MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 4
CHƯƠNG I: 5
CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ VỀ ĐẦU TƯ 5
I/ CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ VỀ ĐẦU TƯ 5
1. Các khái niệm chung 5
1.1 Đầu tư là gì: 5
1.2 Phân loại đầu tư: 6
1.3 Khái niệm về tăng trưởng: 8
1.4 Khái niệm về phát triển: 8
2. Số nhân đầu tư 9
2.1 Tư tưởng của mô hình 9
2.2 Mô hình số nhân đầu tư 9
3. Lý thuyết gia tốc về đầu tư 10
3.1 Tư tưởng trung tâm của mô hình gia tốc đầu tư 10
3.2 Nội dung của lí thuyết gia tốc đầu tư 11
3.3 Nhận xét về lý thuyết gia tốc đầu tư 14
4. Lý thuyết quỹ nội bộ đầu tư 16
5. Lý thuyết q về đầu tư 17
6. Lý thuyết tân cổ điển 17
7. Mô hình Harrod – Domar 20
7.1 Sự ra đời của mô hình 20
7.2 Nội dung của mô hình Harrod-Domar 20
II/ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ ĐẾN TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 22
1. Tác động của đầu tư đến quy mô tăng trưởng 22
1.1 Tác động của đầu tư đến tổng cung – tổng cầu 22
1.1.1 Tác động đến tổng cung 22
1.1.2 Tác động đến tổng cầu: 23
2.2 Tác động của đầu tư đến tốc độ tăng trưởng 24
2. Tác động của đầu tư đến chất lượng tăng trưởng 26
2.1 Tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 26
2.2 Tác động đến khoa học công nghệ: 29
CHƯƠNG II: 32
VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 32
I/ ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ VÀ TÌNH HÌNH TĂNG TRƯỞNG – PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001 - 2009 32
1. Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư ở Việt Nam: 32
1.1 Đầu tư trong nước: 33
1.2 Đầu tư nước ngoài: 35
1.2.1 FDI: 35
1.2.2 ODA 36
* Các kết quả đạt được: 37
2. Tình hình tăng trưởng và phát triển kinh tế giai đoạn 2001 – 2009: 38
II/ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001 - 2009 39
1. Tác động tới tốc độ tăng trưởng: 39
2. Tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế: 42
3. Tác động của đầu tư đối với phát triển khoa học - công nghệ: 46
4. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực nâng cao năng lực cạnh tranh: 47
5. Đầu tư gián tiếp giải quyết các vấn đề xã hội: 49
5.1 Xóa đói giảm nghèo: 49
5.2. Đầu tư góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp: 51
CHƯƠNG III: 53
GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG TÁC ĐỘNG CỦA 53
ĐẦU TƯ TỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 53
I/ MỤC TIÊU VÀ QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI VIỆT NAM GIAI ĐỌAN 2011 – 2015: 53
II/ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ NHẰM THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 53
1. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và bố trí kế hoạch đầu tư 54
2. Phân bổ và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả 54
2.1. Nguồn vốn trong nước 54
2.1.1. Vốn ngân sách nhà nước 54
2.1.2. Nguồn vốn từ dân cư và tư nhân 56
2.2. Nguồn vốn từ nước ngoài (gồm ODA và FDI) 56
3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực nhằm nâng cao năng suất lao động 57
4. Đổi mới và hoàn thiện chính sách đầu tư vào công nghệ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh 58
KẾT LUẬN 61
LỜI MỞ ĐẦU
Tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Từ khi giành được độc lập năm 1975 và đặc biệt là từ sau năm 1986, khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn đặt mục tiêu phát triển kinh tế lên hàng đầu với định hướng đến năm 2020 Việt Nam sẽ cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để đạt được mục tiêu trên thì đầu tư là một yếu tố cực kỳ quan trọng vì đầu tư, nói rõ hơn là đầu tư phát triển, không những làm gia tăng tài sản của cá nhân nhà đầu tư, mà còn trực tiếp làm gia tăng tài sản vật chất cho nền kinh tế, có tác động rất mạnh mẽ đến phát triển kinh tế. Đã có nhiều lý thuyết về đầu tư được nêu ra nhằm phân tích tác động của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển dưới nhiều khía cạnh khác nhau như lý thuyết số nhân đầu tư, lý thuyết gia tốc đầu tư, mô hình Harrod – Domar .
Chính phủ Việt Nam với vai trò của mình đã luôn nỗ lực tạo điều kiện tốt nhất cho mục tiêu phát triển kinh tế bền vững và kết quả là Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức kinh tế thế giới WTO từ ngày 11/01/2007. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức lớn đặt ra đối với Việt Nam khi nền kinh tế còn non trẻ, khả năng kiểm soát các luồng vốn đầu tư (trong nước và từ bên ngoài vào) còn hạn chế. Nếu không có một cái nhìn đúng đắn về đầu tư thì nền kinh tế Việt Nam sẽ rất khó đứng vững trước làn sóng vốn tràn vào Việt Nam và luôn biến động một cách mạnh mẽ như hiện nay. Chính vì tầm quan trọng của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế là rất lớn nhưng vấn đề giải thích sự tác động đó thông qua các lý thuyết kinh tế về đầu tư còn ít được đề cập đến. Do đó chúng tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu là: “DỰA VÀO CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ VỀ ĐẦU TƯ GIẢI THÍCH VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ”.
62 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2015 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tác động của đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
máy móc thiết bị/ tổng vốn đầu tư thực hiện: cho thấy tỷ lệ vốn là máy móc thiết bị chiếm bao nhiêu.
Tỷ trọng vốn đầu tư theo chiều sâu/ tổng vốn đầu tư thực hiện: phản ánh mức độ đầu tư đổi mới khoa học và công nghệ cao.
Tỷ trọng vốn đầu tư cho các công trình mũi nhọn, trọng điểm: chỉ tiêu này càng lớn cho thấy mức độ tập trung của công nghệ và gián tiếp phản ảnh mức độ hiện đại của công nghệ.
Đầu tư tác động vào hệ số TFP – một thành phần trong công thức tính tốc độ tăng trưởng. TFP là quan hệ giữa đầu ra với tổng hợp các yếu tố đầu vào bao gồm cả các yếu tố không định lượng được như công nghệ, trình độ quản lý…TFP phản ánh hiệu quả của các nguồn lực được sử dụng vào sản xuất. Ngoài ra TFP còn phản ánh hiệu quả do thay đổi công nghệ, trình độ tay nghề của công nhân, trình độ quản lý, thời tiết...
Nâng cao TFP tức là nâng cao hơn kết quả sản xuất với cùng đầu vào. Điều này là rất quan trọng đối với người lao động, doanh nghiệp và toàn nền kinh tế. Đối với người lao động, nâng cao TFP sẽ góp phần nâng lương, nâng thưởng, điều kiện lao động được cải thiện, công việc ổn định hơn. Đối với doanh nghiệp thì có khả năng mở rộng tái sản xuất. Còn đối với nền kinh tế sẽ nâng cao sức cạnh tranh trên trường quốc tế, nâng cao phúc lợi xã hội.
Bằng cách thay đổi cơ cấu vốn, thay đổi công nghệ… đầu tư đã tác động không nhỏ tới sự phát triển khoa học kỹ thuật, đổi mới phương thức sản xuất…
CHƯƠNG II:
VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM
I/ ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ VÀ TÌNH HÌNH TĂNG TRƯỞNG – PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001 – 2009
Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư ở Việt Nam:
Vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ, cải thiện môi trường. Nhìn chung, tổng số vốn đầu tư huy động được tăng dần qua các năm kể từ 2001 cho đến 2009 phù hợp với sức tăng trưởng khá nhanh của nền kinh tế Việt Nam. Tốc độ tăng của vốn đầu tư trong giai đoạn này mang dấu hiệu rất khả quan. Cụ thể: năm 2001, tổng số vốn huy động được chỉ đạt được 170,5 nghìn tỷ đồng, thì đến năm 2009, con số này là 704,7 nghìn tỷ đồng tức tổng vốn đầu tư tăng gấp 4 lần trong vòng 9 năm. Điều này phản ánh dấu hiệu lạc quan trong lĩnh vực đầu tư (đầu tư phát triển) trong nền kinh tế Việt Nam.
Xét về cơ cấu vốn, nếu như trong các năm 2001 và 2002, vốn đầu tư được chú trọng đến khu vực kinh tế nhà nước chiếm lần lượt 60% và 57% trên tổng số vốn đầu tư, thì bắt đầu tư năm 2003 trở đi, cơ cấu vốn đã có sự chuyển dịch. Tức là quan tâm rót vốn vào 2 khu vực kinh tế còn lại (khu vực ngoài nhà nước, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài) nhưng chưa rõ rệt. Năm 2009, vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện theo giá thực tế ước tính tăng 15,3% so với năm 2008 và bằng 42,8% GDP. Trong đó, khu vực nhà nước tăng 40,5%; khu vực ngoài nhà nước tăng 13,9%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm 5,8%. Trong vốn đầu tư của khu vực nhà nước, vốn từ ngân sách nhà nước chiếm 21,8% tổng vốn đầu tư cả nước, đạt 106,8% kế hoạch năm. (bảng 1)
Bảng 1: Vốn đầu tư thực hiện theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế
Đơn vị: nghìn tỷ đồng
Năm
Tổng số vốn
Cơ cấu
Tổng vốn đầu tư
so với tổng sản
phẩm trong nước
(%)
Kinh tế nhà nước
Kinh tế ngoài
nhà nước
Khu vực có
vốn đầu tư
nước ngoài
2001
170,5
102,0
38,5
30,0
35,4
2002
200,1
114,7
50,6
34,8
37,4
2003
239,3
126,6
74,4
38,3
39,0
2004
290,8
139,8
109,8
41,2
40,7
2005
343,1
161,6
130,4
51,1
40,9
2006
404,7
185,1
154,0
65,6
41,5
2007
521,7
208,1
184,3
129,3
45,6
2008
580
257
180
143
41.3
2009
704.2
363
207
134.7
42.8
Nguồn: Tổng cục thống kê
1.1 Đầu tư trong nước:
Năm 2009, vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước ước đạt 163 nghìn tỷ đồng, chiếm trên 21,7% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; vốn trái phiếu chính phủ ước đạt 48 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 6,8%; vốn đầu tư từ khu vực dân cư và tư nhân ước đạt 223,5 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ lệ trên 31,7%.
Vốn vay và vốn của các DNNN cho đầu tư chiếm tỷ lệ nhỏ hơn vốn ngân sách nhà nước trong đầu tư, điều này cho thấy việc tỷ trọng vốn đầu tư tăng là do nhà nước tăng cường tập trung đầu tư cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; đầu tư cho nông nghiệp nông thôn, cho sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, các chương trình phát triển về văn hoá, xã hội, y tế, xoá đói, giảm nghèo.
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước khoảng 50 nghìn tỷ đồng, tăng 25% so với thực hiện năm 2008, chiếm 7% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
* Một số vấn đề:
- Tiến độ thực hiện và giải ngân các nguồn vốn đầu tư nhà nước đạt mức cao hơn nhiều so với các năm trước, bố trí vốn tập trung, khắc phục dần tình trạng phân tán, dàn trải…Tuy nhiên, việc giải ngân còn thấp so với yêu cầu đặt ra, trong đó đặc biệt là nguồn vốn trái phiếu Chính phủ.
- Tình trạng chậm tiến độ xây dựng các công trình, dự án tuy có giảm nhưng vẫn chưa được khắc phục. Công tác chuẩn bị đầu tư, quy hoạch, kế hoạch, công tác xây dựng dự án, thẩm định và phê duyệt dự án chưa được quan tâm đúng mức. Năng lực tư vấn chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhiều dự án, công trình phải chỉnh sửa thiết kế và tổng dự toán, đã ảnh hưởng và làm chậm tiến độ triển khai thực hiện.
Cụ thể, ngành và địa phương, tỷ lệ dự án chậm tiến độ năm 2009 khoảng 12,7% (năm 2008 là 18,2%; năm 2007 là 14,8%; năm 2006 là 13,1%). Số dự án phải thực hiện điều chỉnh trong 6 tháng đầu năm 2009 là 6.478, chiếm 20,2% tổng số dự án; trong đó, 4% dự án điều chỉnh về nội dung đầu tư, 7,1% dự án điều chỉnh về tiến độ, và 12,7% dự án điều chỉnh tổng mức đầu tư. - Tình hình vi phạm quy định về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản dù đã giảm so với năm trước nhưng vẫn còn ở mức cao. Trong 6 tháng đầu năm 2009, có 4.182 dự án vi phạm các quy định về quản lý đầu tư, chiếm khoảng 13% tổng số dự án thực hiện đầu tư trong ký (năm 2008 là 18,9%; năm 2007 là 17,6%; năm 2006 là 13,4%).
Các vi phạm gồm 4.076 dự án chậm tiến độ đề ra, chiếm 12,7% tổng số dự án thực hiện đầu tư trong kỳ; 51 dự án không phù hợp với quy hoạch, chiếm 0,2%; 29 dự án đấu thầu không đúng quy định, chiếm 0,1%; 108 dự án phê duyệt chậm, chiếm 0,3%; 149 dự án chất lượng xây dựng thấp, chiếm 0,5%; 94 dự án lãng phí, chiếm 0,3%.
1.2 Đầu tư nước ngoài:
1.2.1 FDI:
Khu vực FDI tiếp tục khẳng định vai trò của mình trong tiến trình phát triển kinh tế Việt Nam và trở thành một bộ phận cấu thành rất quan trọng của nền kinh tế Việt Nam.
Cụ thể:
Tuy chỉ bằng 30% năm 2008, nhưng FDI vào Việt Nam năm 2009 đạt con số 21,48 tỷ USD cũng vẫn là kết quả khả quan. Mặc dù khủng hoảng kinh tế toàn cầu, song Việt Nam đã vượt mục tiêu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong năm nay, theo kế hoạch ban đầu chỉ là 20 tỷ USD.
Cả nước có 839 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng kí là 16,34 tỷ USD bằng 24,6% so với năm 2008 và 215 dự án xin bổ sung vốn với tổng vốn tăng thêm là 5,13 tỷ USD bằng 98,3% so với năm 2008. Riêng tháng 12, Việt Nam có 1,78 tỷ USD vốn đăng kí và bổ sung.
TT
Ngành
Số dự
án mới
Vốn đăng
ký cấp mới
(triệu USD)
Số lượng
dự án
tăng vốn
Vốn
đăng ký
tăng thêm
(triệu USD)
Vốn đăng ký cấp
mới và tăng thêm
(triệu USD)
1
Dvụ lưu trú và ăn uống
32
4.982,6
8
3.811,7
8.794,2
2
KD bất động sản
39
7.372,4
4
236,1
7.608,5
3
CN chế biến,chế tạo
245
2.220,0
131
749,3
2.969,2
4
Xây dựng
74
388,3
11
99,2
487,4
5
Khai khoáng
6
397,0
0
0,0
397,0
6
Nghệ thuật và giải trí
12
291,8
0
0,0
291,8
7
Bán buôn,bán lẻ;sửa chữa
115
191,7
14
46,5
238,2
8
Vận tải kho bãi
26
109,8
5
74,8
184,6
9
SX,pp điện,khí,nước,đ.hòa
16
129,0
1
27,9
156,9
10
HĐ chuyên môn, KHCN
148
89,0
7
10,9
99,9
11
Thông tin và truyền thông
63
67,6
17
25,5
93,1
12
Nông,lâm nghiệp;thủy sản
16
62,4
8
22,5
84,9
13
Giáo dục và đào tạo
8
5,2
3
23,7
28,9
14
Dịch vụ khác
22
14,9
5
7,9
22,7
15
Cấp nước;xử lý chất thải
5
8,4
0
0,0
8,4
16
Y tế và trợ giúp XH
6
7,4
1
0,9
8,3
17
Hành chính và dvụ hỗ trợ
5
7,9
0
0,0
7,9
18
Tài chính,n.hàng,bảo hiểm
1
0,0
0
0,0
0,0
Tổng số
839
16.345,4
215
5.136,7
21.482,1
Nguồn số liệu: bộ kế hoạch và đầu tư
1.2.2 ODA
Tổng giá trị vốn ODA được ký kết thông qua các hiệp định với các nhà tài trợ năm 2009 ước đạt 6.144,4 triệu USD. Trong đó, vốn vay là 5.929,4 triệu USD, viện trợ không hoàn lại là 215 triệu USD. Tổng số vốn ODA giải ngân năm 2009 ước đạt trên 3.600 triệu USD, bao gồm vốn vay khoảng 3.255 triệu USD; vốn viện trợ không hoàn lại khoảng 345 triệu USD.
Trong số 28 nhà tài trợ cho Việt Nam năm nay, có 5 đối tác đa phương (ADB, EC, UN Agencies, WB và International NGOs), và 23 đối tác song phương. Trong các nước trực tiếp viện trợ ODA cho Việt Nam, đứng đầu là Cộng hòa Pháp với 280,96 triệu USD, Hàn Quốc 268,7 triệu USD, Đức 186 triệu USD, Hoa Kỳ 128,12 triệu USD... Hàn Quốc và Thái Lan là hai quốc gia châu Á duy nhất cam kết tài trợ cho Việt Nam. Riêng Nhật Bản - nguồn viện trợ khá lớn của Việt Nam các năm trước không có tên trong danh sách các nước cam kết hỗ trợ ODA cho Việt Nam.
* Các kết quả đạt được:
- Việc thu hút và sử dụng ODA trong thời gian qua góp phần quan trọng trong việc thực hiện thành công chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá, giữ vững độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia.
Tuy tiếp nhận một khối lượng vốn ODA bao gồm các khoản vay gắn liền với các điều kiện về cải cách thể chế, song ta vẫn giữ được độc lập tự chủ và chủ động thực hiện công cuộc đổi mới và cải cách theo chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
- ODA đã bổ sung một nguồn vốn quan trọng góp phần cân đối nguồn vốn đầu tư phát triển trong các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Nguồn vốn ODA đã bổ sung khoảng 11,4% cho tổng vốn đầu tư toàn xã hội và trung bình khoảng 50% tổng đầu tư từ ngân sách. ODA đã thực sự trở thành kênh vốn bổ sung quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tuy đã vay một lượng vốn ODA đáng kể, song theo đánh giá của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), nợ nước ngoài của ta hiện trong giới hạn an toàn.
- ODA đã hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa, cải thiện các dịch vụ kinh tế - xã hội, xoá đói, giảm nghèo.
- Nguồn vốn ODA đã góp phần phát triển kinh tế, xã hội và xoá đói giảm nghèo của nhiều địa phương, bao gồm phát triển cơ sở hạ tầng quy mô vừa và nhỏ (nước, đường, trường, trạm, lưới điện, điện thoại...). Nhờ vậy đã tăng cường khả năng tiếp cận với các dịch vụ cơ sở hạ tầng nông thôn, cải thiện cơ sở vật chất trường học, y tế và phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy lợi, thủy sản của nhiều địa phương, đặc biệt ở các tỉnh nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc.
- Thông qua các chương trình và dự án ODA, ta đã tiếp nhận được các thành tựu khoa học hiện đại, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tăng cường năng lực và phát triển thể chế, hỗ trợ xây dựng chính sách, luật pháp: Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai, Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Cạnh tranh, Luật Chống tham nhũng,...và đào tạo cán bộ.
Tình hình tăng trưởng và phát triển kinh tế giai đoạn 2001 – 2009:
Sau hơn 20 năm thực hiện đổi mới, tốc độ tăng trưởng GDP củaViệt Nam đã tăng liên tục. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), GDP chỉ đạt mức tăng trưởng bình quân 4,4%/năm, thì trong 5 năm tiếp theo (1991 - 1995), tăng trưởng GDP bình quân là 8,2%; cao hơn so với kế hoạch đề ra là 5,5% - 6,5%; và thuộc vào loại cao trong số các nước đang phát triển. Trong giai đoạn 1996 - 2000, tốc độ tăng GDP bình quân của Việt Nam là 6,9%; tuy có thấp hơn nửa đầu thập niên 90 thế kỷ XX do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á, nhưng vẫn vào loại cao trong khu vực. Năm 2001, tốc độ tăng GDP của Việt Nam là 6,9%; năm 2002: 7%; năm 2003: 7,3%; năm 2004: 7,7%; năm 2005: 7,5%; năm 2006: 8,2% và năm 2007: 8,5%. So với các nước trong khu vực, Việt Nam đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng rất cao.
Do chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, tăng trưởng kinh tế Việt Nam có dấu hiệu của sự sụt giảm đáng kể. Tốc độ tăng trưởng Tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Việt Nam năm này chỉ đạt 6,23% tức là thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng của năm ngoái và thấp nhất trong vòng 9 năm trở lại đây
Đánh giá chung về tình hình tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam 2009: tốc độ tăng trưởng kinh tế tuy đã tăng lên, vượt qua giai đoạn suy giảm, nhưng tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào phát triển theo chiều rộng, tăng khối lượng các nguồn lực, nhất là tăng vốn đầu tư, chưa thực sự dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội và nâng cao hiệu quả nên tăng trưởng chưa thật vững chắc, chất lượng và hiệu quả tăng trưởng chưa cao. Tỷ lệ đầu tư so với GDP năm 2008 là 41,3%; năm 2009 là 42,8%; nhưng tốc độ tăng GDP hai năm chỉ đạt 6,18% và 5,32% là chưa tương xứng. Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và của nhiều ngành, nhiều sản phẩm còn thấp.
II/ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐỌAN 2001 - 2009
Tác động tới tốc độ tăng trưởng:
Từ năm 2001 đến nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam luôn được xếp vào hàng cao của khu vực và thế giới, đặc biệt năm 2006 (8,2%) và năm 2007 ( 8,5%), và mặc dù trong năm 2008 (6,23%), 2009 (5,32%) có sự sụt giảm do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhưng Việt Nam được xếp vào hàng các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới.
Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế là 3 yếu tố đầu vào: vốn, lao động và nhân tố năng suất tổng hợp (TFP). Mức độ đóng góp của từng yếu tố đầu vào này trong từng giai đoạn thể hiện bảng sau:
Tốc độ tăng
GDP
Tốc độ tăng năng
suất nhân tố tổng
hợp (TFP)
Đóng góp
của vốn
Đóng góp
của lao
động
2003-2008
45,72
7,55
13,43
6,74
Phần trăm đóng góp
100%
16,51%
86,75%
14,74%
Bình quân TFP hàng năm
1,50
2004-2009
42,22
6,92
30,25
5,04
Phần trăm đóng góp
100%
16,40%
71,66%
11,93%
Bình quân TFP hàng năm
1,47
Như vậy, bảng trên cho thấy: Việt Nam tăng trưởng chủ yếu dựa vào đầu tư quá mức và dàn trải. Mức đóng góp của yếu tố vốn vào tăng trưởng chiếm đến 68,75% trong giai đoạn năm năm 2003 – 2008 và tăng lên đến 71,40% trong năm năm 2004 – 2009. Đây là một tỷ lệ cao hiếm thấy trên thế giới.
Tuy vốn đầu tư đóng vai trò chủ chốt đối với sức tăng trưởng của kinh tế Việt Nam nhưng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của nước ta đang có xu hướng giảm dần trong những năm gần đây. Điều này thể hiện ở hệ số ICOR:
ICOR Việt Nam qua các giai đoạn 2001-2009
Giai đoạn
ICOR
2001-2003
5.24
2004-2006
5.04
2006-2008
6.15
2009
8
Với nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, theo khuyến cáo của các định chế tài chính có uy tín như Ngân hàng Thế giới, ICOR ở mức 3 là đầu tư có hiệu quả và nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững. Nhưng nhìn vào số liệu đã thống kê ở trên, ICOR Việt Nam luôn ở mức xấp xỉ 5 từ (2001-2006) và tăng đến 6,15 năm 2008, đặc biệt, đạt mức báo động 8 ở năm 2009. Nguyên nhân chủ yếu là do đầu tư dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm; tình trạng thất thoát, lãng phí trong sử dụng vốn nhà nước vẫn còn xảy ra; công tác cải cách hành chính được thúc đẩy nhưng còn nhiều bất cập. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng tăng trưởng.
Nói đến chất lượng tăng trưởng, phải kể đến nhân tố năng suất (TFP). Năng suất thể hiện những tiến bộ về hiệu quả của nền kinh tế như công nghệ, phương pháp quản lý… Nhưng trong tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam, năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) chỉ đóng góp vào tăng trưởng 7,29% trong khi tăng trưởng do đóng góp của vốn vào khoảng 83,2%. Năng suất các nhân tố tổng hợp trong giai đoạn 2004 – 2008 cũng chỉ tăng bình quân khoảng 1,5% nhưng mức tăng này ngày càng giảm dần. Đặc biệt, từ năm 2007 đến nay, năng suất nhân tố tổng hợp chỉ tăng xấp xỉ 1%. Điều này chứng tỏ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam không thiên về chiều sâu, chưa chú trọng phát triển các yếu tố khoa học kỹ thuât, chất lượng quản lý…Theo đà phát triển hiện nay, TFP ngày càng trở nên quan trọng. Nâng cao nhân tố TFP sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong dài hạn.
Mặt khác, tăng trưởng kinh tế Việt Nam cũng phụ thuộc vào yếu tố số lượng lao động. Nguồn lao động ở Việt Nam khá dồi dào và hàng năm thì tăng khoảng 2%, tức là trên 1 triệu người mỗi năm. Số lượng gia tăng nhanh, nhưng chất lượng lao động không cao dẫn đến tỷ trọng của yếu tố lao động đóng góp vào tăng trưởng kinh tế không cao (ước khoảng 25-27% GDP). Lực lượng lao động phân bố chênh lệch dẫn đến tình trạng thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn.
Tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
2.1 Những thành tựu:
Bảng: cơ cấu GDP và cơ cấu vốn đầu tư theo ngành (%)
Cơ cấu GDP
Cơ cấu vốn đầu tư
1995
2000
2005
2008
1995
2000
2005
2008
Nền kinh tế
100
100
100
100
100
100
100
100
Khu vực I
27.2
24.5
21.0
22.1
13.3
13.8
7.5
8.4
NN và LNghiệp
23.0
19.8
15.8
18.1
12.5
11.4
5.9
4.8
Thủy sản
2.9
3.4
3.9
4.0
0.7
2.5
1.7
1.6
Khu vực II
28.8
36.7
41.0
39.7
34.1
39.2
42.6
40.6
Khai thác mỏ
4.8
9.6
10.6
8.9
5.0
6.3
7.8
8.3
CN chế biến
15.0
18.6
20.6
21.1
17.1
19.3
19.9
17.7
SX và pp điện
2.1
3.2
3.4
3.2
9.2
11.2
11.0
10.5
Xây dựng
6.9
5.4
6.3
6.5
2.8
2.4
3.8
4.1
Khu vực III
44.1
38.7
38.0
38.2
52.7
46.9
49.9
53.0
Thương mại
16.4
14.2
13.6
13.9
1.2
2.0
5.4
4.6
KS nhà hàng
3.8
3.2
3.5
4.4
5.3
2.9
1.9
1.9
Vận tải,tt liên lạc
4.0
3.9
4.4
4.5
15.7
13.2
14.1
14.7
Tài chính tín dụng
2.0
1.8
1.8
1.8
0.1
0.9
0.6
1.2
KH và công nghệ
0.6
0.5
0.6
0.6
0.3
1.2
0.4
0.6
Tài sản và tư vấn
5.4
4.3
4.0
3.6
3.0
2.7
1.7
5.8
Quản lý NN
3.6
2.7
2.7
2.8
3.1
2.6
2.8
2.1
GD và đào tạo
3.6
3.4
3.2
2.6
2.5
4.0
2.9
2.7
Nguồn: NGTK. GDP và vốn đầu tư được tính theo giá hiện hành
Tổng vốn đầu tư ở khu vực I thấp và giảm dần: 13,8% năm 2000, còn 6,5% vào năm 2008 so với tỉ trọng của nhóm ngành này trong GDP năm 1995 là 27% và năm 2008 là 20% thì số đầu tư nói trên là quá thấp. Trong khu vực I, đầu tư giảm chủ yếu trong nông nghiệp, tỷ trọng của ngành này trong GDP cũng giảm rất nhanh từ 23% trong GDP năm 1995 còn có 15% vào năm 2008.
Nội lực của khu vực I là khá mạnh nếu xét từ yếu tố thiên nhiên và nguồn lao động. Nó cũng hấp dẫn khi trên thực tế có hàng ngàn tỷ đồng đầu tư vào nuôi tôm, nuôi cá và theo sau đó là các nhà máy chế biến. Nhưng nông nghiệp do phương thức canh tác của nó, phục thuộc rất nhiều vào thời tiết và khí hậu nên nó là ngành kém hấp dẫn, khó thu hút đầu tư từ bên ngoài vào. Đặc biệt khi gắn nó với nhiệm vụ an ninh lương thực, chống lạm phát thì không thể có mức giá thu hút đầu tư. Do vậy cần có chính sách khuyến khích đầu tư của những người từ trong ngành.
Không thể đánh giá một cách đơn giản về vai trò của nông nghiệp bằng các số liệu về % của nó trong GDP là bao nhiêu hay chỉ vì xu thế đang giảm mà xem nhẹ nó. Cần xem xét các tác động và ảnh hưởng của nó tới ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, xuất khẩu, công ăn việc làm và hàng loạt các vấn đề xã hội. Với tỷ trọng là 20% mà khu vực I chiếm trong GDP thì không phải là nhỏ. Tỷ trọng đó còn lớn hơn so với thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài mà phải mất nhiều năm nhọc công xây dựng chính sách, đầu tư cơ sở hạ tầng mới có được.
Đầu tư mạnh vào khu vực II đã nâng tỷ trọng của khu vực này từ ít hơn 30% hồi năm 95 lên 42% vào năm 2008.Đầu tư nhiều vào khu vực II không chỉ là từ nội bộ khu vực mà còn bởi tác động rất lớn từ Chính phủ về phương diện chính sách và qua kênh phân bổ vốn, bão lãnh vốn cho các DNNN.
Bảng: cơ cấu GDP và vốn đầu tư theo thành phần sở hữu vốn (%)
Cơ cấu GDP theo thành phần
Cơ cấu vốn đầu tư theo thành phần
1995
2000
2005
2008
1995
2000
2005
2008
Nền kinh tế
100
100
100
100
100
100
100
100
KT nhà nước
40.2
38.5
38.4
34.4
42.0
59.1
47.1
28.6
KT ngoài NN
53.5
48.2
45.6
47.0
27.6
22.9
38.0
40.4
KT có FDI
6.3
13.3
16.0
18.7
30.4
18.0
14.9
31.5
Nguồn: NGTK. GDP và Vốn đầu tư được tính theo giá hiện hành
Cơ cấu đầu tư theo thành phần kinh tế cho thấy bức tranh phân bổ nguồn lực giữa các tác nhân tham gia quá trình đầu tư. Thành phần kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư, lúc cao nhất lên đến 59% năm 2000, năm 2008 là 37%. Nguồn vốn chảy vào thành phần kinh tế này là từ ngân sách nhà nước, vốn từ các ngân hàng, có thể còn là nguồn vay khác với sự bảo lãnh của Chính phủ. Một so sánh khác, nếu tính theo giá cố định thì tỷ trọng của thành phần kinh tế này ở vào khoảng 40% GDP từ 1995 đến 2008 nhưng trong cơ cấu đầu tư thì chiếm đến 55% từ 2000 đến 2005.
Các số liệu trên cho thấy hiệu quả vốn đầu tư ở thành phần kinh tế này là thấp, càng gia tăng đầu tư vào đây thì hiệu quả càng giảm.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm vào khoảng 20 đến 30 % trong tổng vốn đầu tư và vào khoảng từ 14 – 18% GDP. Vốn đầu tư nước ngoài đã bổ sung và trở thành thành phần quan trọng trong tổng mức đầu tư vào nền kinh tế. Tác động nó không dừng lại ở phần mà nó làm ra, đóng góp vào GDP mà còn tạo ra mối liên hệ với các thành phần kinh tế khác trong quá trình đặt hàng và lan tỏa của hiệu ứng đầu tư khi kích thích đầu tư ở các thành phần kinh tế khác. Tuy nhiên số vốn của thành phần kinh tế này không phải hoàn toàn từ nước ngoài chảy vào mà còn có một phần từ vốn vay trong nước và vốn tích lũy trong quá trình kinh doanh tại Việt Nam, sự chuyển vốn của công ty mẹ trong quá trình đầu tư mua sắm.
Khi qui mô của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài lớn lên và quá trình hoạt động ở Việt Nam đủ lâu, thành phần kinh tế này sẽ tiếp cận các nguồn tín dụng và tài nguyên trong nước không khác gì các doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp ngoài nhà nước thì vấn đề sẽ khác, hoàn toàn khác. Sự cạnh tranh phân bổ tài nguyên, nguồn lực, từ nguồn vốn tín dụng, điện năng… sẽ là khó khăn lớn, rất lớn cho thành phần kinh tế ngoài nhà nước, đặc biệt là với kinh tế cá thể. Tác động và ảnh hưởng như thế nào cònphải xem xét những ngành mà đầu tư nước ngoài hướng đến hiện nay để hình thành nên những cấu trúc trong tương lai.
Kinh tế ngoài nhà nước (với đại bộ phận là cá thể) với gần ½ GDP nhưng chỉ chiếm ít hơn 30% trong tổng vốn đầu tư cho thấy sự yếu kém về nội lực của thành phần kinh tế này. Điều đó cũng chỉ ra rằng cạnh tranh quyết liệt trong thời gian tới để giành lấy thị phần, giành lấy nguồn lực bất lợi nghiêng về thành phần kinh tế này. Với viễn cảnh đó đòi hỏi chính sách phải có sự nâng đỡ với thành phần kinh tế này.
2.2 Những nguyên nhân:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam chưa rõ rệt do một số nguyên nhân sau:
- Kinh tế toàn cầu phát triển mạnh mẽ, chính sách đầu tư Việt Nam tuy có những cải biến đáng kể nhưng chưa tương xứng với yêu cầu để xác định cơ cấu đầu tư được định vị trrong chuỗi giá trị toàn cầu.
- Chính sách đầu tư VN có những cải biến đáng kể của một nền kinh tế đang chuyển đổi, tính thị trường trong huy động và phân bố nguồn lực ngày càng rõ nét, song mức độ vận hành cơ chế thị trường chưa sâu.
- Cơ chế khuyến khích đầu tư và quản lý hoạt động đầu tư chưa phù hợp và kém tính linh hoạt. Chính sách đầu tư chưa hướng vào các ngành công nghệ cao, ngành có lợi thế cạnh tranh và có đóng góp tích cực cho chất lượng tăng trưởng.
- Chính sách đầu tư chưa quan tâm thỏa đáng đến quy hoạch dẫn đến tình trạng đầu tư thiếu quy hoạch và không đồng bộ, công tác dự báo đầu tư còn hết sức hạn chế.
- Chính sách đầu tư chưa ổn định, thiếu tính linh hoạt trong một số trường hợp không phù hợp với thực tế và một số chính sách đưa ra mang tính chất tình thế hơn là tính chất dài hạn.
Tác động của đầu tư đối với phát triển khoa học - công nghệ:
Khoa học - công nghệ thể hiện vai trò vô cùng quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Vì vậy mà trong những năm vừa qua, Việt Nam đã rất chú trọng đến vấn đề phát triển năng lực công nghệ nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời nâng cao chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh. Ngoài việc tiếp tục phát triển các khu công nghệ cao sẵn có từ 2006 như: khu công nghệ cao Hồ Chính Minh, khu công nghệ cao Láng Hòa Lạc…Thì trong năm 2009, nước ta đề xuất và tiến hành xây dựng thêm một số khu công nghệ cao khác như: khu công nghệ cao Đà Nẵng (1400ha), khu công nghệ cao sinh học Đồng Nai…Tuy nhiên, nhận thức về đầu tư đổi mới công nghệ còn hạn chế, cơ chế chính sách cho đầu tư đổi mới công nghệ chưa hoàn thiện và đồng bộ.
Kết quả điều tra cho thấy mức độ hiện đại của các doanh nghiệp như sau:
39% thuộc về những năm 1980
57% thuộc về những năm 1990
10% thuộc về thời kì 1970
Trong đó, 70% công nghệ chỉ đạt mức đồng bộ trung bình, 7% là chắp vá. Điều này dẫn đến mức độ làm chủ công nghệ trong hầu hết các doanh nghiệp ở mức rất thấp, hầu hết còn phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu và thiết bị công nghệ nhập khẩu. Hầu hết các doanh nghiệp tiến hành đổi mới công nghệ mang tính thụ động do yêu cầu trong quá trình sản xuất mà chưa có kế hoach dài hạn. Thêm vào đó, phương thức tiến hành chủ yếu là bắt chước, thiết kế lại của nước ngoài (52%), nhập khẩu công nghệ (56%), còn mối quan hệ với các cơ quan nghiên cứu khoa học là rất yếu (31% do hợp tác với trong nước và 8% hợp tác với nước ngoài), và thuê tư vấn trong nước rất ít (5%).
Đầu tư từ ngân sách cho KHCN của VN nếu tính tương đối (khoảng 0,5% GDP) thì không thấp so với thế giới và phù hợp với một nước đang phát triển nhưng đầu tư KH-CN ở khu vực tư nhân quá thấp mới đạt khỏang 0,2% GDP. 10 ngành có giá trị xuất khẩu lớn của Việt Nam (nông nghiệp, thủy sản, dệt may, da giầy...) vẫn chủ yếu là bán sức lao động chứ chưa thể bán "chất xám" hàm chứa trong sản phẩm. Doanh nghiệp trong các ngành này tập trung đầu tư vào công đoạn chế biến sản phẩm với mong muốn hoàn vốn nhanh, còn làm thế nào để có được nguồn nguyên liệu tốt thì họ đùn cho nhà nước. Từ đó, ta thấy vốn đầu tư cho khoa học – công nghệ còn ít, lại dàn trải. Hiện mức đầu tư toàn xã hội cho KHCN còn khoảng 0,7% GDP (thấp nhất thế giới). Còn theo số đầu tư trên đầu người thì chỉ đạt đạt 5 USD/người. Với nguồn kinh phí ít ỏi như trên, cộng với đầu tư dàn trải ở nhiều nơi, nên chưa tập trung giải quyết những vấn đề công nghệ trọng điểm, có ý nghĩa quyết định tạo ra các sản phẩm chiến lược cũng như ngành nghề mới.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực nâng cao năng lực cạnh tranh:
Vấn đề phát triển con người và phát triển nguồn nhân lực là một trong những vấn đề được quan tâm nhiều nhất ở nước ta hiện nay. Đất nước đang bước vào một giai đoạn phát triển mới với rất nhiều cơ hội và thách thức, nhưng với thực trạng nguồn nhân lực, nếu không được đầu tư một cách hiệu quả, rất có thể nền kinh tế của chúng ta sẽ trở nên lạc hậu so với thế giới.
Lao động là một trong 3 yếu tố đầu vào đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Việt Nam là một nước có dân số tương đối trẻ, nguồn lao động rất dồi dào với mức tăng 2%/ năm nhưng mức đóng góp của yếu tố lao động vào tốc độ tăng GDP không cao. Nguồn nhân lực không được đánh giá và sử dụng một cách hiệu quả.
*Một số vấn đề:
- Thiếu lao động trong khi tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức cao. Tính đến cuối năm 2006, Việt Nam có tổng cộng 45,3 triệu lao động, trong đó ba phần tư là lao động ở nông thôn, hiện mới chỉ có 32% số lao động là đã qua đào tạo và tỷ lệ lao động đã có chứng chỉ đào tạo ngắn hạn là 14,4%. Báo cáo về tình hình thị trường lao động Việt Nam do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội soạn thảo đã khẳng định: “Việt Nam thiếu trầm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao và lao động dịch vụ cao cấp trong các ngành tài chính, ngân hàng, du lịch, bán hàng... nên nhiều nghề và công việc phải thuê lao động nước ngoài trong khi lao động xuất khẩu đa phần có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp hoặc mới chỉ qua giáo dục định hướng”. Trong khi đó, thất nghiệp đối với các lao động không được đào tạo lại trở thành vấn nạn của nền kinh tế.
- Kỹ năng làm việc của lao động Việt Nam, đặc biệt các lao động mới ra trường là nỗi lo thường trực của doanh nghiệp. Theo ý kiến của nhiều chủ doanh nghiệp, các cán bộ phụ trách nhận sự thì nguyên nhân chính của thực trạng này nảy sinh ngay từ trong giảng đường, sinh viên chỉ được học kiến thức mà chưa được rèn luyện kỹ năng. Nhiều doanh nghiệp đã phải đào tạo lại sinh viên khi ra trường và vừa đào tạo vừa phải lo lắng vì nhân viên luôn có ý định nhảy việc, tìm công việc mới để có thêm "kinh nghiệm".
Vấn đề làm trái ngành nghề: Thời báo kinh tế Việt Nam 14/09/2007: tổng liên đoàn Lao động Việt Nam vừa thực hiện điều tra, khảo sát thực trạng việc làm, thu nhập và đời sống của người lao động trong các doanh nghiệp FDI tại một số địa phương thu hút nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Theo đó, khoảng 74% lao động có việc làm ổn định, 22% lao động không có việc làm ổn định, 4% thiếu việc làm. Chỉ có khoảng 50% lao động có đào tạo được làm đúng nghề.
Hiện tượng chảy máu chất xám, mất đi nguồn nhân lực trình độ cao đang làm đau đầu các nhà chức trách. Học bổng từ ngân sách nhà nước gửi sinh viên đi du học tại nước ngoài nhằm nâng cáo chất lượng nguồn nhân lực bị lãng phí do tâm lý e ngại, không muốn trở về sau khi tốt nghiệp của những sinh viên này.
Đầu tư gián tiếp giải quyết các vấn đề xã hội:
5.1 Xóa đói giảm nghèo:
Do những thành tựu trong tăng trưởng kinh tế đã góp phần giúp Việt Nam thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo tốt hơn. Thành quả xoá đói, giảm nghèo của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao, báo cáo phát triển Việt Nam năm 2004 đã ghi nhận: “Những thành tựu giảm nghèo của Việt Nam là một trong những câu chuyện thành công nhất trong phát triển kinh tế” tạo được sự đồng thuận xã hội cao, góp phần ổn định chính trị, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tăng trưởng kinh tế của đất nước, thực hiện cam kết thiên niên kỷ, góp phần nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam giảm nhanh, từ 17,2% năm 2001 xuống còn 6,3% năm 2005 (theo chuẩn nghèo cũ), bình quân mỗi năm giảm được trên 30 vạn hộ, đạt được mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII và IX đề ra.
+ Cơ sở hạ tầng thiết yếu của các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn từng bước được xây dựng, năm 2000 có khoảng 4.000 công trình được đưa vào sử dụng, đến năm 2006 đã có trên 30.000 công trình được xây dựng và đưa vào sử dụng đã làm cho bộ mặt của xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn được cải thiện đáng kể nhất là trường học, trạm y tế, thuỷ lợi nhỏ, đường giao thông, nước sạch và vệ sinh môi trường…
+ Chất lượng cuộc sống của người dân ở các xã nghèo đã được nâng lên một bước, thu nhập bình quân của 20% nhóm nghèo nhất năm 2001 đạt 107.000 đồng/người/tháng và tăng 1,45 lần vào năm 2005. Với phương châm huy động đa nguồn, qua các kênh, các hình thức huy động phong phú, từ năm 2001 đến 2005 tổng nguồn lực để thực hiện mục tiêu giảm nghèo đạt khoảng 41 nghìn tỷ đồng.
+ Chính phủ ban hành nhiều chính sách mới như: tín dụng đối với học sinh, sinh viên nghèo; cho vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn; tín dụng đối với hộ gia đình sản xuất - kinh doanh tại vùng khó khăn… Sau 2 năm thực hiện, đã có 2,866 triệu hộ nghèo được vay vốn tín dụng ưu đãi; 1,330 triệu lượt người nghèo được hướng dẫn cách làm ăn; 20 ngàn lao động nghèo được hỗ trợ dạy nghề miễn phí; 62 ngàn lượt cán bộ giảm nghèo các cấp được tập huấn nâng cao năng lực; 29 triệu lượt người nghèo được cấp thẻ BHYT; 2,4 triệu học sinh nghèo được miễn giảm học phí; 230 ngàn hộ nghèo được hỗ trợ về nhà ở; nhiều mô hình giảm nghèo ở các vùng đặc thù, mô hình giảm nghèo gắn với an sinh- quốc phòng và mô hình liên kết với các doanh nghiệp được xây dựng có hiệu quả và nhân rộng.
Tỷ lệ hộ nghèo phân theo thành thị, nông thôn & phân theo vùng
Đơn vị: %
Năm
2004
2006
2007
Cả nước
18,1
15,5
14,8
Phân theo thành
thị - nông thôn
Thành thị
8,6
7,7
7,4
Nông thôn
21,2
18
17,7
Phân theo vùng
lãnh thổ
Đồng bằng sông Hồng
12,9
10,1
9,6
Đông Bắc
23,2
22,2
21,4
Tây Bắc
46,1
39,4
38,1
Duyên hải Nam Trung Bộ
21,3
17,2
16,3
Tây Nguyên
29,2
24,0
23,0
Đông Nam Bộ
6,1
4,6
4,1
Đồng bằng sông Cửu Long
15,3
13
12,4
Nguồn: Niên giám thống kê 2007
5.2. Đầu tư góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp:
Giai đoạn 2001-2009 là giai đoạn kinh tế Việt Nam phát triển và hội nhập sâu rộng cùng kinh tế thế giới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn ở mức cao trong khu vực và thế giới. Cùng với đó, hàng loạt các doanh nghiệp được thành lập đã góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp đáng kể tại Việt Nam. Tính riêng giai đoạn 2001-2007, giai đoạn tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng mạnh với sự ra đời của hàng loạt các khu công nghiệp, các nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi giải trí... tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam đã giảm từ 6,42% xuống chỉ còn 4,64%.
Có thể dễ dàng nhận thấy điều này qua bảng số liệu dưới đây:
Tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam trong giai đoạn 2001 - 2009
Năm
Vốn đầu tư (nghìn tỷ)
Tỷ lệ thất nghiệp (%)
2001
170,5
6,28
2002
200,1
6,01
2003
239,2
5,78
2004
290,9
5,60
2005
343,1
5,31
2006
404,7
4,82
2007
521,7
4,64
2008
580
4.7
2009
704.2
4.65
Năm 2008 là năm xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nhưng do nền kinh tế Việt Nam hội nhập chưa sâu nên mức độ ảnh hưởng đến nền kinh tế ít hơn so với các nước khác ( Mỹ, Trung Quốc...), tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam trong năm này có tăng mức nhẹ 4,7%( thêm 0,06% so với năm 2007). Năm 2009, nền kinh tế có sự phục hồi lại đà tăng trưởng, tổng mức vốn đầu tư là 704,2 nghìn tỉ đồng cùng sự xuất hiện của nhiều doanh nghiệp mới đã giúp cho tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta giảm xuống 4,65%.
Tuy tỷ lệ thất nghiệp giai đoạn 2001-2009 giảm xuống rõ rệt (2001-2006) và ít biến động (2007-2009) nhưng vẫn còn ở mức cao. Hiện nay, Việt Nam được xếp vào hàng các quốc gia có dân số trẻ nên lực lượng lao động được bổ sung mỗi năm với số lượng lớn khoảng 2% / năm dẫn đến tình trạng thị trường lao động quá tải. Cơ cấu lao động chưa tương xứng với tăng trưởng, chưa có sự chuyển dịch rõ rệt theo hướng tiến bộ.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG TÁC ĐỘNG CỦA
ĐẦU TƯ TỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
I/ MỤC TIÊU VÀ QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI VIỆT NAM GIAI ĐỌAN 2011 – 2015:
Theo chỉ thị về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015, mục tiêu tổng quát là phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng nhanh, bền vững, tăng cường tiềm lực phát triển của đất nước.
Định hướng phát triển, đồng thời nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch là phấn đấu GDP bình quân 5 năm 2011-2015 tăng 7-8% mỗi năm. Đồng thời, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới bình quân giảm 2-3% mỗi năm. Trong các định hướng phát triển và nhiệm vụ chủ yếu thì các định hướng và nhiệm vụ sau đây được nêu ở hàng đầu: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tạo môi trường đầu tư kinh doanh bình đẳng, minh bạch, ổn định... tháo gỡ các khó khăn thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh phát triển.
Đồng thời, đầu tư phải kết hợp với tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững. Và như vậy thì cần tăng khả năng tích luỹ của nền kinh tế đồng thời tranh thủ thu hút các nguồn vốn từ nước ngoài để tạo thêm nguồn lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, mặt khác vẫn phải đảm bảo mục tiêu cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái. Thực hiện đầu tư hiệu quả, xây dựng cơ cấu đầu tư hợp lý đầu tư có trọng điểm, tránh lãng phí, dàn trải nhất là nguồn vốn ngân sách nhà nước
II/ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ NHẰM THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và bố trí kế hoạch đầu tư
Cần ban hành và thực thi Luật Kế hoạch hoá phát triển kinh tế - xã hội. Công tác quy hoạch cần được đổi mới và nâng cao chất lượng, trong xây dựng quy hoạch phải chú ý tới các tác động xã hội và môi trường. Để được như vậy cần đổi mới nội dung, phương pháp xây dựng, quy trình xây dựng, triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay; phát huy tối đa mọi lợi thế so sánh và nguồn lực của quốc gia, của vùng và địa phương; gắn kết giữa chiến lược, quy hoạch với kế hoạch. Quy hoạch, kế hoạch phải khoa học, công khai, minh bạch, thực sự là công cụ điều hành có hiệu quả của Nhà nước. Quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội là quy hoạch có tính bắt buộc, phải đi trước một bước và phải gắn với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội nói chung, quy hoạch vùng, ngành hàng năm và 5 năm. Tăng cường công tác quy hoạch đất đai, quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo và mâu thuẫn giữa quy hoạch ngành và quy hoạch lãnh thổ. Công tác quy hoạch phải được triển khai đồng bộ từ quy hoạch tổng thể đến quy hoạch cụ thể, có thể tham khảo kinh nghiệm của những chuyên gia giỏi, kể cả chuyên gia nước ngoài trong việc xây dựng, thẩm định quy hoạch. Tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám sát, tổ chức thực hiện kế hoạch. Công tác thống kê phải được thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng, các số liệu thống kê phải kịp thời đáp ứng tốt hơn cho việc xây dựng chính sách, điều hành nền kinh tế.
2. Phân bổ và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả
2.1. Nguồn vốn trong nước
2.1.1. Vốn ngân sách nhà nước
Đối với các dự án sử dụng vốn ngân sách cần tiếp tục tăng cường tính công khai minh bạch, chống khép kín trong đầu tư. Không triển khai tổ chức thực hiện những chương trình, dự án thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn hoặc tính khả thi và hiệu quả thấp. Loại bỏ những dự án, chương trình không thể đáp ứng các yêu cầu và điều kiện cần thiết về tài chính, mặt bằng, thị trường…Tất cả hoạt động đầu tư có liên quan đến sử dụng vốn ngân sách nhà nước cần phải được kiểm tra, giám sát.
Đối với đầu tư tại doanh nghiệp, cần tiếp tục đa dạng hoá các nguồn vốn. Giảm bao cấp dưới nhiều hình thức cho đầu tư như trợ cấp giá, lãi suất thấp, khoanh nợ, xoá nợ dẫn đến sự ỷ lại của các doanh nghiệp. Tiếp tục đẩy mạnh chương trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước.
Về phân bổ nguồn vốn ngân sách nhà nước, cần xây dựng chiến lược đầu tư hợp lý trên cơ sở xác định các lĩnh vực cần ưu tiên đầu tư trong thời gian tới. Trong khu vực công nghiệp xây dựng dịch vụ thì đầu tư cho các dự án xây dựng có tác động tầm quốc gia như công trình truyền tải điện về nông thôn, hệ thống giao thông quốc gia và liên tỉnh, liên huyện, công trình thông tin liên lạc phục vụ các vùng nông thôn...Đối với khu vực nông lâm ngư nghiệp thì đầu tư vào hệ thống đê điều quan trọng, hệ thống thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiêp và chăn nuôi thuỷ sản như hồ chứa nước, kênh dẫn thoát nước hệ trạm bơm, tưới tiêu
* Hướng đầu tư vốn ngân sách nhà nước:
- Trước mắt: Đồng thời ưu tiên đầu tư cho ngành giáo dục và y tế. Đối với các loại hình dịch vụ xã hội khác huy động các nguồn vốn khác ngoài ngân sách.
- Về lâu dài nhà nước nên tăng ngân sách đầu tư cho giáo dục, y tế một cách toàn diện nhằm thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực phục vụ tăng trưởng kinh tế bền vững. Điều chỉnh tăng đầu tư cho thiết bị, máy móc một cách đồng bộ, chất lượng, hiện đại, thoả mãn các điều kiện về tiêu chuẩn chất lượng hiện hành. Đây là yêu cầu cấp thiết nhằm thực hiện hiện đại hoá, công nghiệp hoá.
Nhà nước nên có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp nghiên cứu triển khai. Chuyển dịch mạnh cơ cấu đầu tư theo hướng khai thác mọi tiềm năng, đẩy nhanh tốc độ phát triển của khu vực công nghiệp và dịch vụ. Các ngành công nghệ cao cần được ưu tiên và quan tâm hàng đầu.
2.1.2. Nguồn vốn từ dân cư và tư nhân
Đây là một khoản vốn lớn có thể sử dụng vào đầu tư phát triển các ngành kinh tế, trong tổng vốn đầu tư công hiện nay thì có đến 50% là từ ngân sách Nhà nước, còn 50% là từ các nguồn vốn tín dụng, các doanh nghiệp Nhà nước. Cần có kế hoạch cụ thể về phân bổ sử dụng hợp lý nguồn vốn này tránh thất thoát, lãng phí; đầu tư phải có trọng điểm, đầu tư vào các ngành mũi nhọn phù hợp với lợi thế của từng vùng miền đồng thời cũng phải đầu tư đồng bộ, không để lãng phí nguồn lực. Cần có những phương án hiệu quả hơn, hoặc phải có cơ chế cụ thể trong phân cấp đầu tư và hình thành vốn cho từng vùng, tránh tình trạng đua tranh giữa các địa phương, dẫn đến giảm tính hiệu quả của đồng vốn. Cần có sự phối hợp giữa các địa phương với nhau, giám sát hiệu quả sau đầu tư, tránh để việc đánh giá kết thúc dự án chỉ là cho đủ giấy tờ để thanh toán thôi. Để sử dụng vốn hiệu quả cần khắc phục các vấn đề trong quản lý, như: nghiệp vụ, cơ chế, phối hợp, tổ chức quản lý, giải phóng mặt bằng… Áp dụng một cách trịêt để luật Ngân sách, Luật Phòng chống tham nhũng…Khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài chuyển vốn và công nghệ về nước tham gia đầu tư.
2.2. Nguồn vốn từ nước ngoài (gồm ODA và FDI)
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội đất nước dài hạn tốt sẽ là một định hướng tốt cho công tác vận động vốn ODA và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn FDI. Chiến lược thu hút và sử dụng ODA và FDI trong từng giai đoạn một cách đồng bộ, hợp lý, gắn chặt mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của thời kỳ đó. Chiến lược này có các hướng như sau:
- Vốn ODA và FDI nằm trong tổng thể nhu cầu vốn phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
- Xác lập được danh mục ưu tiên sử dụng vốn ODA và dự án kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài theo ngành và vùng kinh tế.
- Đề xuất được định hướng thu hút vốn từ các đối tác quốc tế, trong đó có xác định rõ đối tác chiến lược
- Đưa ra được các chính sách và giải pháp ưu tiên, khuyến khích thu hút và sử dụng vốn như miến giảm thuế, ưu đãi giá thuê đất…
- Nêu rõ các biện pháp về quản lý và thực hiện trả nợ nước ngoài.
Tiếp tục ưu tiên sử dụng ODA cho các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, giáo dục, đào tạo, y tế. Tăng cường kiểm soát quá trình sử dụng vốn, tránh thất thoát và thường xuyên đánh giá tính hiệu quả xét cả về mặt kinh tế và xã hội của các dự án ODA đang được triển khai. Chỉ thực hiện dự án khi hiệu quả sử dụng vốn ODA cao hơn so với các nguồn tài trợ khác. Trong khâu đàm phán nên xác định rõ cơ quan chịu trách nhiệm quản lý vốn vay và nguồn trả nợ.
Cần đề ra chính sách ưu đãi cụ thể và thiết thực hơn nhằm khuyến khích các doanh nghiệp FDI thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu nhằm tạo cơ sở vững chắc cho công tác trả nợ. Cần có các biện pháp thiết thực kêu gọi vốn ODA song phương từ các nước có nhiều dự án FDI ở Việt Nam.
3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực nhằm nâng cao năng suất lao động
Thời gian tới cần tiếp tục đầu tư cho giáo dục và đào tạo với tỷ trọng thoả đáng. Tiếp tục mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo ở các cấp. Đặc biệt là đầu tư phát triển nguồn nhân lực có trình độ khoa học công nghệ cao, xây dựng và tạo ra đội ngũ cán bộ quản lý giỏi ở các cấp, các ngành cùng với đội ngũ công nhân lành nghề. Bên cạnh đó, cũng cần phải chú trọng đến nguồn nhân lực ở khu vực nông thôn. Tăng cường đầu tư phát triển nguồn nhân lực ở khu vực này sẽ góp phần trong việc chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm dần tỷ trọng lao động tay chân, tăng tỷ trọng lao động có tay nghề, lao động được trang bị kiến thức, có chất xám để làm việc. Thực hiện các biện pháp hỗ trợ về y tế, môi trường, phòng chống bệnh tât, bảo hiểm y tế để đảm bảo nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất xã hội. Đây là một trong những giải pháp cần thiết để trực tiếp nâng cao năng suất lao động và năng suất tổng hợp, từ đó góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng.
4. Đổi mới và hoàn thiện chính sách đầu tư vào công nghệ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
Để tạo tiền đề cho nâng cao chất lượng tăng trưởng một cách bền vững cần phải có chiến lược đầu tư đúng đắn theo hướng tăng cường đầu tư theo chiều sâu để kịp thời áp dụng các thành tựu mới của khoa học công nghệ hiện đại, nhằm phát triển các ngành, các lĩnh vực và các sản phẩm có sức cạnh tranh và hiệu quả cao. Thực hiện tốt đổi mới công nghệ sẽ quyết định đến nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu và trong cạnh tranh quốc tế thì vần đề mở rộng và chiếm lĩnh thị phần sản phẩm, kể cả thị trường nội địa phải được quan tâm. Công tác xúc tiến thương mại cần được nâng lên một cấp độ mới và nó phải là một bộ phận quan trọng trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt chú trọng đến việc đầu tư và xây dựng thương hiệu. Đầu tư cho thương hiệu có ý nghĩa cực kỳ quan trọng để tăng sức cạnh tranh và gia tăng lợi nhuận của sản phẩm.
Cần tập trung hơn vào khai thác và sử dụng triệt để các nguồn lực của nhà nước trong các chương trình khoa học công nghệ, tránh dàn trải vốn cho những chương trình chưa gắn với đòi hỏi thiết thực của cuộc sống. Nhà nước cần có cơ chế đánh giá và khuyến khích đúng đắn, thoả đáng cho các kết quả nghiên cứu và đóng góp thiết thực của các cá nhân và tập thể; tăng cường công tác bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và trí tuệ.
Khi lựa chọn công nghệ cần chú trọng đến tính phổ biến của công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả công nghệ được chuyển giao.
Cần quan tâm chỉ đạo công tác giám sát, đánh giá đầu tư, tiếp tục kiện toàn bộ máy, chỉ đạo các cơ quan đơn vị trực thuộc thực hiện các quy định về giám sát đầu tư.
Tăng cường kiểm tra giám sát tài chính đối với tất cả các khâu của quá trình đâu tư để giảm lãng phí, thất thoát và tham nhũng nhất là đối với các dự án được thực hiện bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước. Cần phải thay đổi cơ bản cách thưc thực hiện kiểm tra giám sát theo hướng tăng cường kiểm tra giám sát trước và từ xa đối với các khâu của quá trình đầu tư nhất là khâu chuẩn bị và ra quyết định về chủ trương đầu tư. Cần khuyến khích cơ chế tự giám sát, gắn trách nhiệm của chủ đầu tư và tư vấn giám sát với chất lượng của công trình.
Bên cạnh việc kiểm tra, giám sát cần phải xây dựng một số chế tài đủ mạnh đối với chủ đầu tư, cơ quan cấp trên của chủ đầu tư khi các đơn vị này thực hiện sai cơ chế phân bổ và sử dụng vốn đầu tư. Cần một số hình thức khen thưởng vật chất đối vối các đơn vị thực hiện tốt công tác triển khai thực hiện dự án đầu tư, quyết toán đối với các dự án hoàn thành, đảm bảo chất lượng, đúng thời gian quy định, phê bình các đơn vị không thực hiện nghiêm chỉnh quy chế quản lý, sử dụng vốn đầu tư, thực hiện quyết toán vốn đầu tư chậm.
Về công tác điều hành, cần có sự tham gia của các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư như bộ kế hoạch & đầu tư, sở kế hoạch và đầu tư cùng các ban ngành có liên quan khác. Các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư cần rà soảt lại hệ thống văn bản từ khâu chuẩn bị thực hiện đầu tư đến khâu tạm ứng, thanh toán và quyết toán đầu tư nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả quản lý vốn đầu tư; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra các bộ, ngành địa phương trong việc chấp hành các quy định về quản lý đầu tư, phân bổ vốn đầu tư.
Cần nghiên cứu và sớm ban hành mức chi phí cho công tác giám sát, đánh giá đầu tư để tạo điều kiện cho cán bộ và công ty tư vấn thực hiện tốt nhiệm vụ này, trực tiếp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư, góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Thực hiện nghiêm túc quy chế đấu thầu. Tăng cường sử dụng các tổ chức tư vấn, giám sát độc lập trong quá trình thực hiện dự án đặc biệt là các dự án lớn. Cần hoàn thiện chính sách thuế nhằm đảm bảo sự bình đẳng cả về quyền hạn và nghĩa vụ thuế giữa các doanh nghiệp, không phân biệt thành phần kinh tế để khuyến khích cạnh tranh lành mạnh. Phải có sự quản lý ở tầm vĩ mô trong việc sử dụng các nguồn lực như tài nguyên thiên nhiên. Cần có các quy định cụ thể về trách nhiệm của các bộ, ngành, các cá nhân trong việc tham gia ý kiến về dự án. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đầu tư trong phạm vi cả nước. Bộ kế hoạch và đầu tư chịu trách nhiệm trước chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư. Các bộ và cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về đầu tư đối với lĩnh vực được phân công. Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về đầu tư trên địa bàn theo phân cấp của Chính phủ.
KẾT LUẬN
Các lý thuyết kinh tế về đầu tư trên đây chủ yếu bàn về sự tác động của đầu tư đến sản lượng và sự tác động của việc gia tăng sản lượng đến đầu tư, vai trò của đầu tư với tăng trưởng phát triển, nguồn vốn đầu tư…
Đầu tư có vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đầu tư tác động cả tổng cung và tổng cầu, do vậy việc điều hành chính sách cần linh hoạt trong việc sử dụng các biện pháp kích cầu đầu tư và tiêu dùng. Đầu tư tác động tới cả tốc độ và chất lượng tăng trưởng. Các nhà quản lí cần nhận thức rõ vai trò của hệ số ICOR trong phân tích, dự báo tăng trưởng và đánh giá hiệu quả đầu tư. Đầu tư còn tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chỉ có trên cơ sở đầu tư đúng, trọng tâm, trọng điểm và đồng bộ, cơ cấu đầu tư hợp lý…mới làm cho cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH. Ngoài ra, đầu tư còn tác động tới sự phát triển của khoa học công nghệ. Không thể có công nghệ hiện đại, phù hợp nếu không đầu tư tương ứng và hiệu quả.
Việc đổi mới cơ cấu đầu tư của nhà nước trong thời gian qua, đặc biệt là đầu từ đầu những năm 2001 đến nay đã thu được những thành tựu quan trọng thể hiện rõ nhất trong việc phát triển tăng trưởng của nền kinh tế và cơ cấu đầu tư của ngân sách nhà nước đã tập trung vào cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội… cũng như đầu tư của khu vực tư nhân trong nước, nước ngoài. Cơ chế quản lí đầu tư cũng có những đổi mới và đem lại những hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư vẫn còn nhiều hạn chế , tồn tại chưa khắc phục được làm cho vốn đầu tư bị phân tán, dàn trải, thất thoat, hiệu quả đầu tư chưa cao từ đó làm chậm tiến độ tăng trưởng và phát triển đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế đầu tư, NXB Đại học Kinh tế quốc dân 2007
Giáo trình kinh tế phát triển
Niên giám thống kê 2001 - 2009
Thời báo kinh tế Việt Nam
Báo đầu tư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- k49a_n2_tac_dong_cua_dau_tu_5697.doc