Nhìn chung, ô nhiễm môi trường ở TP.
HCM là một trong những hệ lụy của quá
trình đô thị hóa quá nhanh, chưa hợp lí và
thiếu tính bền vững, đầu tư tăng trưởng
kinh tế không đi kèm với việc bảo vệ môi
trường. Phát triển đô thị và bảo vệ môi
trường sinh thái là hai quá trình không thể
tách rời nhau.
4. KẾT LUẬN
Đô thị hóa là quy luật tất yếu trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia, mỗi địa phương. TP. HCM là
một địa phương đang trong quá trình CNH
– HĐH diễn ra mạnh, vì vậy có sức hút
mạnh mẽ đối với dân cư, lao động từ các
địa phương khác đến làm đẩy nhanh quá
trình đô thị hóa. Việc đánh giá đúng quá
trình đô thị hóa và những tác động của đô
thị hóa đến phát triển kinh tế - xã hội là
việc làm cần thiết, để từ đó có thể đưa ra
những giải pháp phù hợp nhằm hạn chế
những tác động tiêu cực trong quá trình đô
thị hóa. Để TP. HCM trở thành trung tâm
kinh tế, văn hóa, trung tâm công nghiệp,
dịch vụ đa lĩnh vực của cả nước và khu vực
Đông Nam Á thì thành phố phải thực hiện
quá trình CNH - ĐTH theo hướng phát
triển bền vững.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
13 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 871 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của đô thị hóa đến phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 1 (26) - Thaùng 1/2015 
167 
TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN PHÁT TRIỂN 
KINH TẾ - XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
PHẠM THỊ BẠCH TUYẾT (*) 
T M TẮT 
Đô ó u ấ y u o qu ì ể k - ã ộ ủ ỗ qu 
 ó d ù ớ qu ì ô ó – ạ ó ấ ướ . T o 
 ă qu T Hồ C í M ã ạ ượ k quả í o 
 ể ô ắ ề ớ u ă ưở k â o ấ ượ uộ s 
 ườ dâ ó ầ ẩy qu ì uyể d ấu k ấu o ộ 
 eo ướ ô - d sở ạ ầ ượ ầu ư ây d . Tuy 
 qu ì ô ó ã dâ s ô ă ạo s é ấ ớ ề ấ 
 ề ả quy ạ ầ o ô ấ ở ề ô quy oạ 
 quả ý ô  ò ỏ TP.HCM ả ó ả ù ợ o s ể ô 
 eo ướ bề . 
 óa: ô ó ể bề k ô 
ABSTRACT 
Urbanization is an inevitable trend in the economy - society development of each 
country, it takes place along with the process of industrialization - modernization. Over the 
years, Ho Chi Minh city has achieved positive results from the urban development 
associated with the aims at economic growth, improving the people's life quality, 
contributing to accelerating the shift of economic structure and labor structure towards the 
investment to build industrial-services, systems of infrastructure. However, the process of 
urbanization making urban population increase rapidly has created great pressure on the 
issue of employment, transport infrastructure, lands, housing, the planning and 
management urban ... Above mentioned reality requires Ho Chi Minh city to have the right 
solution to the urban development toward sustainability. 
Keywords: urbanization, sustainable development, economic, urban 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ (*) 
Đô thị hóa được hiểu là quá trình tập 
trung dân cư lớn với mật độ dân số cao vào 
đô thị, có lối sống đô thị gắn liền với các 
hoạt động sản xuất phi nông nghiệp chiếm 
ưu thế, có cơ sở hạ tầng phát triển ngày 
càng hoàn thiện và hiện đại. Do đó, phát 
triển đô thị cùng với quá trình đô thị hóa là 
(*)ThS, Trường Đại học Sài Gòn 
một quy luật tất yếu của quá trình phát 
triển kinh tế - xã hội ở các nước trên thế 
giới. Trong những năm qua, Việt Nam đã 
đạt được những kết quả tích cực trong việc 
phát triển đô thị gắn liền với các mục tiêu 
tăng trưởng kinh tế và nâng cao chất lượng 
cuộc sống người dân. Diện mạo đô thị có 
nhiều khởi sắc theo hướng văn minh, hiện 
đại, tạo dựng được những không gian đô 
thị mới, từng bước đáp ứng nhu cầu về môi 
168 
trường sống và làm việc có chất lượng. Đô 
thị hóa đã khẳng định vai trò là động lực 
cho phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, 
cơ cấu lao động ở mỗi địa phương, mỗi 
vùng và cả nước. Tuy nhiên, trong quá 
trình phát triển, tùy theo điều kiện kinh tế 
cũng như cách thức quy hoạch và quản lý 
của mỗi quốc gia, mỗi khu vực, việc phát 
triển đô thị hóa còn gặp nhiều khó khăn, 
thách thức cần giải quyết như các vấn đề: 
sự di dân từ nông thôn ra thành thị, sức ép 
quá tải lên hệ thống cơ sở hạ tầng, công 
bằng xã hội, ô nhiễm môi trường, quản lý 
đô thị 
TP.HCM hiện là đô thị lớn nhất cả 
nước, diện tích là 209.555 ha, quy mô dân 
số đạt 7, 3 triệu người năm 2013, tỉ lệ đô 
thị hóa cao 2,4% (cả nước là 32%), chiếm 
22, % tổng dân số đô thị cả nước. Theo 
quy hoạch đến năm 202 , quy mô dân số 
TP.HCM đạt khoảng 10 triệu người, trong 
đó dân nội thành khoảng 7 - 7,4 triệu 
người. Theo Quyết định số 1 70/QĐ-TTg 
về P duy t nhi m v quy hoạch chung 
xây d ng TP HCM ă 2025” thì TP 
HCM là đô thị đặc biệt, một trung tâm lớn 
về kinh tế, văn hoá, khoa học công nghệ, 
có vị trí chính trị quan trọng của cả nước 
và sẽ trở thành trung tâm công nghiệp, dịch 
vụ đa lĩnh vực của khu vực Đông Nam Á. 
Như nhiều thành phố ở các nước đang 
phát triển, quá trình đô thị hóa ở TP.HCM 
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế đô thị 
đạt nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, với 
tốc độ đô thị hóa quá nhanh đi kèm với đó 
là hiện tượng di dân ồ ạt từ nông thôn ra 
thành thị đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu 
cực của đô thị. Bài viết nhằm làm rõ một 
số đặc điểm của quá trình đô thị hóa và 
đánh giá khách quan những mặt tích cực và 
hạn chế của đô thị hóa TP.HCM theo góc 
độ tính bền vững hiện tại và tương lai. 
2. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ H A 
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
2.1. Sự tập trung dân cư và đô t ị 
Đô thị hóa gắn liền với gia tăng dân số 
đô thị, làm cho dân số đô thị ngày một tăng 
lên. Năm 1 dân số của TP HCM là 
3. .124 người, đến năm 2013 dân số 
thành phố đạt 7. 3 .7 2 người, tăng gần 2 
lần trong hơn 20 năm. Trong đó, ở các 
quận nội thành là .434.00 người (chiếm 
 1,03%) và 1. 0 .744 người ở các huyện 
ngoại thành (chiếm 1 , 7%). Đây là kết 
quả của quá trình phát triển kinh tế và đô 
thị hóa đang diễn ra với tốc độ nhanh 
chóng của thành phố. Là trung tâm kinh tế 
lớn của cả nước với mức tăng trưởng kinh 
tế bình quân 11%/năm trong thời kì 2000 – 
2010 (cả nước là 7 – %), thu nhập bình 
quân đầu người cao nhất cả nước, TP. 
HCM có sức thu hút dân số và lao động từ 
các tỉnh và thành phố khác tập trung về đây 
ngày càng đông. Vì vậy, sự gia tăng dân số 
của thành phố chủ yếu là do gia tăng cơ 
học, di dân từ các tỉnh khác đến và từ nông 
thôn ra thành thị. 
169 
 ểu ồ 1: C ấu dâ s eo ô ô 
 ủ TP HCM oạ 1 0 - 2013 (%) 
N uồ : Tí o ủ ả ừ [1] 
Năm 1 7, với việc mở rộng về mặt 
hành chính thành lập thêm quận mới là 
Quận 2, 7, , 12, Thủ Đức đã nâng tổng số 
quận nội thành lên thành 17 và huyện 
ngoại thành; chuyển một số xã vùng nông 
thôn lên thành phường, thị trấn làm cho 
dân số thành thị tăng lên nhanh chóng. Đến 
năm 2013 dân số thành thị là . 3 .3 4 
người ( 2,4%), nông thôn là 1.400.3 
người (17, %). Như vậy, tỉ lệ đô thị hóa 
của TP HCM rất cao, 2,4% dân số của 
thành phố tập trung chủ yếu ở đô thị, cao 
hơn rất nhiều so với mức trung bình của cả 
nước (32,4%). 
Quá trình đô thị hóa đang tiếp tục diễn 
ra mạnh mẽ ở các quận mới, quận ven và 
một số khu vực ngoại thành. Phát triển 
kinh tế nói chung và phát triển các khu 
công nghiệp – khu chế xuất của thành phố 
nói riêng đã thu hút số lượng lớn lao động 
từ các tỉnh, thành phố khác đến TP. HCM 
làm ăn, sinh sống. Đồng thời, với quá trình 
giãn dân từ các quận trung tâm ra các quận 
ven, quận mới làm cho dân số các quận ven 
và quận nội thành mới tăng lên nhanh 
chóng. Quận Bình Tân và quận Gò Vấp là 
hai quận có dân số cao nhất thành phố. 
Năm 2013, dân số quận Bình Tân là 
 .244 người, quận Gò Vấp là 04.143 
người. Hai quận này chiếm 1 , % dân số 
toàn thành phố. Đây là kết quả tất yếu của 
quá trình phát triển kinh tế và quá trình đô 
thị hóa của thành phố. Tuy nhiên, phần lớn 
người di dân đến TP. HCM là di dân tự do 
nên gây nhiều khó khăn cho công tác quản 
lí cũng như làm nảy sinh nhiều vấn đề xã 
hội khác đòi hỏi thành phố phải giải quyết 
như nhà ở, việc làm, giao thông, các tệ nạn 
xã hội 
Mật độ dân số trong quá trình đô thị 
hóa có xu hướng tăng nhanh do số dân 
nhập cư tăng, trong khi diện tích đất đai ít 
biến động. TP.HCM có tốc độ đô thị hóa 
cao so với cả nước, được thể hiện rõ nét ở 
sự gia tăng nhanh chóng mật độ dân số: 
tăng từ 1. người/km2 vào năm 1 0, lên 
đến 3.7 0 người/km2 vào năm 2013, tăng 
gấp 2 lần so với năm 1 0. Dân số tập 
trung ngày càng đông là điều kiện cho các 
ngành sản xuất, dịch vụ được hình thành, 
170 
phát triển cả về qui mô và số lượng cũng 
như mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn cho 
đô thị. 
2.2. Qu trìn mở rộng ông gian 
đô t ị 
TP. HCM có nhiều thay đổi đáng kể về 
mặt hành chính, diện tích khu vực nội 
thành được mở rộng. Ngày /1/1 7, Thủ 
tướng Chính phủ ký Nghị định số 03/CP về 
việc thành lập thêm quận mới là Quận 2, 
7, , 12, Thủ Đức, nâng tổng số quận nội 
thành từ 12 quận lên thành 17 quận nội 
thành và huyện ngoại thành và 27 
phường, xã, thị trấn. Ngày /11/2003, 
Chính phủ ban hành Nghị định số 
130/2003/NĐ-CP quyết định lập thêm 2 
quận mới là Bình Tân và Tân Phú trên cơ 
sở điều chỉnh ranh giới và dân số của hai 
đơn vị là huyện Bình Chánh và quận Tân 
Bình, nâng tổng số đơn vị hành chính là 24 
quận, huyện; trong đó 1 quận nội thành 
diện tích là 4 4,01 km2 và huyện ngoại 
thành là 1601,00 km
2. Sự điều chỉnh này 
làm cho các quận nội thành mở rộng dần ra 
sát với các tỉnh phía ngoài rìa, còn vùng 
ráp ranh bị thu hẹp lại [ ]. 
TP. HCM có tốc độ tăng trưởng kinh tế 
và dân số nhanh, vấn đề xác định quy mô 
dân số, phân bố dân cư, định hướng phát 
triển không gian và phân bố các khu vực 
chức năng đô thị trên cơ sở phát triển cơ sở 
hạ tầng kĩ thuật cần được xác định đồng 
bộ. Để đô thị phát triển bền vững, cần phát 
triển không gian đô thị theo hướng đa tâm, 
phát triển các đô thị vệ tinh xung quanh đô 
thị hạt nhân để giảm áp lực dân số trong 
khu vực trung tâm, tạo không gian sống 
thông thoáng hơn cho người dân. Thành 
phố đã xây dựng nhiều đề án quy hoạch về 
phát triển không gian đô thị trong thời gian 
tới. Theo Quyết định số 1 70/QĐ-TTg về 
 P duy t nhi m v quy hoạch chung xây 
d ng TP.HCM ă 2025” sẽ phát 
triển TP.HCM theo hướng đa tâm với trung 
tâm tổng hợp tại khu vực nội thành cũ và 
các khu đô thị vệ tinh theo bốn hướng: bắc, 
đông, tây, nam. Theo Nghị quyết số 
23/2013/NQ-HĐND về Đề í ể 
 í quyề ô TP. HCM của Hội đồng 
Nhân dân TP. HCM khóa VIII, kì họp thứ 
11 thống nhất xây dựng chính quyền đô thị 
TP. HCM gồm 2 cấp: cấp thành phố trực 
thuộc Trung ương và cấp cơ sở. Ở các khu 
vực đang đô thị hóa sẽ thành lập 4 thành 
phố, tạm gọi là TP Đông (gồm quận 2, và 
Thủ Đức); TP Tây (gồm quận Bình Tân 
hiện nay, một phần quận và một phần 
huyện Bình Chánh); TP Nam (gồm toàn bộ 
quận 7, huyện Nhà Bè và điều chỉnh một 
phần diện tích của quận ) và TP Bắc (gồm 
quận 12 và phần lớn huyện Hóc Môn). 
Ngoài ra, để tạo môi trường sống thuận 
lợi, có không gian xanh và đáp ứng một 
 TP Đô Tây N ắ 
171 
phần nhu cầu nhà ở cho dân cư, thành phố 
đã quy hoạch và xây dựng nhiều khu đô thị 
mới, hiện đại với quy mô lớn như khu đô 
thị Nam Sài Gòn (2. 7 ha), khu đô thị 
Thủ Thiêm ( 7 ha), khu đô thị cảng Hiệp 
Phước (1. 00 ha) Các khu đô thị này khi 
hình thành sẽ có hệ thống cơ sở hạ tầng 
hoàn thiện, môi trường văn hóa đô thị lành 
mạnh và thân thiện, không gian sống hiện 
đại đảm bảo sự phát triển bền vững của 
khu đô thị mới và góp phần thực hiện chiến 
lược giãn dân từ khu vực trung tâm; phát 
triển theo hướng đa tâm như theo định 
hướng quy hoạch chung của thành phố đến 
năm 202 . 
o ăng cường iệu quả sử dụng đất 
 Đất đô thị có giá trị rất lớn do chức 
năng và tính chất sử dụng cao độ của nó. 
Vì thế, quá trình đô thị hóa luôn gắn liền 
với quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng 
đất: giảm diện tích đất nông nghiệp, tăng 
diện tích đất đô thị, làm giá đất có sự biến 
động mạnh mẽ. 
 ểu ồ 2: C ấu sử d ấ ủ TP. HCM ă 2000 2013. Đ í :% 
Chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất thể 
hiện rõ nét quá trình đô thị hóa đang diễn 
ra tại thành phố. Diện tích đất nông nghiệp 
của TP.HCM năm 2000 là hơn 130.720 ha 
(trong đó đất sản xuất nông nghiệp 
 1.13 ,2 ha), năm 2013 đã giảm xuống còn 
11 . 17,4 ha (đất sản xuất nông nghiệp 
71.271, ha). Cơ cấu đất sản xuất nông 
nghiệp giảm từ 4 , % xuống còn 34,0%, 
trong khi diện tích đất chuyên dùng và thổ 
cư tăng lên trong giai đoạn 2000-2013. Cơ 
cấu đất chuyên dùng tăng từ 11,4% lên 
1 ,0% và đất ở tăng 7, % lên 11, %. Việc 
đất nông nghiệp giảm mạnh nhường chỗ 
cho sự phát triển của các khu dân cư và 
khu công nghiệp do quá trình đô thị hóa 
diễn ra nhanh là xu hướng đúng và phù 
hợp, phản ánh quy luật tất yếu của một đô 
thị đang phát triển. 
Sự tăng nhanh về dân số, kinh tế phát 
triển mạnh mẽ, nhu cầu nhà ở, hạ tầng giao 
thông, xây dựng nhà máy xí nghiệp cần 
34
16.216
11.6
22.2
Năm 2013
45.5
16
11.4
7.9
19.2
Năm 2000
Đất SX nông nghiệp 
Đất lâm nghiệp
Đất chuyên dùng
Đất ở
Đất khác
N uồ : Tí o ủ ả ừ [1] 
172 
tăng cao và để đáp ứng được điều này phải 
mở rộng ra khu vực ngoại thành, tất yếu 
dẫn đến diện tích đất nông nghiệp bị thu 
hẹp trong khi diện tích đất chuyên dùng, 
thổ cư và đất cho giao thông tăng lên. Khi 
đất nông nghiệp được chuyển sang đất 
công nghiệp hay dịch vụ, giá trị sản xuất 
tăng lên, mang lại hiệu quả kinh tế cao 
hơn. Tuy nhiên, tình hình sử dụng đất ở đô 
thị TP.HCM chưa đạt chỉ tiêu đề ra, đặc 
biệt là đất dành cho các dự án tái định cư, 
xây dựng khu lưu trú công nhân, kí túc xá 
sinh viên, nhà cho người có thu nhập thấp 
và đất cho giao thông đô thị. 
3. TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ H A ĐẾN 
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở 
TP. HCM 
3.1. Những t c động tích cực 
Th nhấ : Đô hóa gắn vớ ă 
 ưởng kinh t ô , nâng cao m c s ng 
dâ ư 
Đô thị hóa ở TP. HCM đã đem lại 
nhiều kết quả tích cực trong phát triển kinh 
tế. Với diện tích 2.000 km2 và dân cư 
chiếm 8,8% dân số cả nước, TP. HCM đã 
đóng góp 20,1% kim ngạch xuất khẩu, 
21,1% giá trị sản xuất công nghiệp và 
chiếm 23,9% tổng GDP cả nước (2013). 
Có thể nói TP. HCM là đầu tàu thúc đẩy sự 
phát triển kinh tế đất nước, là hạt nhân 
trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và 
trung tâm đối với vùng Đông Nam Bộ, 
đóng góp 3 ,3% trong tổng giá trị sản xuất 
công nghiệp của vùng Đông Nam Bộ. 
 ểu ồ 3: Tổ GDP ộ ă GDP ủ TP.HCM oạ 2008 - 2013 
N uồ : [1] 
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) của 
thành phố tăng nhanh qua các năm, năm 
2013 ước đạt 609.350 tỷ đồng (giá so sánh 
2010), tăng ,3% so với năm 2012. Tốc độ 
tăng GDP của thành phố luôn đạt mức cao 
9-10%/năm và luôn cao hơn mức tăng 
trưởng trung bình của cả nước ( ,4% năm 
2013). Trong 3 khu vực kinh tế, khu vực 
dịch vụ có mức tăng trưởng cao nhất, tăng 
10,7% và chiếm tỉ trọng 58,4%, công 
nghiệp tăng 7,4% và nông nghiệp tăng 
5,6% (2013). 
Tỷ đồng 
% 
173 
 TP.HCM là một trong những địa 
phương dẫn đầu cả nước về thu hút vốn 
đầu tư nước ngoài (FDI). Nguồn vốn FDI 
đầu tư vào TP.HCM tăng nhanh trong thời 
gian qua, đặc biệt sau khi Việt Nam gia 
nhập WTO. Năm 2013, thành phố thu hút 
477 dự án đầu tư với tổng số vốn đạt 1.048 
triệu USD. Trong đó, đầu tư trong lĩnh vực 
hoạt động chuyên môn, khoa học và công 
nghệ chiếm số vốn lớn nhất 305,5 triệu 
USD với 102 dự án đầu tư, chiếm 29,2% 
tổng số vốn và 21,4% tổng số dự án FDI 
của thành phố. Đầu tư trực tiếp nước ngoài 
đã góp phần phát triển đô thị TP.HCM theo 
hướng văn minh hiện đại, hình thành các 
trung tâm thương mại, ngân hàng, hệ thống 
văn phòng, khách sạn cao cấp, hình thành 
nhiều khu đô thị hiện đại và tạo điều kiện 
chuyển giao về công nghệ, kinh nghiệm và 
công tác quản lý. 
Kinh tế phát triển, thu nhập bình quân 
đầu người ngày càng tăng góp phần nâng 
cao chất lượng cuộc sống người dân, đây là 
mặt tích cực của quá trình đô thị hóa ở 
TP.HCM. Năm 200 thu nhập bình quân 
của thành phố là 1.480 nghìn 
đồng/người/tháng, đến năm 2012 tăng lên 
3.3 ,2 nghìn đồng/người/tháng (tăng 2,3 
lần), cao gấp 1,7 lần mức thu nhập bình 
quân của cả nước (2 triệu đồng/tháng). 
Mức sống gia tăng còn được thể hiện thông 
qua việc gia tăng tỉ lệ các tiện nghi sinh 
hoạt gia đình. Đến năm 2012 TP.HCM có 
94,29% hộ gia đình có ti vi, 3,42% có 
máy điện thoại, 77,59% có tủ lạnh, 48,68% 
có máy giặt Đời sống vật chất và tinh 
thần của nhân dân ngày càng được nâng 
lên. 
Th :Đô hóa gắn với quá trình 
công nghi p hóa, hình thành nhiều KCN-
KCX 
TP.HCM là trung tâm công nghiệp lớn 
nhất cả nước với tốc độ tăng trưởng cao. 
Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công 
nghiệp luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng 
công nghiệp của cả nước. Năm 2012 tốc độ 
tăng trưởng công nghiệp của thành phố là 
7, % và chiếm 21,1% tổng giá trị sản xuất 
công nghiệp cả nước. Ngoài ra TP HCM 
còn là trung tâm công nghiệp quan trọng 
nhất trong Vùng kinh tế trọng điểm phía 
Nam, chiếm tới 3 ,0% giá trị sản xuất công 
nghiệp của toàn vùng (xem bảng 1). 
 ả 1: Mộ s ể ô ủ TP. HCM so ớ ả ướ 
gi oạ 2002 - 2012 
 2002 2005 2009 2012 
Giá trị sản xuất công nghiệp (tỷ đồng) 77.021 333.588 560.256 724.234 
Chiếm tỉ trọng so với cả nước (%) 29,5 24,2 20,9 21,1 
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp TP. HCM (%) 15,1 15,6 10,7 7,6 
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của cả nước (%) 14,9 - 10,5 6,3 
N uồ : Tí o ủ ả ừ [1] 
174 
Thành phố tiến hành công nghiệp hóa 
từ các khu chế xuất và khu công nghiệp tập 
trung. Khu chế xuất Tân Thuận - KCX đầu 
tiên của nước ta - ra đời ngày 2 /11/1 1 
tại Quận 7 với diện tích 300 ha và được các 
nhà đầu tư nước ngoài phủ kín. Từ thành 
công của KCX Tân Thuận, thành phố tiếp 
tục hình thành nhiều KCX và KCN tập 
trung khác. Tính đến ngày 31/12/2013, trên 
địa bàn thành phố có 13 KCN - KCX đã và 
đang đi vào hoạt động với tổng diện tích là 
2.471,83 ha, có 1.27 dự án đầu tư còn 
hiệu lực với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 
7, 2 tỷ USD. Trong đó, đầu tư nước ngoài 
là 0 dự án, vốn đầu tư đang ký là 4,72 tỷ 
USD; đầu tư trong nước là 774 dự án, tổng 
số vốn là 3,1 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu 
của các doanh nghiệp trong các KCX-KCN 
đạt 3,1 tỷ USD, chiếm 40% tổng kim 
ngạch xuất khẩu sản phẩm công nghiệp 
thành phố. Việc hình thành và phát triển 
KCN - KCX đã tạo điều kiện thuận lợi cho 
việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, hoàn 
thiện hệ thống cơ sở hạ tầng trong và ngoài 
KCN, thu hút nguồn lao động và góp phần 
giải quyết việc làm cho người lao động. 
Th b : Đô hóa gắn với quá trình 
chuyển d ấu kinh t eo ướng hi n 
 ại 
Đặc điểm nổi bật của kinh tế TP.HCM 
trong những năm qua là sự chuyển dịch cơ 
cấu kinh tế theo hướng tích cực: tăng tỉ 
trọng của các ngành công nghiệp, dịch vụ 
và giảm tỉ trọng ngành nông nghiệp, dần 
đưa thành phố trở thành trung tâm thương 
mại - dịch vụ, công nghiệp – công nghệ 
cao của cả nước. 
 ểu ồ 4: C uyể d ấu k eo ở TP.HCM oạ 2006 – 2013. 
Đ í : % 
N uồ : [1] 
Khu vực I đã giảm tỉ trọng xuống mức 
rất thấp, từ 1,2% (năm 200 ) xuống 1,0% 
(năm 2013), khu vực II giảm tỉ trọng tương 
ứng từ 47, % xuống còn 40, %. Đặc biệt 
khu vực III của thành phố tỉ trọng có xu 
hướng tăng, từ 1,3% lên ,4% giai đoạn 
2006-2013 (biểu đồ 4). Cơ cấu kinh tế 
thành phố chuyển dịch theo đúng định 
175 
hướng, dịch vụ chiếm tỉ trọng cao nhất, 
công nghiệp có giá trị gia tăng lớn, ít thâm 
dụng lao động, ngành nông nghiệp phát 
triển theo hướng hình thành một nền nông 
nghiệp đô thị sinh thái. 
3.2. Những mặt hạn chế 
Th nhất: Vấ ề giải quy t vi c làm 
và nâng cao chấ ượng nguồ o ộng 
Năm 2013, thành phố có hơn , triệu 
lao động, chiếm tỷ lệ 70,0% dân số. Trong 
đó, lao động đang làm việc có trên 4 triệu 
người, chiếm tỷ lệ 72, % so với tổng 
nguồn lao động. Hằng năm, TP. HCM thu 
hút hàng ngàn người từ các địa phương 
khác đến sinh sống, làm việc và học tập (từ 
đội ngũ sinh viên, lao động nhập cư các 
tỉnh, lao động qua đào tạo có trình độ, cán 
bộ khoa học – kỹ thuật), điều đó không 
chỉ tác động đến quy mô dân số mà còn 
ảnh hưởng đến quy mô nguồn lao động và 
tạo ra hàng loạt vấn đề kinh tế - xã hội cần 
giải quyết. Theo Tổng điều tra năm 1989, 
tổng số người nhập cư vào TP. HCM 
chiếm , % tổng số người di cư cả nước 
(12 .2 người), thì đến Tổng điều tra năm 
200 , con số này đã tăng lên là 30,2% 
(1.024. 2 người). 
Dân số tăng nhanh, nguồn lao động lớn 
đã tạo áp lực rất lớn lên vấn đề giải quyết 
việc làm. Tỉ lệ thất nghiệp của thành phố 
năm 2012 là 3,7%, cao hơn so với mức 
trung bình của cả nước (1, %) và thành 
phố Hà Nội (2,1%); có 112, ngàn người 
đã nhận quyết định hưởng trợ cấp thất 
nghiệp, tăng 2 % so với năm 2011. Ngoài 
ra, quá trình đô thị hóa tăng nhanh ở khu 
vực ngoại thành làm cho giá nhà đất tăng 
cao, người dân khu vực ngoại thành đã bán 
đất nông nghiệp của mình nhưng không 
tìm được việc làm mới, không có đất canh 
tác, thiếu vốn kinh doanh đã dẫn đến tình 
trạng thất nghiệp phải đi làm kiếm sống 
bằng nhiều nghề. 
Trình độ học vấn, trình độ chuyên môn 
kĩ thuật(CMKT) là thước đo quan trọng 
của chất lượng nguồn lao động, là cơ sở 
chủ yếu để nâng cao năng lực và kỹ năng 
làm việc cho người lao động. Tuy nguồn 
nhân lực TP. HCM dồi dào về số lượng 
nhưng chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng 
được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của 
thành phố. 
 ả 2: C ấu dâ s o ộ uổ o ộ eo ì ộ uy 
 ô kĩ uậ ủ TP HCM oạ 1 -2012 (%) 
N uồ : Tổ ợ ừ [6] [7] 
Năm 1999 2009 2012 
Tổng số 100 100 100 
Không có trình độ CMKT 83,04 74,8 71,6 
Dạy nghề 4,66 7,2 5,9 
Trung cấp chuyên nghiệp 3,49 3,7 3,2 
Cao đẳng 
8,81 
1,9 2,3 
Đại học trở lên 12,4 17,0 
176 
Tỉ lệ lao động chưa qua đào tạo CMKT 
của thành phố tuy giảm từ 83,04% (1999) 
xuống 71, % (2012) nhưng vẫn còn rất 
cao. Tương ứng là tỉ lệ lao động đã qua đào 
tạo ngày càng tăng nhanh từ 16,96% 
(1 ) lên 2 ,4% (2012), tăng 1, lần. Chất 
lượng lao động tăng có vai trò quan trọng 
trong quá trình CNH-HĐH, đáp ứng đòi 
hỏi của sản xuất trong môi trường cạnh 
tranh và hội nhập. Tuy nhiên, tỉ lệ lao động 
chất xám, lao động có trình độ CMKT, lao 
động có tay nghề còn thấp, tỉ lệ lao động 
không có trình độ CMKT chiếm tới 71,6% 
là một thách thức không nhỏ khi quy hoạch 
tổng thể xác định TP. HCM là trung tâm 
công nghiệp – dịch vụ đa lĩnh vực của khu 
vực và Đông Nam Á. 
T : Mộ s ấ ề ặ o 
 ể k ủ TP.HCM 
Đối với nguồn vốn đầu tư nước ngoài, 
là địa phương đi đầu trong việc thu hút 
FDI, nhưng các nhà đầu tư vào TP. HCM 
chủ yếu đến từ khu vực Đông Á và Đông 
Nam Á, chiếm phần lớn nguồn vốn FDI 
(70, % tổng nguồn vốn), đứng đầu là 
Singapore 1 , %, thứ hai là Malaysia 
17, %. Các quốc gia này thường tập trung 
đầu tư vào các ngành công nghiệp nhẹ, sử 
dụng nhiều lao động như dệt may, da giày, 
chế biến thực phẩm, kinh doanh nhà hàng, 
khách sạn với nguồn vốn đầu tư trên mỗi 
dự án không cao. Dự án dưới 1 triệu USD 
chiếm tới 1, % tổng số dự án còn hiệu 
lực, dự án từ 10 triệu USD trở lên chỉ 
chiếm ,7% (2011). Quy mô vốn đầu tư 
của các dự án trong lĩnh vực công nghiệp 
còn thấp khoảng ,3 triệu USD/dự án. 
Hơn nữa khi chuyển giao đầu tư vào TP. 
HCM, các nước này thường chuyển giao 
những công nghệ trung bình hoặc thậm chí 
là những công nghệ đã lạc hậu. Vì vậy, 
chúng ta không thể học hỏi cũng như đổi 
mới được công nghệ của mình, thậm chí 
còn gây ô nhiễm môi trường nặng nề. 
Trong khi vốn đầu tư của các nhà đầu tư 
đến từ châu Âu và châu Mĩ, với tiềm năng 
về tài chính, công nghệ và cách quản lí là 
rất lớn thì vẫn đang còn khiêm tốn (Hoa Kì 
1,4%, Pháp 2,4%, Anh 1, %, Đức 0, %...). 
Điều này ảnh hưởng nhiều đến quá trình 
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của TP. HCM 
theo hướng tích cực. 
Đối với vấn đề chuyển dịch cơ cấu 
kinh tế, bên cạnh những mặt tích cực, sự 
chuyển dịch cơ cấu nội bộ các ngành kinh 
tế còn diễn ra chậm, tỉ trọng các ngành 
dịch vụ và công nghiệp có giá trị gia tăng 
cao còn thấp. Các ngành kĩ thuật cao, sản 
phẩm có giá trị gia tăng cao chiếm tỉ lệ 
thấp trong cơ cấu GDP như công nghiệp 
điện tử, máy vi tính (chiếm ,0% GDP), 
sản xuất thiết bị điện ( , %), sản xuất 
thuốc, hóa chất và dược liệu (1, %) 
(2012)Ngành công nghiệp chủ yếu vẫn 
là gia công sản phẩm với việc nhập linh 
kiện, nguyên liệu từ nước ngoài, chưa có 
công nghiệp phụ trợ, thị trường tiêu thụ 
còn nhiều khó khăn, thiếu công nhân kĩ 
thuật giỏi... Đóng góp vào tổng GDP của 
những ngành sử dụng nhiều lao động vẫn 
còn lớn như công nghiệp chế biến thực 
phẩm, đồ uống, thuốc lá (chiếm 1 ,1% 
tổng GDP), dệt may và đồ da (21,3%), 
(2012). Điều này chứng tỏ nền kinh tế 
TP.HCM vẫn phát triển chủ yếu theo chiều 
rộng, chưa phát triển mạnh theo chiều sâu, 
177 
chất lượng tăng trưởng chưa cao. 
T b : C sở ạ ầ ô ư 
 ả bảo ể ô ạ bề 
Sức ép đối với hệ thống cơ sở hạ tầng 
giao thông của TP.HCM là rất lớn. Thành 
phố thường xuyên xảy ra tai nạn giao thông 
và tình trạng kẹt xe, đặc biệt là vào giờ cao 
điểm do số lượng phương tiện giao thông 
nhiều trong khi hệ thống đường không kịp 
thời được mở rộng; do sửa chữa thường 
xuyên, đào đường, dựng lô cốt; tình trạng 
lấn chiếm vỉa hè, lòng đường và ý thức 
tham gia giao thông của người dân còn 
kém. Năm 2010, mật độ đường bình quân 
của thành phố là 1,7 km/km2, nhưng mật 
độ đường bình quân đầu người vẫn tăng 
không đáng kể, do dân số tăng nhanh và 
chỉ đạt khoảng 0, 0 km/1.000 dân. Diện 
tích đất giao thông cho đến nay chỉ chiếm 
khoảng 7, % trong tổng diện tích đất đô thị 
[8]. Với tốc độ gia tăng dân số và phát triển 
các loại phương tiện giao thông như hiện 
nay thì vấn đề tắc nghẽn giao thông trở 
thành căn bệnh trầm kha đối với thành phố 
nếu không thực hiện các quy hoạch đô thị 
triệt để. 
Cùng với quá trình đô thị hóa, dân số 
tại các đô thị ngày càng đông, gây khó 
khăn về vấn đề nhà ở. Bên cạnh đó, việc 
qui hoạch đền bù, bồi thường cho các hộ bị 
giải tỏa chưa hợp lí cũng làm nhiều hộ dân 
không có nhà ở. Ngoài ra, sau giải tỏa, việc 
xuất hiện nhiều khu dân cư, khu ổ chuột tự 
phát, tái lấn chiếm diện tích đất qui 
hoạch là vấn đề mà các đô thị cần giải 
quyết, trong đó có TP.HCM. Ở các quận 
vùng ven, việc hình thành các khu nhà ở tự 
phát trong khu dân cư mới khi hệ thống cơ 
sở hạ tầng chưa hoàn chỉnh cũng khiến cho 
quá trình qui hoạch phát triển đô thị gặp 
nhiều khó khăn. 
Nhu cầu điện, nước cho sinh hoạt và 
sản xuất của người dân TP.HCM vẫn chưa 
được đảm bảo đầy đủ, thường xuyên. Tình 
trạng thiếu nước sạch cũng như nguồn 
nước bị nhiễm bẩn vẫn thường xuyên xảy 
ra ở nhiều quận vùng ven và ngoại thành. 
Đối với các huyện như Cần Giờ, Nhà Bè, 
do chưa có đường ống, chưa được cung cấp 
nước ngọt nên tình trạng thiếu nước ngọt 
rất trầm trọng. Tình trạng ngập lụt khi mưa 
xuống hoặc triều cường cũng thường xuyên 
xảy ra tại TP.HCM. Tình trạng này do hệ 
thống thoát nước của thành phố đã cũ và 
quá tải, các kênh thoát nước đã bị san bằng 
hoặc thu hẹp, làm cho tình trạng ngập chưa 
được giải quyết triệt để. Thành phố có tổng 
số 1 cửa xả ra kênh rạch, trong đó 3 
cửa bị nhà dân lấn chiếm. Hệ thống thoát 
nước mới phủ một diện tích khoảng 2 
km
2, chỉ chiếm khoảng trên 12% diện tích 
đất xây dựng của thành phố, phục vụ cho 
khoảng 7 % dân số đô thị [ ]. 
T ư: Mô ườ ủ TP.HCM 
b ô 
Do quy hoạch chưa hợp lí, rất nhiều 
nhà máy, xí nghiệp được xây dựng trong 
nội thành thành phố, gây ô nhiễm không 
khí, ô nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm nguồn nước 
ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của người 
dân. Đối với các cơ sở gây ô nhiễm nghiêm 
trọng, hiện còn hai cơ sở là Nhà máy xi 
măng Hà Tiên và xí nghiệp Ba Son vẫn 
chưa di dời. Theo kết quả thống kê 2 
nguồn thải công nghiệp trên địa bàn 
178 
TP.HCM từ năm 2010 đến 2012, chỉ có 
khoảng 0% nguồn thải có hệ thống xử lý 
nước thải, các nguồn thải còn lại chỉ qua 
xử lý sơ bộ (bể tự hoại) trước khi xả thải ra 
môi trường. Cũng theo báo cáo, tải lượng ô 
nhiễm COD cao nhất tập trung ở Quận Tân 
Bình (chiếm 2 % tổng tải lượng COD) do 
các nguồn thải có quy mô lớn và nằm trong 
nhóm ngành nghề có hệ số phát thải cao, 
tiếp theo là Quận 12 (1 %) và Thủ Đức 
(11%). Chất lượng môi trường không khí 
của TP. HCM cũng bị ô nhiễm. Không khí 
ở khu vực ven đường tại TP. HCM đang bị 
ô nhiễm chủ yếu do bụi lơ lửng (TSP), 
benzen và khí NO2 chủ yếu do sự phát thải 
khói bụi của các phương tiện giao thông 
của thành phố [ ]. 
Nhìn chung, ô nhiễm môi trường ở TP. 
HCM là một trong những hệ lụy của quá 
trình đô thị hóa quá nhanh, chưa hợp lí và 
thiếu tính bền vững, đầu tư tăng trưởng 
kinh tế không đi kèm với việc bảo vệ môi 
trường. Phát triển đô thị và bảo vệ môi 
trường sinh thái là hai quá trình không thể 
tách rời nhau. 
4. KẾT LUẬN 
 Đô thị hóa là quy luật tất yếu trong quá 
trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi 
quốc gia, mỗi địa phương. TP. HCM là 
một địa phương đang trong quá trình CNH 
– HĐH diễn ra mạnh, vì vậy có sức hút 
mạnh mẽ đối với dân cư, lao động từ các 
địa phương khác đến làm đẩy nhanh quá 
trình đô thị hóa. Việc đánh giá đúng quá 
trình đô thị hóa và những tác động của đô 
thị hóa đến phát triển kinh tế - xã hội là 
việc làm cần thiết, để từ đó có thể đưa ra 
những giải pháp phù hợp nhằm hạn chế 
những tác động tiêu cực trong quá trình đô 
thị hóa. Để TP. HCM trở thành trung tâm 
kinh tế, văn hóa, trung tâm công nghiệp, 
dịch vụ đa lĩnh vực của cả nước và khu vực 
Đông Nam Á thì thành phố phải thực hiện 
quá trình CNH - ĐTH theo hướng phát 
triển bền vững. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Cục thống kê TP. HCM, N k ừ 2000 - 2013, NXB Thống kê, 
TP.HCM 
2. V K Cư Không gian đô thị TP.HCM và áp lực phát triển tự phát, Hộ ảo 
"P ể k ô ô S Gò - TP. HCM” V N u ể TP. 
HCM. 
3. Nguyễn Minh Hòa (200 ), Vù ô C âu Á TP. HCM, NXB Tổng hợp TP. 
HCM, TP. HCM. 
4. Tôn Nữ Quỳnh Trân (2002), Vấ ề ể ô bề Phát triển đô thị bền 
vững, NXB Khoa học Xã hội, TP. HCM. 
179 
5. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quy s 24/QĐ-TT ề P duy ều 
Quy oạ u ây d TP. HCM ă 2025. 
6. Tổng cục Thống kê (2009), Tổ ều dâ s ở V N ă 1 
2009, NXB Thống kê, Hà Nội. 
7. Tổng cục Thống kê (2013), o o o ộ – V N 2012, NXB Thống 
kê, Hà Nội. 
8. Viện nghiên cứu phát triển, T Hồ C í M 35 ă ây d ể 
(1975 – 2010), NXB Tổng hợp TP.HCM. 
tai-tp-hcm-va-viet-nam_52_24196_1.html 
 * Ngày nhận bài: 30/12/2014. Biên tập xong: /1/201 . Duyệt đăng: 10/1/201 . 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
tac_dong_cua_do_thi_hoa_den_phat_trien_kinh_te_xa_hoi_o_than.pdf