Kết luận và khuyến nghị
Dù đã có nhiều nghiên cứu về tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế, nhưng
việc xem xét tác động này theo các nhóm nước trên phạm vi toàn thế giới để có cái
nhìn bao quát hơn về tác động của FDI vẫn chưa được thực hiện. Do đó, để có thể trả
lời câu hỏi liệu tác động của FDI về cơ bản là tác động tích cực nhiều hơn hay tác
động tiêu cực nhiều hơn và liệu các nước khác nhau sẽ nhận được kết quả khác nhau
hay không, đzi hỏi phải có một nghiên cứu mới. Để tìm ra câu trả lời cho hai câu hỏi
trên, nghiên cứu này so sánh tác động giữa các nguồn lực bên ngoài (với vốn FDI là
thước đo) và tăng trưởng kinh tế (với GDP là thước đo) ở các quốc gia có trình độ
phát triển khác nhau, sử dụng dữ liệu bảng được Ngân hàng Thế giới thu thập cho
135 quốc gia trong giai đoạn từ 1990 đến 2015. Kết quả cho thấy ở cả 4 nhóm quốc
gia có trình độ phát triển khác nhau, FDI đều có cả tác động tích cực và tiêu cực đến
tăng trưởng kinh tế. Ở đây, tác động tích cực có nghĩa là các nguồn lực bên ngoài
giúp các nước tăng trưởng kinh tế. Tác động tiêu cực có nghĩa là hiệu ứng lấn át đã
khiến các quốc gia không thể hấp thụ các nguồn lực bên ngoài cho tăng trưởng kinh
tế. Nhưng nhìn chung, số lượng các quốc gia mà FDI tác động tích cực đến GDP
nhiều hơn so với số lượng các quốc gia mà FDI tác động tiêu cực đến GDP. Điều này
có nghĩa là các nguồn lực bên ngoài thực sự giúp cải thiện hiệu suất của các nền kinh
tế nói chung.
16 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 270 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế - Nghiên cứu so sánh giữa các nền kinh tế ở các mức thu nhập khác nhau, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 131 (09/2020) | 65
Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
Trang chủ:
TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TỚI
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ - NGHIÊN CỨU SO SÁNH GIỮA CÁC NỀN
KINH TẾ Ở CÁC MỨC THU NHẬP KHÁC NHAU
Đỗ Thị Thùy Linh1
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh Thái Nguyên, Thái Nguyên, Việt Nam
Vũ Thị Oanh
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh Thái Nguyên, Thái Nguyên, Việt Nam
Ngày nhận: 22/7/2020; Ngày hoàn thành biên tập: 21/9/2020; Ngày duyệt đăng: 25/9/2020
Tóm tắt: Dù đã có nhiều nghiên cứu về tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
tới tăng trưởng kinh tế, nhưng đến nay chưa có cách tiếp cận bao quát hơn về tác động
này theo các nhóm nước trên phạm vi toàn thế giới. Do đó, bài viết sử dụng số liệu từ 135
quốc gia ở 4 nhóm thu nhập khác nhau (theo phân loại của World Bank, 2016) trong giai
đoạn từ 1990 – 2015 để đánh giá tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia
có trình độ phát triển khác nhau, cụ thể là các nước có thu nhập cao, trung bình cao, trung
bình thấp và thấp. Kết quả nghiên cứu cho thấy dù ở trình độ nào, FDI đều có cả tác động
tích cực và tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Số lượng các quốc gia mà FDI tác động tích
cực đến tăng trưởng kinh tế nhiều hơn so với số lượng các quốc gia mà FDI có tác động
tiêu cực. Nghiên cứu cũng chỉ ra Việt Nam thuộc nhóm các quốc gia mà FDI có đóng góp
tích cực cho tăng trưởng của nền kinh tế.
Từ khóa: Đầu tư trực tiếp nước ngoài, Tăng trưởng kinh tế, Nước thu nhập cao, Nước thu
nhập trung bình cao, Nước thu nhập trung bình thấp, Nước thu nhập thấp
THE IMPACT OF FOREIGN DIRECT INVESTMENT
ON ECONOMIC GROWTH - A COMPARISON AMONG ECONOMIES
WITH DIFFERENT INCOME LEVELS
Abstract: Despite many studies on the impact of foreign direct investment (FDI) on
economic growth, analyzing this relationship by groups of countries around the world for
a more comprehensive view on the impact of FDI has yet been done. Therefore, this
research uses data from 135 countries in 4 different income groups (according to the
World Bank’s classification, 2016) from 1990 to 2015 to assess whether foreign capital
has a positive relationship with economic growth in countries with different levels of
income, namely, high-income, upper middle-income, lower middle-income, and low-
income. The results show that regardless of the level of income, there are countries where
FDI has a positive impact on GDP in addition to countries where FDI has a negative
1 Tác giả liên hệ, Email: aicap83@yahoo.com
66 | Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 131 (09/2020)
impact on economic growth. The number of countries where FDI has a positive impact on
economic growth is greater than the number of countries where FDI has a negative impact
on economic growth. The study also shows that Vietnam belongs to the group of
countries where FDI has a positive contribution to economic growth.
Keywords: Foreign direct investment (FDI), Economic growth, High-income countries,
Upper middle-income countries, Lower middle-income countries, Low income countries
1. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá trên mọi lĩnh vực, các
quốc gia đều cần huy động mọi nguồn lực để phát triển bền vững. Do đó, thu hút vốn
đầu tư nước ngoài làm tiền đề cho phát triển kinh tế là tất yếu đối với mỗi quốc gia.
Một số nghiên cứu ủng hộ cho rằng nguồn vốn nước ngoài sẽ đem lại lợi ích cho cả
quốc gia đầu tư và nhận đầu tư, thông qua việc tạo thêm công ăn việc làm, cắt giảm
chi phí và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực kinh tế, từ đó thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế quốc gia. Những nghiên cứu không ủng hộ lại cho rằng nguồn vốn đầu
tư nước ngoài sẽ dẫn tới việc phụ thuộc của nền kinh tế, gây bất ổn về mặt chính trị
và ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh doanh và sinh thái trong nước.
Các nước đã có rất nhiều chính sách nhằm thu hút các nguồn vốn bên ngoài, bao
gồm đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư gián tiếp nước ngoài, xuất nhập khẩu hàng
hoá và dịch vụ, kiều hối và xuất khẩu lao động, các khoản viện trợ từ các tổ chức
quốc tế và các quốc gia phát triển (Nguyễn, 2014). Trong các nguồn vốn này, đầu tư
trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment - FDI) được coi là một nguồn lực
quan trọng giúp các quốc gia phát triển. Trong 30 năm qua, Việt Nam đã thu hút hàng
tỷ đô la vốn đầu tư từ rất nhiều doanh nghiệp FDI và nguồn vốn này đang chiếm tỷ
trọng ngày càng tăng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội (Đỗ, 2017). Cạnh tranh thu
hút FDI không chỉ diễn ra ở cấp quốc gia mà còn giữa các địa phương trong cùng một
quốc gia, dẫn đến việc các doanh nghiệp nước ngoài được hưởng rất nhiều ưu đãi khi
tiến hành các dự án FDI. Tuy nhiên, việc đánh giá hiệu quả khai thác các nguồn lực
bên ngoài nói chung và FDI nói riêng cho tăng trưởng kinh tế lại chưa được chú trọng
đúng mức. Cho đến nay, vẫn chưa có một bộ tiêu chuẩn thống nhất cho đánh giá này.
Tất nhiên, điều này không hề đơn giản và đzi hỏi sự đánh giá đa chiều trên mọi khía
cạnh kinh tế - chính trị - xã hội - văn hoá.
Như vậy, vốn đầu tư bên ngoài có hai mặt tác động, tích cực và tiêu cực. Nhưng
liệu tác động tích cực có lớn hơn? Liệu FDI có tạo nên các tác động không đồng nhất
đối với tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia có trình độ phát triển không tương đồng?
Dù đã có nhiều nghiên cứu về tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế, nhưng vẫn
chưa có nghiên cứu nào xem xét tác động này trên phạm vi toàn thế giới để đánh giá
tác động của FDI về cơ bản là tác động tích cực hay tác động tiêu cực nhiều hơn và
các nước khác nhau sẽ nhận được kết quả khác nhau hay không. Để tìm ra câu trả lời
cho hai câu hỏi trên, nghiên cứu sử dụng số liệu từ 135 quốc gia ở 4 nhóm thu nhập
khác nhau (World Bank, 2016) trong thời gian từ 1990 - 2015 để đánh giá có hay
không tác động thuận chiều giữa nguồn vốn nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế ở
các quốc gia có trình độ phát triển khác nhau, cụ thể là các nước có thu nhập cao,
Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 131 (09/2020) | 67
trung bình cao, trung bình thấp và thấp. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển với
tốc độ nhanh trong khu vực và trên thế giới. Nguồn vốn FDI có thực sự có tác động
tích cực đối với sự tăng trưởng kinh tế trong nước? Bài viết này cũng sẽ trả lời câu
hỏi trên.
2. Tổng quan nghiên cứu
FDI là một nguồn lực tài chính bên ngoài quan trọng và được kỳ vọng mang lại
tăng trưởng kinh tế cao cho các nước nhận đầu tư. Do đó, đã có rất nhiều nghiên cứu
về mối liên hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia.
Tác động của FDI đến tăng trưởng kinh tế được nghiên cứu đánh giá qua các mô
hình tăng trưởng tân cổ điển. Trong đó, mô hình này cho rằng yếu tố tiến bộ công
nghệ và vốn nhân lực là ngoại sinh, do đó FDI làm tăng mức thu nhập trong nước khi
nó không có tác dụng dài hạn lên tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng dài hạn có thể có
thông qua sự phát triển công nghệ và dân số. Solow (1956) cho rằng, nếu FDI ảnh
hưởng tích cực đến công nghệ thì nó tác động lên tăng trưởng kinh tế. Somwaru và
Makki (2004) chỉ ra theo lý thuyết tăng trưởng nội sinh, FDI thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế nếu gia tăng lợi nhuận trong sản xuất bằng việc chuyển giao công nghệ. Iqbal
& cộng sự (1998) xác định tầm quan trọng của vốn nhân lực và độ mở của nền kinh tế
đối với sự tăng trưởng. Borensztein & cộng sự (1998) cho thấy đầu tư trực tiếp nước
ngoài là một kênh quan trọng trong chuyển giao công nghệ và có đóng góp nhiều hơn
đến tăng trưởng kinh tế so với đầu tư nội địa. Tuy nhiên, năng suất cao hơn của FDI
chỉ thành hiện thực khi nước tiếp nhận phải có một ngưỡng vốn nhân lực tối thiểu, tức
là FDI sẽ đóng góp đến sự tăng trưởng kinh tế chỉ khi nước tiếp nhận có đủ khả năng
hấp thụ công nghệ tiên tiến.
Các công trình nghiên cứu về tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế được thực
hiện chủ yếu đối với tổng thể quốc gia, như các nghiên cứu của: Har & cộng sự
(2008); Nair-Reichert & Weinhold (2001); Roman & Padureanu (2012); Trần (2017)...
Nhìn chung, các nghiên cứu đều chỉ ra tính tích cực của FDI đến tăng trưởng kinh tế,
nhưng vẫn có những nghiên cứu cho thấy FDI ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng
kinh tế. Như vậy, các kết quả nghiên cứu vẫn chưa thống nhất với nhau về ảnh hưởng
của FDI đến tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, các công trình này mới chỉ dừng lại ở việc
chỉ ra liệu FDI có tác động thuận chiều hay ngược chiều với tăng trưởng kinh tế ở
một hay một vài quốc gia nhỏ lẻ, mà rất ít có những nghiên cứu tổng quan về tác
động của FDI tới tăng trưởng kinh tế trên phạm vi tất cả các quốc gia ở các trình độ
phát triển khác nhau. Bài viết này sẽ tập trung nghiên cứu vấn đề này đối với các
nước có mức thu nhập khác nhau từ thấp đến cao.
3. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
3.1 Cơ sở lý thuyết
3.1.1 Lý thuyết tăng trưởng ngoại sinh
Lý thuyết tăng trưởng ngoại sinh, thường được gọi là mô hình tăng trưởng tân cổ
điển hoặc mô hình tăng trưởng Solow-Swan do Solow (1956) tiên phong. Đây là mô
hình tăng trưởng ngoại sinh, một mô hình kinh tế về tăng trưởng kinh tế dài hạn được
thiết lập dựa trên nền tảng và khuôn khổ của kinh tế học tân cổ điển. Mô hình này
được đưa ra để giải thích sự tăng trưởng kinh tế dài hạn bằng cách nghiên cứu quá
68 | Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 131 (09/2020)
trình tích lũy vốn, lao động hoặc tăng trưởng dân số và sự gia tăng năng suất, thường
được gọi là tiến bộ công nghệ. Bản chất chính là hàm tổng sản xuất tân cổ điển,
thường là dưới dạng hàm Cobb-Douglas, cho phép mô hình “liên kết được với kinh tế
học vi mô”. Mô hình đã được Robert Solow và Trevor Swan phát triển độc lập năm
1956, thay thế mô hình hậu Keynesian Harrod-Domar. Lý thuyết này cho rằng kinh tế
tăng trưởng được tạo ra thông qua các yếu tố ngoại sinh của các sản xuất như vốn và
lao động. Barro & Sala-I-Martin (2004) chứng minh rằng, có tác động tích cực giữa
tích lũy vốn theo thời gian và tăng trưởng kinh tế. Lý thuyết tăng trưởng ngoại sinh
cho rằng, FDI làm gia tăng vốn ở nước sở tại và sau đó thúc đẩy kinh tế tăng trưởng
hướng tới trạng thái ổn định mới bằng cách tích tụ vốn. Theo lý thuyết tăng trưởng
ngoại sinh thì FDI tác động đến tăng trưởng kinh tế thông qua tác động đến đầu tư
trong nước (Herzer & cộng sự, 2008).
3.1.2 Lý thuyết tăng trưởng nội sinh
Vào giữa những năm 1980, lý thuyết tăng trưởng ngoại sinh đã trở thành lý
thuyết không phù hợp trong việc giải thích các yếu tố quyết định tăng trưởng dài hạn
(Barro & Sala-I-Martin, 1995). Vì vậy, lý thuyết tăng trưởng nội sinh, tiên phong bởi
Romer (1986), trong đó tập trung vào hai yếu tố: tăng trưởng kinh tế có nguồn gốc từ
nguồn nhân lực và sau đó từ thay đổi công nghệ.
Lý thuyết tăng trưởng nội sinh xác định tăng trưởng kinh tế dựa trên tiến bộ công
nghệ là do ảnh hưởng của các yếu tố như nguồn vốn nhân lực và hoạt động đầu tư vào
nghiên cứu và phát triển, và FDI được giả định là hiệu quả hơn đầu tư trong nước
(Herzer & cộng sự, 2008). Do đó, FDI thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua sự lan
tỏa công nghệ, dịch chuyển lao động, đào tạo kỹ năng quản lý và sắp xếp tổ chức
(Barro & Sala-I-Martin, 1995; De Jager, 2004). Kết quả là, đầu tư nước ngoài có thể
làm tăng năng suất nền kinh tế của nước chủ nhà và sau đó FDI có thể được coi như
là chất xúc tác của đầu tư trong nước và tiến bộ công nghệ.
Về mặt lý thuyết, FDI có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng nhiều cách khác
nhau (Herzer & cộng sự, 2008). Một số nhà nghiên cứu cho rằng, những tác động của
FDI tới tăng trưởng kinh tế dự kiến sẽ có hai phần (De Mello, 1999; Kumar &
Pradhan, 2002). Thứ nhất, FDI có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế thông qua
tích lũy vốn bằng cách giới thiệu hàng hóa mới và công nghệ nước ngoài. Quan điểm
này xuất phát từ lý thuyết tăng trưởng ngoại sinh. Thứ hai, FDI có thể thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế thông qua hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) ở nước sở tại về
chuyển giao kiến thức. Quan điểm này xuất phát từ lập luận của lý thuyết tăng trưởng
nội sinh. Vì vậy, FDI về mặt lý thuyết có thể đóng vai trz quan trọng trong tăng
trưởng kinh tế thông qua việc tăng tích lũy vốn, lan truyền công nghệ và sự tiến bộ
(Herzer & cộng sự, 2008). Kết luận này cho thấy, FDI có thể góp phần tăng trưởng
kinh tế và hứa hẹn lợi ích tiềm năng để phát triển ở nước tiếp nhận đầu tư.
3.2 Phương pháp nghiên cứu
3.2.1 Mô hình nghiên cứu
Mô hình tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng trưởng kinh tế
GDP của một quốc gia tại thời điểm t được biểu thị bằng tổng của bốn thành
phần như sau:
Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 131 (09/2020) | 69
ܩܦ ܲ௧ = ܫ௧ + ܥ௧ + ܩ௧ + ܰܺ௧ (1)
Trong đó ܩܦ ܲ௧ là tổng sản phẩm quốc nội trong khoảng thời gian t cho quốc gia
i, ܫ௧ là đầu tư vốn, ܥ௧ là tiêu dùng, ܩ௧ là chi tiêu của chính phủ và ܰܺ௧ là chênh
lệch kim ngạch xuất khẩu so với nhập khẩu. Tất cả các biến trong phương trình (1)
được điều chỉnh cho ngang giá sức mua.
Đầu tư vốn quốc gia có thể được phân tách thành đầu tư vốn trong nước và đầu
tư nước ngoài. Nếu FDI là đầu tư trực tiếp nước ngoài, FII là đầu tư gián tiếp nước
ngoài và DI là đầu tư trong nước, thì ܫ௧ = ܨܦܫ௧ + ܦܫ௧ + ܨܫܫ௧, và phương trình (1)
có thể được viết lại thành:
ܩܦ ܲ௧ = ܨܦܫ௧ + ܦܫ௧ + ܨܫܫ௧ + ܥ௧ + ܩ௧ + ܰܺ௧ (2)
Biết rằng tổng sản phẩm trong nước thời gian trước là
ܩܦ ܲ,௧ିଵ = ܨܦܫ,௧ିଵ + ܦܫ,௧ିଵ + ܨܫܫ,௧ିଵ + ܥ,௧ିଵ + ܩ,௧ିଵ + ܰܺ,௧ିଵ (3)
Trừ hai vế của (2) cho (3), sau đó chia cả hai vế cho ܩܦ ܲ,௧ିଵ, dẫn đến phương
trình sau:
ீି ீ,షభ
ீ,షభ
= ிூି ிூ,షభீ,షభ +
ூି ூ,షభ
ீ,షభ
+ ிூூି ிூூ,షభீ,షభ +
ି ,షభ
ீ,షభ
+
ீି ீ,షభ
ீ,షభ
+ ேି ே,షభ
ீ,షభ
(4)
Vế trái là phần trăm thay đổi trong GDP (%ܩܦ ܲ௧), trong khi các biến khác
được biểu thị bằng phần trăm của GDP.
Như vậy, mô hình tăng trưởng kinh tế trên đã chỉ ra mối quan hệ tuyến tính giữa
FDI và tăng trưởng kinh tế. Với mục đích xây dựng mô hình không phải là cố gắng
dự đoán ảnh hưởng của một biến độc lập riêng lẻ đến biến phụ thuộc, mà chỉ để ước
lượng hệ số tác động của FDI (có tính tới hiệu ứng lấn át sẽ đề cập ở bên dưới) tới
tăng trưởng kinh tế (GDP) ở mỗi quốc gia, nên mô hình trên được viết lại như sau:
ீି ீ,షభ
ீ,షభ
= ߙ + ߙଵ
ிூି ிூ,షభ
ீ,షభ
+ ߙଶ
ூି ூ,షభ
ீ,షభ
+ ߙଷܺ௧ + ߝଵ௧ (5)
Trong đó X là tập hợp các biến giải thích khác, đại diện cho sự tác động trực tiếp
hoặc gián tiếp tới các biến FII, C, G, NX. Việc lựa chọn biến nào để đưa vào mô hình
phụ thuộc vào sự phù hợp với mô hình và sự sẵn có của số liệu thu thập được. Trong
nghiên cứu này, X bao gồm Thay đổi tổng dân số, Thay đổi tỷ lệ tham gia lực lượng
lao động (%), Thay đổi tỷ lệ lạm phát (%), Thay đổi đăng ký điện thoại cố định (một
chỉ tiêu định tính để đánh giá hệ thống cơ sở hạ tầng của một quốc gia), Thay đổi
trong xuất khẩu (% GDP), Thay đổi lãi suất thực (%), Thay đổi tỷ giá hối đoái thực
(%), Thay đổi trong chi tiêu giáo dục thực tế, Thay đổi thủ tục thành lập doanh
nghiệp, Thay đổi tỷ lệ thất nghiệp (%), Thay đổi thuế suất thuế thu nhập (%), Thay
đổi nợ chính phủ (% GDP) và ߝଵ là sai số. Lưu ý, các biến này chỉ là biến kiểm soát,
được đưa vào mô hình nhằm kiểm tra tính nhất quán của các kết quả hồi quy. Nếu
không đưa vào mô hình, thì tác động của tất cả các yếu tố khác ngoài mô hình sẽ
được thể hiện ở hằng số ߙ.
70 | Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 131 (09/2020)
Hiệu ứng lấn át và tăng trưởng kinh tế
FDI là một nguồn vốn, do đó, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trực tiếp thông qua
mức độ tập trung vốn. Nhưng ngoài ảnh hưởng trực tiếp này, FDI cũng có thể ảnh
hưởng đến tăng trưởng thông qua ảnh hưởng của nó đối với vốn trong nước. Nó có
thể làm tăng hay giảm đầu tư trong nước (Mišun & Tomšk, 2002; Wu & cộng sự,
2012). Agosin & Machado (2005) đưa ra câu trả lời bằng cách xem xét sự đóng góp
của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào đầu tư tổng thể, bao gồm cả đầu tư nước ngoài và
trong nước. Một cách tiếp cận khác do Acar & cộng sự (2012) thực hiện, những
người xem xét tác động trực tiếp của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến đầu tư trong
nước. Trong mô hình hồi quy trong đó đầu tư trong nước là biến phụ thuộc và FDI là
biến giải thích, hệ số âm cho thấy hiệu ứng lấn át. Sử dụng cách tiếp cận thứ hai, tỷ lệ
đầu tư trong nước trong GDP quốc gia có thể được viết như là một hàm của tỷ lệ FDI
như sau:
ூି ூ,షభ
ீ,షభ
= ߛ + ߛଵ
ிூି ிூ,షభ
ீ,షభ
+ ߛଶܼ௧ + ߝଶ௧ (6)
Trong đó DI và FDI có cùng ý nghĩa như đã nêu trong phương trình (2), Z là tập
hợp các biến kiểm soát và ߝଶ là sai số. Lưu ý rằng hệ số ߛଵ có thể là dương hoặc âm.
Thay thế (6) vào (5) dẫn đến mô hình mới:
%ܩܦ ܲ௧ = ߙ + ߙଵ
ிூି ிூ,షభ
ீ,షభ
+ ߙଶ[ߛ + ߛଵ
ிூି ிூ,షభ
ீ,షభ
+ ߛଶܼ௧ +
ߝଶ௧] + ߙଷܺ௧ + ߝଵ௧
= (ߙ + ߙଶߛ) + (ߙଵ+ߙଶߛଵ)
ிூି ிூ,షభ
ீ,షభ
+ ߙଶߛଶܼ௧ + ߙଷ ܺ௧ + (ߝଵ + ߙଶߝଶ௧)
=ߚ + ߚଵ
ிூି ிூ,షభ
ீ,షభ
+ ߚଶܼ௧ + ߚଷ ܺ௧ + ߝ௧ (7)
Trong mô hình này, ߚଵ = (ߙଵ + ߙଶߛଵ) phản ánh cả tác động trực tiếp của FDI
đến tăng trưởng GDP trong nước thông qua việc tăng vốn cũng như các tác động gián
tiếp. Nếu hiệu ứng lấn át đủ mạnh, thì ߚଵ có thể nhỏ hoặc thậm chí âm.
Do các quốc gia khác nhau có các đặc điểm điển hình khác nhau, các biến giả sẽ
được đưa vào để xác định các tác động của từng dòng FDI đối với tăng trưởng GDP
của một quốc gia. Theo đó, mô hình (7) có thể được mở rộng như sau:
%ܩܦ ܲ௧ = ߚ + ߚଵ
ிூି ிூ,షభ
ீ,షభ
+ ߚଵ
ிூି ிூ,షభ
ீ,షభ
ܦ + ߚଶܼ௧ + ߚଷܺ௧ + ߝ௧ (8)
trong đó ܦ là biến chỉ báo quốc gia, có giá trị bằng 1 nếu quốc gia là i và bằng 0
nếu khác. Do đó, công cụ ước tính khả năng hấp thụ quốc gia của một quốc gia i sẽ là
tổng của hệ số ước tính ߚଵ và hệ số ước tính của biến giả ߚଵ. Tức là, hệ số của FDI
được phép thay đổi theo quốc gia. Theo Gelman & Hill (2007), các hệ số khác nhau
có thể được coi là sự tương tác giữa các biến giải thích trong nước và các biến giải
thích quốc gia; hồi quy với các hệ số có thể thay đổi theo nhóm được gọi là hồi quy
đa cấp.
Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 131 (09/2020) | 71
3.2.2 Nguồn số liệu
Bài viết này sử dụng dữ liệu được thu thập từ công cụ World Development
Indicators (WDI) của Ngân hàng Thế giới. Nguồn dữ liệu duy nhất này sẽ giúp các
tác giả loại bỏ được các lỗi không mong muốn có thể phát sinh do tính không đồng
nhất trong các hệ thống thống kê không giống nhau tại các quốc gia khác nhau.
Nguồn dữ liệu chứa thông tin của 218 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới từ
năm 1960, nhưng do vấn đề thiếu dữ liệu nên giới hạn nghiên cứu này tập trung vào
135 quốc gia trong khoảng thời gian 26 năm (1990 - 2015).
Ngân hàng Thế giới phân loại các quốc gia thành bốn nhóm thu nhập - thấp,
trung bình thấp, trung bình cao và cao - dựa trên tổng thu nhập quốc dân (GNI) bình
quân đầu người năm trước. Việc phân loại vẫn cố định cho toàn bộ năm tài chính,
nhưng có thể thay đổi qua các năm. Đối với năm tài chính 2016, Ngân hàng Thế giới
phân loại thu nhập theo GNI bình quân đầu người theo bốn mức cụ thể như sau:
Quốc gia có thu nhập thấp: 1.025$ hoặc thấp hơn
Quốc gia có thu nhập trung bình thấp: từ 1.026$ đến 4.035$
Quốc gia có thu nhập trung bình cao: từ 4.036$ đến 12.475$
Quốc gia có thu nhập cao: 12.476$ hoặc cao hơn
Theo đó, trong số 135 quốc gia trong nghiên cứu này, số nền kinh tế được phân
loại là thu nhập thấp, trung bình thấp, trung bình cao và cao ương ứng là 21, 43, 40 và
31 (xem Phụ lục 2). Bằng cách so sánh, tổng thu nhập quốc dân trên đầu người của
Hoa Kỳ là 50.070 USD và trung bình toàn cầu là 10.577.669 USD trong năm 2015.
Thống kê mô tả của dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu này ở Phụ lục 1,
trong đó bao gồm 3.510 dữ liệu hàng năm cho 135 quốc gia được quan sát trong 26
năm. Tuy nhiên, do dữ liệu bị thiếu, hầu hết các biến có số quan sát ít hơn 3.510.
Trong các hồi quy, nhóm tác giả dựa trên hai tiêu chí để thêm các biến giải thích vào
các mô hình hồi quy, đó là các kết quả từ nghiên cứu tổng quan tài liệu và tính sẵn có
của dữ liệu. Để đảm bảo tính ổn định, nhóm tác giả sử dụng sai phân (sự chênh lệch
giá trị hàm tại hai điểm gần nhau) trong các mô hình hồi quy. Nhóm tác giả sử dụng
hồi quy tuyến tính bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất để ước lượng các tham
số chưa biết. Phần mềm STATA phiên bản 12 được sử dụng để xử lý dữ liệu.
3. Kết quả và thảo luận
3.1 Các kiểm định về tính dừng (tính ổn định), đồng liên kết và quan hệ nhân
quả Granger
Do dữ liệu bảng được nghiên cứu không cân bằng, chúng tôi sử dụng các kiểm
định Fisher (Choi, 2001) và Im & cộng sự (2003) để kiểm tra tính ổn định của số liệu.
Bảng 1 cho thấy kết quả của các kiểm định nghiệm đơn vị của hai biến quan tâm, đó
là sự thay đổi của FDI thực tế theo tỷ lệ phần trăm của GDP thực tế trong một năm
trước (sau đây ký hiệu là % FDI) và phần trăm thay đổi của GDP thực tế (sau đây
72 | Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 131 (09/2020)
ký kiệu là %GDP). Kết quả cho thấy rằng trong khi FDI thực tế ổn định, GDP thực
tế thì không. Do đó, các giá trị độ trễ khác nhau được thêm vào mô hình. Có thể thấy
rằng hai biến số ổn định với bốn độ trễ và kết quả rất tốt giữa hai kiểm định.
Bảng 1. Kiểm định nghiệm đơn vị cho %∆FDI và %∆GDP
Độ trễ %∆FDI %∆GDP Im-Pesaran-Shin Fisher-type Im-Pesaran-Shin Fisher-type
0 -53.0330*** 3723.7396*** -27.6359*** 1648.9770***
1 -30.9087*** 1878.2797*** -14.6034*** 895.7623***
2 -18.1076*** 974.5450*** -8.7018*** 586.9636***
3 -14.5610*** 830.3888*** -6.2811*** 505.6838***
4 -7.4775*** 440.5276*** -3.5663*** 331.0568**
5 -4.3818*** 354.6732*** -1.1343 329.6714**
6 NA 274.6852 NA 367.5693***
7 NA 275.5317 NA 253.1963
8 NA 293.1007 NA 292.4816
Ghi chú: * p<0.05; ** p<0.01; *** p<0.001. NA: giá trị trung bình và phương sai của thống kê t
không có sẵn với độ trễ > 5.
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả từ phần mềm STATA 12.0
Để phát hiện hiện tượng đồng liên kết, kiểm định Pedroni và Westerlund được sử
dụng để kiểm tra đồng liên kết trong dữ liệu bảng. Kết quả từ cả hai kiểm định
Pedroni và Westerlund cho thấy hai biến có mối quan hệ dài hạn. Nhóm tác giả cũng
thực hiện kiểm định quan hệ nhân quả Granger (Granger, 1969) để khám phá sự tồn
tại (nếu có) về mối quan hệ nhân quả giữa hai biến %FDI và %GDP, sử dụng
phương pháp của Abrigo & Love (2016). Kết quả cho thấy, %FDI dẫn đến %∆GDP
(thống kê chi bình phương bằng 5.160 với giá trị p là 0,023), nhưng hướng ngược lại
không xảy ra (thống kê chi bình phương bằng 1,746 với giá trị p là 0,186). Kết quả
này cho thấy có quan hệ nhân quả một chiều từ %∆FDI đến %GDP, tức là FDI có
tác động đến tăng trưởng kinh tế nhưng tăng trưởng kinh tế không tác động ngược trở
lại FDI.
3.2 Kết quả hồi quy
Sử dụng dữ liệu bảng đzi hỏi phải xác định xem mô hình tác động cố định hay
mô hình tác động ngẫu nhiên phù hợp hơn. Mô hình tác động cố định dựa trên giả
thiết rằng các đặc điểm bất biến theo thời gian của từng quốc gia không tương quan
với nhau (vì mỗi quốc gia khác với các quốc gia khác). Nếu vi phạm giả thiết này, các
suy luận từ mô hình tác động cố định có thể không chính xác (Torres-Reyna, 2007).
Vì lý do này, nhóm tác giả tiến hành kiểm định Hausman để xác định sự phù hợp của
mô hình tác động cố định. Các kết quả cho thấy đối với dữ liệu và mô hình cụ thể của
nhóm tác giả, nên sử dụng mô hình tác động cố định.
Nhóm tác giả cũng sử dụng kiểm định Wooldridge để kiểm tra tự tương quan và
kiểm định Wald để kiểm tra phương sai thay đổi trong mô hình hồi quy tác động cố
định. Kết quả cho thấy dữ liệu có hiện tượng tự tương quan và phương sai thay đổi.
Để giải quyết vấn đề này, Hoechle (2007) khẳng định lệnh STATA là “xtreg, cluster”
có thể đồng thời khắc phục tự tương quan và phương sai thay đổi. Các kết quả tương
đối phù hợp, cho thấy nhìn chung, %∆FDI có tác động thuận chiều và có ý nghĩa
Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 131 (09/2020) | 73
thống kê với %∆GDP trên toàn thế giới. Cụ thể, %∆FDI làm tăng 2,1649
trong %∆GDP. %∆GDP trong một năm trước và %∆FDI trong ba năm liên tục trước
đó cũng có tác động thuận chiều và có ý nghĩa thống kê với %∆GDP.
Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến của mô hình hồi quy bằng phương pháp VIF,
kết quả cho thấy %∆FDI có đa cộng tuyến cao. Điều này được giải thích bởi việc đưa
các biến giả là %∆FDI theo quốc gia vào trong mô hình. Mặc dù %∆FDI có đa cộng
tuyến cao, điều này không ảnh hưởng đến hiệu quả của các mô hình cũng như không
thực sự làm sai lệch kết quả. Hơn nữa, mục đích của việc xây dựng mô hình không
phải là cố gắng dự đoán ảnh hưởng của một biến độc lập riêng lẻ đến biến phụ thuộc,
mà chỉ để ước lượng hệ số của tác động của %∆FDI đến %∆GDP ở mỗi quốc gia.
Nhóm tác giả cũng sử dụng tiêu chuẩn Akaike (AIC) để lựa chọn mô hình tốt nhất
trong số các mô hình được xác định bởi dữ liệu đã cho. Kết quả như sau:
Bảng 2. Kết quả hồi quy
Biến phụ thuộc: % ∆GDP Mô hình I Mô hình II Mô hình III Mô hình IV
% ∆FDI 2.1649*** 1.1738*** 0.94210 2.9603***
Trễ %∆GDP (1 năm) 0.1623*** 0.1491*** 0.0986 0.1502**
Trễ %∆FDI (1 năm) 0.3090** 0.3111** 0.0848 0.3997***
Trễ %∆FDI (2 năm) 0.1784** 0.1782* 0.0280 0.2284***
Trễ %∆FDI (3 năm) 0.1110*** 0.1115*** 0.0480 0.1266***
Thay đổi tổng dân số 2.56e-09 1.73e-08
Thay đổi tỷ lệ tham gia lực lượng lao
động (%)
-0.0032 0.0066
Thay đổi tỷ lệ lạm phát (%) -8.71e-07*** -0.0002 -9.53e-07***
Thay đổi đăng ký điện thoại cố định 1.26e-09
Thay đổi trong xuất khẩu (% GDP) 0.0024** 0.0012*
Thay đổi lãi suất thực (%) -0.0020
Thay đổi tỷ giá hối đoái thực (%) 0.0007 -0.0000
Thay đổi trong chi tiêu giáo dục thực tế 2.81e-13
Thay đổi thủ tục thành lập
doanh nghiệp
0.0006
Thay đổi tỷ lệ thất nghiệp (%) -0.0013
Thay đổi thuế suất thuế thu nhập (%) 0.0018
Thay đổi nợ chính phủ (% GDP) -0.0010
Hằng số 0.0482*** 0.0497*** 0.0385* 0.0449***
Số quan sát 2902 2625 184 1526
R2 0.2891 0.2941 0.5778 0.3983
R2 điều chỉnh 0.2533 0.2558 0.4635 0.3654
AIC -9610.705 -8701.816 -788.6746 -5058.373
Lưu ý: * p <0,05; ** p <0,01; *** p <0,001. Kết quả tương đối nhất quán giữa các mô hình, ngoại
trừ Mô hình III. Sự không nhất quán này có thể được giải thích là do thiếu dữ liệu, dẫn đến sự sụt giảm
đáng kể trong tổng số quan sát, số nước được đưa vào hồi quy, và khoảng thời gian khác nhau.
Nguồn: Theo tính toán của nhóm tác giả từ phần mềm STATA 12.0.
Bảng 2 cho thấy %∆FDI có tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê tới tăng
trưởng kinh tế (%∆GDP). Ngoài ra, tăng trưởng kinh tế trong năm trước (trễ %∆GDP
1 năm) và FDI trong 1, 2, 3 năm trước (trễ %∆FDI 1 năm, trễ %∆FDI 2 năm,
74 | Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 131 (09/2020)
trễ %∆FDI 3 năm) cũng có tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê tới tăng trưởng
kinh tế của 135 quốc gia trong mẫu nghiên cứu. Tỷ lệ lạm phát có tác động tiêu cực
tới tăng trưởng kinh tế, trong khi xuất khẩu có tác động tích cực tới tăng trưởng kinh
tế của các quốc gia nghiên cứu. Tuy vậy, đây không phải là nội dung quan trọng mà
nghiên cứu tập trung vào. Mục tiêu của nghiên cứu là ước lượng hệ số của tác động
của %∆FDI đến %∆GDP ở mỗi quốc gia. Do đó, mô hình nào có thể ước lượng được
nhiều hệ số của %∆FDI thì sẽ được ưa thích hơn. Trong số 4 mô hình trên, mô hình I
có kết quả tiêu chuẩn Akaike (AIC) thấp nhất và cũng ước lượng được hệ số %∆FDI
của nhiều quốc gia nhất.
Như vậy, để ước lượng hệ số của tác động của %∆FDI tới %∆GDP ở mỗi quốc
gia, mô hình I được cho là phù hợp nhất. Kết quả ước lượng tác động của FDI đến
tăng trưởng kinh tế các nước trong giai đoạn 1990 - 2015 (trong Mô hình I) được
trình bày chi tiết trong Phụ lục 2. Trong đó, hệ số của %∆FDI tại từng quốc gia được
sắp xếp theo 4 nhóm thu nhập - thấp, trung bình thấp, trung bình cao, cao và trong
mỗi nhóm thu nhập, hệ số của %∆FDI được sắp xếp theo thứ tự từ bé đến lớn để dễ
phân tích.
Điều đáng lưu ý là một trong các biến giả phải được loại bỏ để tránh bẫy biến giả.
Phần mềm STATA tự động bỏ qua Nhật Bản do hiện tượng đa cộng tuyến. Giải thích
cho điều này là vì đây là một quốc gia phát triển có mức tiết kiệm trong nước cao và
sự phát triển không phụ thuộc nhiều vào đầu tư trực tiếp nước ngoài. Do đó, Nhật Bản
sẽ được sử dụng làm quốc gia tham chiếu để so sánh và hệ số của %∆FDI là 2,1649
(giá trị ước lượng của ߚଵ) cũng chính là hệ số của %∆FDI ở Nhật Bản. Vì vậy, một
quốc gia sẽ có hệ số về tác động của %∆FDI là tổng 2,1649 cộng với hệ số của biến
giả của quốc gia đó (ߚଵ + ߚଵ). Các quốc gia có hệ số cao hơn 2,1649 là những quốc
gia có giá trị ước lượng của ߚଵ là giá trị dương. Các quốc gia có hệ số thấp hơn
2,1649 là những quốc gia có giá trị ước lượng của ߚଵ là giá trị âm. Bất kỳ quốc gia
nào có giá trị ước lượng của ߚଵ là giá trị dương đều làm tốt hơn Nhật Bản trong việc
sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài làm nguồn lực bên ngoài quan trọng thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Các quốc gia có giá trị ước lượng của ߚଵ là giá trị âm lại đang
làm kém hơn so với Nhật Bản, có nghĩa là đầu tư trực tiếp nước ngoài không giúp các
nước cải thiện tăng trưởng kinh tế.
Chỉ có năm quốc gia, bao gồm Cộng hòa Trung Phi, Rwanda, Cote d'Ivoire (Bờ
Biển Ngà), Thổ Nhĩ Kỳ và Liên bang Nga có hệ số về tác động của %∆FDI cao hơn
2,1649. Đây là những quốc gia tốt hơn Nhật Bản trong quá trình hấp thụ các nguồn
lực bên ngoài để tăng trưởng kinh tế. Đối với các quốc gia khác trong mẫu, các đặc
điểm cụ thể của quốc gia có xu hướng làm giảm tác động của FDI đến tăng trưởng
GDP, khiến cho hệ số về tác động của %∆FDI nhỏ hơn 2,1649. Tuy nhiên, hầu hết
các quốc gia đều có hệ số về tác động của %∆FDI dương; điều đó có nghĩa là sự thay
đổi của FDI thực sự có tác động tích cực với tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia này.
Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 131 (09/2020) | 75
Một kết quả quan trọng khác là các quốc gia trong cả 4 nhóm thu nhập đều có
những hệ số về tác động của %∆FDI nhỏ hơn 0. Đây là những quốc gia có hiệu ứng
lấn át vượt xa mức tăng vốn và hiệu ứng hỗ trợ của FDI đối với đầu tư trong nước;
kết quả là hệ số về tác động của %∆FDI có tác động ngược chiều với %∆GDP ở các
quốc gia này. Cụ thể, kết quả cho thấy nhóm thu nhập cao có ba quốc gia (Kuwait,
Oman và Cộng hòa Séc), nhóm thu nhập thấp có bảy quốc gia (Nigeria, Chad,
Burkina Faso, Senegal, Mozambique, Comoros và Sierra Leone), nhóm thu nhập
trung bình thấp có chín quốc gia (Myanmar, Ấn Độ, Philippines, Nigeria, Sudan,
Papua New Guinea, Lesoto, Guatemala và Cameroon) và nhóm thu nhập trung bình
cao có ba quốc gia (Irắc, Algeria và Mêxicô) có tác động của %∆FDI là âm. Kết quả
này có thể được coi là bằng chứng cho thấy hiệu ứng lấn át thực sự đang làm ảnh
hưởng đến tác động của FDI đối với tăng trưởng kinh tế.
Đối với Việt Nam, hệ số của %∆FDI là 0,2999. Như vậy, sự thay đổi của FDI
thực sự có tác động tích cực với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, mặc dù so với Nhật
Bản và nhiều quốc gia khác, hệ số về tác động của %∆FDI ở nước ta vẫn còn rất thấp.
Điều này cho thấy chúng ta cần phải có những biện pháp để tăng cường tác động tích
cực của FDI đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
4. Kết luận và khuyến nghị
Dù đã có nhiều nghiên cứu về tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế, nhưng
việc xem xét tác động này theo các nhóm nước trên phạm vi toàn thế giới để có cái
nhìn bao quát hơn về tác động của FDI vẫn chưa được thực hiện. Do đó, để có thể trả
lời câu hỏi liệu tác động của FDI về cơ bản là tác động tích cực nhiều hơn hay tác
động tiêu cực nhiều hơn và liệu các nước khác nhau sẽ nhận được kết quả khác nhau
hay không, đzi hỏi phải có một nghiên cứu mới. Để tìm ra câu trả lời cho hai câu hỏi
trên, nghiên cứu này so sánh tác động giữa các nguồn lực bên ngoài (với vốn FDI là
thước đo) và tăng trưởng kinh tế (với GDP là thước đo) ở các quốc gia có trình độ
phát triển khác nhau, sử dụng dữ liệu bảng được Ngân hàng Thế giới thu thập cho
135 quốc gia trong giai đoạn từ 1990 đến 2015. Kết quả cho thấy ở cả 4 nhóm quốc
gia có trình độ phát triển khác nhau, FDI đều có cả tác động tích cực và tiêu cực đến
tăng trưởng kinh tế. Ở đây, tác động tích cực có nghĩa là các nguồn lực bên ngoài
giúp các nước tăng trưởng kinh tế. Tác động tiêu cực có nghĩa là hiệu ứng lấn át đã
khiến các quốc gia không thể hấp thụ các nguồn lực bên ngoài cho tăng trưởng kinh
tế. Nhưng nhìn chung, số lượng các quốc gia mà FDI tác động tích cực đến GDP
nhiều hơn so với số lượng các quốc gia mà FDI tác động tiêu cực đến GDP. Điều này
có nghĩa là các nguồn lực bên ngoài thực sự giúp cải thiện hiệu suất của các nền kinh
tế nói chung.
FDI là một nguồn tăng trưởng kinh tế quan trọng, do đó, các quốc gia nên có
chính sách để thu hút thêm vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các quốc gia có hệ số
về tác động của FDI đối với GDP là dương. Các quốc gia có hệ số về tác động của
FDI là âm, đặc biệt là các nước thu nhập thấp và trung bình thấp, cần phải có chính
sách để cải thiện khả năng hấp thụ của nền kinh tế trước khi thu hút FDI, nếu không,
các nguồn lực dành để thu hút FDI sẽ bị lãng phí.
76 | Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 131 (09/2020)
Tài liệu tham khảo
Abrigo, M.R.M. & Love, I. (2016), “Estimation of panel vector autoregression in Stata”,
Stata Journal, Vol. 16 No. 3, pp. 778 - 804.
Acar, S., Eris, B. & Tekce, M. (2012), “The Effect of Foreign Direct Investment on Domestic
Investment: Evidence from MENA Countries”, European Trade Study Group (ETSG)
14th Annual Conference.
Agosin, M.R. & Machado, R. (2005), “Foreign investment in developing countries: does it crowd
in domestic investment?”, Oxford Development Studies, Vol. 33 No. 2, pp. 149 - 162.
Barro, R. and Sala-I-Martin, X. (1995), Economic growth, Cambridge, MA: McGraw-Kill.
Barro, R. & Sala-I-Martin, X. (2004), Economic growth, Cambridge, MA: MIT Press.
Borensztein, E.R., De Gregorio, J. & Lee, J.W. (1998), “How does foreign investment affect
growth?” IMF Working Papers, Vol. 45 No. 1, pp. 115 - 135.
Choi, I. (2001), “Unit root tests for panel data”, Journal of International Money and Finance,
Vol. 20 No. 2, pp. 249 - 272.
De Jager, J. (2004), “Exogenous and Endogenous Growth”, University of Pretoria ETD.
De Mello, L.R. (1999), “Foreign direct investment-led growth: Evidence from time series and
panel data”, Oxford Economie Papers. 51, pp. 133 - 151.
Đỗ, V.Đ. (2017), “Xác định nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu”, Tạp chí Ngân
hàng, Số 18, tr. 18 - 23.
Iqbal, Z., Ramaswamy, K.V. & Akhigbe, A. (1998), “The output efficiency of minority-
owned banks in the united states”, International Review of Economics & Finance, Vol.
32 No 5, pp. 99 - 110.
Gelman, A. & Hill, J. (2007), Data analysis using regression and multilevel/hierarchical
models, Cambridge University Press.
Granger, C.W.J. (1969), “Investigating causal relations by econometric models and cross-
spectral methods”, Econometrica, Vol. 37 No. 3, pp. 424 - 438.
Har, W.M., Teo, K.L. & Yee, K.M. (2008), “FDI and economic growth relationship: an
empirical study on Malaysia”, Social Science Electronic Publishing, Vol. 1 No. 2, pp. 11 -
18.
Herzer, D., Klasen, S. and Lehmann D. (2008), “In search of FDI-led growth in developing
countries: the way forward”, Economic Modelling, Vol. 25 No. 5, pp. 793 - 810.
Hoechle, D. (2007), “Robust standard errors for panel regressions with cross-sectional
dependence”, Stata Journal, Vol. 7 No. 3, pp. 281 - 312.
Im, K.S., Pesaran, M.H. & Shin, Y. (2003), “Testing for unit roots in heterogeneous panels”,
Journal of Econometrics, Vol. 115 No. 1 pp. 53 - 74.
Kumar, N. & Pradhan, J.P. (2002), “Foreign Direct Investment, Externalities and Economic
Growth in Developing Countries: Some Empirical Explorations and Implications for
WTO Negotiations on Investment”, Research and Information System for Developing
Countries, New Delhi, India
Makki, S.S., Somwaru, A. & Bolling, H.C. (2004), “Determinants of foreign direct investment in
the food-processing industry: a comparative analysis of developed and developing
economies”, Journal of Food Distribution Research, Vol. 35 No. 3, pp. 110 - 119.
Mišun, J. & Tomšk, V. (2002), "Does foreign direct investment crowd in or crowd out
domestic investment?", Eastern European Economics, Vol. 40 No. 2, pp. 38 - 56.
Nguyễn, T.L. (2014), “Thu hút nguồn lực bên ngoài để phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam”,
Tạp chí Tài chính, Số 5, tr. 15 - 19.
Nair-Reichert, U. & Weinhold, D. (2001), “Causality tests for cross-country panels: a new
look at FDI and economic growth in developing countries”, Oxford Bulletin of
Economics & Stats, Vol. 10 No. 3, pp. 63- 75.
Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 131 (09/2020) | 77
Roman, M.D. & Padureanu, A. (2012), Models of foreign direct investments influence on
economic growth: evidence from Romania, Social ence Electronic Publishing.
Romer, P.M. (1986), “Increasing returns and long run growth”, Journal of Political Economy,
Vol. 94 No. 6, pp. 1002 - 1037.
Solow, R. (1956), “A contribution to the theory of economic growth”, Quarterly Journal of
Economics, No. 70, pp. 65 - 94.
Torres-Reyna, O. (2007), Panel data analysis fixed and random effects using stata (v. 4.2),
Data & Statistical Services, Priceton University.
Trần, Đ.L. & Lê, H.A. (2017), “Ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến tăng trưởng
kinh tế: nghiên cứu tại các quốc gia ASEAN+3”, Tạp chí Doanh nghiệp và Thương mại,
Số 10, tr. 28 - 35.
World Bank. (2016), “New country classifications by income level: 2016-2017”,
https://blogs.worldbank.org/opendata/new-country-classifications-2016, truy cập ngày
17/07/2020.
Wu, G., Sun, Y. & Li, Z. (2012), "The Crowding-in and Crowding-out Effects of FDI on
Domestic Investment in the Yangtze Delta Region", China: An International Journal,
Vol. 10 No. 2, pp. 119 - 133.
78 | Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 131 (09/2020)
Phụ lục 1. Mô tả thống kê về các biến số trong mô hình
Biến số Số quan
sát
Giá trị
trung bình
Độ lệch
chuẩn
Giá trị tối
thiểu
Giá trị
tối đa
GDP thực tế (điều chỉnh theo PPP) 3501 3.80e+11 1.41e+12 9.18e+07 1.98e+13
FDI thực tế (PPP điều chỉnh) 3458 8.89e+09 3.43e+10 -3.45e+10 5.16e+11
Thay đổi trong GDP thực tế 3366 2.22e+10 9.79e+10 -3.00e+11 1.56e+12
Thay đổi trong FDI thực 3319 6.07e+08 1.24e+10 -1.83e+11 2.13e+11
Phần trăm thay đổi trong GDP thực tế 3366 0.060373 0.063919 -0.628504 1.538978
Thay đổi trong FDI thực tế tính theo tỷ lệ
phần trăm GDP thực tế của một năm trước
3319 0.004215 0.068386 -1.31009 1.850115
Tổng dân số 3507 4.18e+07 1.48e+08 40833 1.37e+09
Đăng ký điện thoại cố định 3500 5808029 2.49e+07 0 3.68e+08
Lạm phát, giảm phát GDP (%) 3488 40.89445 519.5035 -31.56591 26762.02
Xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ (% GDP) 3410 37.42223 24.14113 0.0053768 230.269
Chi tiêu giáo dục thực tế 3233 1.43e+10 5.59e+10 4530023 9.00e+11
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động (% tổng
dân số từ 15 tuổi trở lên) (ước tính mô hình
của ILO)
3225 64.86022 10.26671 39.2 90.6
Lãi suất thực tế (%) 2753 7.322449 12.64256 -97.61634 130.7843
Thuế đánh vào thu nhập, lợi nhuận và lãi vốn
(% trên doanh thu)
2010 24.15546 13.49585 4197901 79.53935
Chỉ số tỷ giá hối đoái hiệu dụng thực (2010 =
100)
1903 102.2822 33.14624 33.06358 827.1733
Tổng số thất nghiệp (% tổng lực lượng lao
động)
1766 8.856285 6.322515 1 59.5
Thủ tục thành lập doanh nghiệp (số) 1674 8.768817 3.382873 1 20
Tổng nợ chính phủ trung ương (% GDP) 1030 56.14237 39.32994 0.2139182 289.8447
Thay đổi tổng dân số 3371 559341.2 1813305 -670037 1.86e+07
Thay đổi đăng ký điện thoại cố định 3360 139585.2 2236599 -2.66e+07 4.90e+07
Thay đổi tỷ lệ lạm phát (%) 3353 -5.478856 671.0748 -26295.61 25099.6
Thay đổi xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ (%
GDP)
3274 0.186279 5.637513 -38.38885 63.83785
Thay đổi tỷ lệ tham gia lực lượng lao động 3096 0.040439 0.635065 -5.700001 7.599998
Thay đổi trong chi tiêu giáo dục 3094 8.22e+08 4.25e+09 -4.57e+10 7.53e+10
Thay đổi lãi suất thực (%) 2619 0.330686 12.37482 -164.3697 135.2955
Thay đổi thuế suất thuế thu nhập (%) 1856 0.134689 4.825464 -64.60031 64.68396
Thay đổi tỷ giá hối đoái thực (%) 1829 -0.117937 27.36532 -727.1733 682.6063
Thay đổi thủ tục thành lập để đăng ký doanh
nghiệp
1540 -0.250649 .9052763 -10 2
Thay đổi tỷ lệ thất nghiệp (%) 1451 -0.062853 1.54341 -16.3 13
Thay đổi nợ của chính phủ trung ương (%
GDP)
904 -0.386648 15.00441 -214.19 68.63967
Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 131 (09/2020) | 79
Phụ lục 2. Ước lượng tác động của FDI đến tăng trưởng kinh tế các nước từ 1990 - 2015
Nước Hệ số
Nhóm nước thu nhập cao
Kuwait -0.2554
Oman -0.2026
Czech Republic -0.1354
Chile 0.0100
Korea, Rep. 0.0248
Iceland 0.0285
Saudi Arabia 0.0362
Switzerland 0.0928
Denmark 0.1344
Hungary 0.1446
New Zealand 0.1523
Seychelles 0.1785
Bahrain 0.1863
Trinidad and Tobago 0.2285
Barbados 0.2605
Sweden 0.2607
Australia 0.3026
Antigua and Barbuda 0.3708
Singapore 0.3953
United Kingdom 0.4300
Bahamas, The 0.4370
Canada 0.4871
Poland 0.5224
St. Kitts and Nevis 0.5291
Israel 0.5293
Macao SAR, China 0.7013
United Arab Emirates 0.7709
Uruguay 0.8022
Norway 1.3194
United States 1.5841
Japan 2.1649
Nhóm nước thu nhập trung bình cao
Iraq -8.3810
Algeria -0.7660
Mexico -0.7262
Thailand 0.0041
Equatorial Guinea 0.0182
Macedonia, FYR 0.0430
Guyana 0.0657
Angola 0.0772
Fiji 0.0933
Suriname 0.1705
Belize 0.1751
Jordan 0.1861
Paraguay 0.1909
Namibia 0.2059
Gabon 0.2217
Dominica 0.2306
Bulgaria 0.2370
St. Lucia 0.2799
St. Vincent, Grenadines 0.2826
Kazakhstan 0.2926
Argentina 0.3313
Panama 0.3700
South Africa 0.3744
Jamaica 0.4803
Dominican Republic 0.4979
Botswana 0.5286
Grenada 0.5556
Albania 0.5749
Mauritius 0.6173
Colombia 0.6546
Peru 0.8997
Brazil 1.0635
Iran, Islamic Rep. 1.1421
Venezuela, RB 1.2325
Costa Rica 1.2470
Malaysia 1.4328
China 1.4539
Romania 1.5850
Turkey 2.3913
Russian Federation 5.1564
Nhóm nước thu nhập trung bình thấp
Myanmar -1.0449
India -0.5946
Philippines -0.4647
Nigeria -0.4517
Sudan -0.2847
Papua New Guinea -0.1439
Lesotho -0.0822
80 | Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 131 (09/2020)
Guatemala -0.0423
Cameroon -0.0208
Tonga 0.0263
Bolivia 0.0707
Congo, Rep. 0.0958
Djibouti 0.1490
Swaziland 0.1520
El Salvador 0.1578
Yemen, Rep. 0.1602
Mongolia 0.1605
Mauritania 0.1665
Solomon Islands 0.2075
Samoa 0.2387
Lao PDR 0.2606
Egypt, Arab Rep. 0.2858
Tunisia 0.2970
Vietnam 0.2999
Tajikistan 0.3644
Kyrgyz Republic 0.3680
Kiribati 0.4014
Ghana 0.4775
Vanuatu 0.5236
Armenia 0.5874
Ukraine 0.6677
Cambodia 0.7041
Cabo Verde 0.7180
Nicaragua 0.7419
Morocco 0.8272
Zambia 0.9063
Honduras 0.9807
Kenya 1.1502
Bangladesh 1.1648
Sri Lanka 1.2954
Pakistan 1.5504
Indonesia 2.0023
Cote d'Ivoire 3.0301
Nhóm nước thu nhập thấp
Niger -0.5914
Chad -0.2560
Burkina Faso -0.2104
Senegal -0.1793
Mozambique -0.0846
Comoros -0.0835
Sierra Leone -0.0728
Malawi 0.1852
Togo 0.2004
Tanzania 0.2061
Guinea 0.2293
Benin 0.2892
Congo, Dem. Rep. 0.2962
Gambia, The 0.3438
Madagascar 0.4969
Burundi 0.6319
Mali 0.6345
Uganda 1.1490
Guinea-Bissau 2.1220
Central African Rep. 3.3929
Rwanda 3.6675
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tac_dong_cua_dau_tu_truc_tiep_nuoc_ngoai_toi_tang_truong_kin.pdf