóa Ngân hàng quốc doanh, thúc đẩy tăng quy mô vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại cổ phần. Các ngân hàng này sẽ đảm bảo hỗ trợ nguồn vốn đối với các dự án đầu tư trong và ngoài nước.
Hoàn thiện hơn các điều luật trong bộ luật đầu tư nhằm tạo môi trường thuận lợi, hành lang pháp lý rõ tràng, tạo ra sân chơi kinh tế mở bình đẳng đối với các nhà đầu tư. Tạo điều kiện cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta theo xu hướng mở cửa, theo con đường phát triển của thế giới.
5. Nhóm giải pháp xúc tiến đầu tư.
Các bộ ngành từ Trung ương đến địa phương triển khai nhanh việc thành lập bộ phận xúc tiến đầu tư tại một số địa bàn trọng điểm. Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại ở các cấp, bao gồm ở cả trong nước và nước ngoài nhằm tạo sự phối hợp đồng bộ và phối hợp nâng cao hiệu quả giữa các hoạt động này.
Tổ chức hiệu quả các cuộc hội thảo ở trong nước và nước ngoài. Có chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia trong giai đoạn 2007 – 2010. Đảm bảo kinh phí cho vận động thu hút và đầu tư nước ngoài nhằm đẩy mạnh tuyên truyền quảng bá hình ảnh Việt Nam. Kết hợp chặt chẽ các chuyến công tác lãnh đạo cấp cao của Đảng và nhà nước với các hoạt động xúc tiến đầu tư - thương mại - dịch vụ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6038.doc