Chi phí lãi vay với AEM
Nhân tố cuối cùng cần xem xét là chi phí lãi vay có ảnh hưởng như thế nào đến quản lý
thu nhập. Kết quả hồi quy cũng cho thấy sự tồn tại mâu thuẫn giữa bốn mô hình hồi quy.
Theo đó, hệ số hồi quy của chi phí lãi vay trên tổng nợ (INTEXP) có tương quan âm với
giá trị tuyệt đối các khoản dồn tích điều chỉnh được trong MH1, MH3, MH4 nhưng lại có
tương quan dương trong MH2 và chỉ có ý nghĩa thống kê tại mức ý nghĩa α=5% trong
MH3. Với kết quả ba trong bốn mô hình hồi quy cho thấy chi phí lãi vay có tác động trái
chiều đến AEM đã gây mâu thuẫn với lập trường cho rằng việc gia tăng nợ có thể dẫn tới
việc tăng các khoản thanh toán lãi suất dẫn đến việc quản lý thu nhập với mục đích giảm
của Jelinek (2007). Để giải thích vấn đề này cần xem xét bối cảnh thị trường Việt Nam
giai đoạn 2012 – 2016 đặc biệt là yếu tố lãi suất thị trường. Như đã biết lãi suất thị trường
là yếu tố quan trọng quyết định chi phí lãi vay, theo đó lãi suất vay sẽ được các chủ nợ
điều chỉnh dựa trên lãi suất thị trường. Mặt khác, lãi suất thị trường tại Việt Nam được
điều tiết thông qua các chính sách tiền tệ đặc biệt là lãi suất điều hành. Trong giai đoạn
2012-2016, lãi suất thị trường có sự giảm mạnh nguyên nhân bắt nguồn từ các chính sách
nói lỏng tiền tệ cho mục đích hồi phục và phát triển kinh tế.
28 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 292 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tác động của đòn bẩy đến quản lý thu nhập trên cơ sở dồn tích: nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ầu tư vào
các dự án không tối đa hóa giá trị doanh nghiệp. Kết quả là cách tiếp cận thận trọng của
các nhà quản lý tránh họ khỏi việc đầu tư vào các dự án không tối đa giá trị như kiểm soát
quá mức việc tạo ra các khoản dồn tích. Và do đó ủng hộ mối quan hệ ngược chiều giữa
quản lý thu nhập và đòn bẩy. Ghosh và Moon (2010) chỉ ra rằng tổng số nợ có mối liên hệ
ngược chiều với AEM đối với một nhóm các công ty có mức tín dụng thấp, nhưng với
mức tín dụng quá cao lại liên quan đến sự tăng lên của khoản dồn tích điều chỉnh được.
Họ lập luận rằng việc giám sát của các chủ nợ là lời giải thích cho mối quan hệ trái chiều
này và động cơ để quản lý thu nhập trong hoàn cảnh khó khăn về tài chính lại gây sức ép
cao hơn so với sự kiểm soát của các chủ khi nợ vay là quá cao. Thêm vào đó, Valipour và
Moradbeygi (2011) trong cuộc nghiên cứu mối quan hệ giữa tài chính doanh nghiệp và
chất lượng thu nhập với mẫu 81 công ty Tehranian từ năm 2005 đến năm 2009, cũng tìm
Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019
232
thấy sự tương đồng về kết quả khi đưa ra bằng chứng thực nghiệm cho thấy tỷ lệ nợ thấp
mối quan hệ thuận chiều với quản lý thu nhập trong khi việc gia tăng đòn bẩy lại có tác
động trái chiều đối với quản lý thu nhập.
Nghiên cứu của Fung và Goodwin (2013) tìm thấy một mối quan hệ ngược chiều giữa nợ
ngắn hạn và quản lý thu nhập đối với những công ty có khả năng thanh toán nợ cao, phù
hợp với giả thuyết kiểm soát của Jesnsen (1986). Rodriguez-Pérez và Van Hemmen
(2010), Alsharairi và Salama (2011) chỉ ra các chủ nợ đóng một vai trò quan trọng trong
việc cải thiện quản trị doanh nghiệp và giám sát công ty, làm tăng độ tin cậy của các báo
cáo công ty và hạn chế việc sử dụng quyền quản lý để thao túng thu nhập. Ngoài ra, Lin
và Wan (2013) nhận thấy rằng các lợi thế tài chính của thị trường vốn nội bộ đã che giấu
các vấn đề về khả năng thanh toán do đòn bẩy cao hơn cho các công ty gây ra, từ đó giảm
thiểu việc quản lý thu nhập. Zamri và công sự (2013), Esadinia và cộng sự (2014) đã
chứng minh rằng đòn bẩy tiết chế các hoạt động quản lý thu nhập, do đó có thể ảnh hưởng
đến giá trị của thu nhập kế toán.
Bên cạnh đó Afza và Rashid (2014) cho thấy rằng các nhà quản lý của các công ty
Pakistan không tham gia vào việc quản lý thu nhậ. Kết quả của nghiên cứu cho thấy rằng
sự thay đổi cấu trúc kỳ hạn của nợ có tác động khác nhau đến quản lý thu nhập. Nợ ngắn
hạn với sự giám sát ít thường thúc đẩy các hoạt động quản lý thu nhập, trong khi nợ dài
hạn hoặc tổng nợ cao hơn lại làm giảm hoạt động quản lý thu nhập do có sự giám sát tốt
hơn từ các chủ nợ. Sự thật thì các chủ nợ không làm giảm sự giám sát của họ nhưng họ áp
đặt nhiều điều khoản hạn chế hơn.
Vakilifard và Mortazavi (2016) chỉ ra rằng nợ vay có tác động ngược chiều và có ý nghĩa
đối với AEM. Họ nhận thấy rằng một khi đòn bẩy tài chính đang gia tăng, động cơ cho
việc AEM đang giảm dần. Khi đòn bẩy tài chính gia tăng, áp lực của các giao ước nợ và
hoạt động kiểm toán chặt chẽ sẽ giới hạn các hành vi cơ hội của nhà quản lý, do đó làm
giảm các hoạt động quản lý thu nhập.
Các nhà nghiên cứu đã đưa ra các lập luận khác nhau được ủng hộ bởi lý thuyết và bằng
chứng thực nghiệm của họ về mối quan hệ giữa đòn bẩy và quản lý thu nhập. Hơn nữa,
nhiều nghiên cứu thậm chí còn không tìm thấy được các bằng chứng có ý nghĩa thống kê
về mối quan hệ giữa đòn bẩy và các khoản dồn tích điều chỉnh được (Chung và Kallapur,
2003), hoặc cung cấp bằng chứng một cách hỗn hợp (Shen và Chih, 2007) hay thậm chí
đòn bẩy còn không có tác động đến việc quản lý thu nhập (Ani và cộng sự, 2006). Vì vậy,
câu hỏi về mối quan hệ giữa đòn bẩy và quản lý thu nhập vẫn còn nhiều điều phân tích.
Đó cũng chính là độc lực thực hiện cuộc nghiên cứu này với đối tượng nghiên cứu là các
công ty niêm yết trên sàn HOSE Việt Nam. Qua đó, mong muốn của người viết là nghiên
cứu này có giá trị góp phần vào cuộc tranh luận đang diễn ra về những tác động của đòn
bẩy đến việc AEM.
Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019
233
PHẦN 3: DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
3.1 Phát triển giả thiết
Bài nghiên cứu tập trung trên hai giả thuyết từ Safa Lazzem, Faouzi Jilani (2017) đề
xuất:
- Giả thuyết 1: Đòn bẩy là động cơ để thực hiện quản lý thu nhập.
- Giả thuyết 2: Các công ty có đòn bẩy tăng trưởng có nhiều khả năng thực hiện AEM.
3.2 Dữ liệu nghiên cứu
3.2.1 Lựa chọn mẫu
Mẫu ban đầu bao gồm tất cả các công ty cổ phần được niêm yết trên sàn chứng khoán Hồ
Chí Minh (HOSE); thuộc các lĩnh vực khác nhau ngoại trừ các công ty tài chính, ngân
hàng, bảo hiểm; trong khoản thời gian từ năm 2012 đến 2016 tại Việt Nam. Những công
ty trong mẫu được lựa chọn là những công ty có sử dụng nợ vay tài chính trong suốt mẫu
thời gian được chọn. Bất kỳ giá trị bị thiếu hay ngoại lệ nào cũng sẽ bị loại bỏ. Sau khi
lọc để lấy mẫu, mẫu nghiên cứu bao gồm 174 công ty phi tài chính. Sau đó, 174 công ty
trên được phân vào hai nhóm công ty gồm: Các công ty có đòn bẩy tài chính tăng trưởng
và các công ty có đòn bẩy tài chính cao bằng phương pháp tứ phân vị. Các công ty còn lại
không được phân loại vào nhóm nào sẽ được loại bỏ khỏi mẫu. Cách phân loại công ty
theo mức sử dụng đòn bẩy3 tương ứng với cách phân loại mà Jelinek (2007), Zagers-
Mamedova (2009), Wasimullah và cộng sự (2010) đã thực hiện trong công trình nghiên
cứu của họ. Theo đó,
- Các công ty có đòn bẩy tài chính tăng trưởng là công ty có mức sử dụng đòn bẩy
phân phối ở khoảng tứ phân vị thứ nhất hoặc thứ hai vào đầu giai đoạn lấy mẫu và
tiến lên ít nhất 2 tứ phân vị ở cuối gian đoạn lấy mẫu.
- Các công ty có đòn bẩy tài chính cao là công ty có mức sử dụng đòn bẩy phân phối
ở khoảng tứ phân vị thứ ba (tứ phân vị thứ 4) ở đầu giai đoạn lấy mẫu và tiếp tục
duy trì ở tứ phân vị thứ ba (tứ phân vị thứ 4) ở cuối giai đoạn lấy mẫu.
Hình 3.1: Cơ sở phân
loại công ty theo tỷ lệ
nợ dài hạn trên vốn
chủ sở hữu
3 Mức sử dụng đòn bẩy được dùng trong việc phân loại các công ty được đo lường bằng tỷ lệ nợ dài hạn trên giá trị
sổ sách của vốn chủ sở hữu.
Nguồn: Zagers-Mamedova,
I., (2009)
Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019
234
Sau khi thực hiện phân loại nhóm công ty, 121 công ty đã bị loại bỏ khỏi mẫu ban đầu và
còn lại 53 công ty phi tài chính đại diện.
3.2.2 Thu thập dữ liệu
Dữ liệu thực hiện cho bài nghiên cứu được thu thập từ các nguồn:
• Data center- School of Finance - trường Đại học Kinh tế TP. HCM
• Website
3.3 Đo lường quản lý thu nhập
Bài nghiên cứu này sử dụng các khoản dồn tích điều chỉnh được4 đại diện cho quản lý thu
nhập. Mặt khác, để ước lượng các khoản dồn tích điều chỉnh được, tác giả sử dụng
phương pháp hồi quy dữ liệu bảng (panel regression) thay vì chỉ sử dụng phương pháp
bình phương nhỏ nhất (OLS) cho dữ liệu dạng chéo và dữ liệu thời gian. Quản lý thu nhập
được đo lường bằng bốn mô hình tiếp cận gồm Mô hình Hribar và Collins (2002), Mô
hình Kothari và cộng sự (2005), Mô hình McNichols (2002), Mô hình Shahrur và Raman
(2008).
3.3.1 Mô hình Hribar và Collins (2002) – MH1
Mô hình Hribar và Collins (2002) dựa trên báo cáo kết quả hoạt động king doanh được
trình bày như sau:
𝐓𝐀𝐢,𝐭
𝐀𝐢,𝐭−𝟏
= 𝛂𝟎
𝟏
𝐀𝐢,𝐭−𝟏
+ 𝛂𝟏
∆𝐑𝐄𝐕𝐢,𝐭
𝐀𝐢,𝐭−𝟏
+ 𝛂𝟐
𝐏𝐏𝐄𝐢,𝐭
𝐀𝐢,𝐭−𝟏
+ 𝛍𝐢,𝐭 + 𝛆𝐢,𝐭
Trong đó
i: đại diện cho công ty i
t: đại diện cho thời điểm năm t
TA : Tổng các khoản dồn tích, được xác định bằng cách lấy thu nhập hoạt động5 trừ
lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh6
TAi,t = EBITi,t − CFOi,t
Ai,t−1 : Tổng tài sản năm t-1 (dữ liệu được lấy trên bảng cân đối kế toán)
4 Tổng các khoản dồn tích được chia thành các khoản dồn tích không điều chỉnh được và các khoản dồn tích điều
chỉnh được. Khoản dồn tích không điều chỉnh được phát sinh từ hoạt động bình thường của công ty, trong khi các
khoản dồn tích điều chỉnh được đến từ hoạt động cơ hội của người quản lý. Nói cách khác, các khoản dồn tích điều
chỉnh được được điều khiển một cách tự ý bởi nhà quản lý và chúng được sử dụng để phát hiện việc quản lý thu nhập
(Safa Lazzem và Faouzi Jilani, 2017).
5 EBIT (Earnings before interest and taxes) – dữ liệu được lấy trên báo cáo kết quả kinh doanh
6 CFO (Operating cash flow) - dữ liệu được lấy trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019
235
∆REV : Hiệu số giữa chênh lệch doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ7 so với năm
trước và chênh lệch khoản phải thu khách hàng8 so với năm trước
∆REVi,t = ∆SALESi,t − ∆RECi,t
PPEi,t : Nguyên giá tài sản cố định hữu hình (dữ liệu được lấy trên bảng cân đối kế
toán)
μi,t : Thành phần cố định hoặc ngẫu nhiên (=0 nếu mô hình sử dụng hồi quy OLS
dạng bảng)
εi,t : Biểu thị các yếu tố ngẫu nhiên không xác định
Các phần còn lại của (𝜇𝑖,𝑡 + 𝜀𝑖,𝑡) là đại diện chính cho các khoản dồn tích điều chỉnh
được.
Thay đổi trong doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ được điều chỉnh bởi những thay
đổi trong doanh thu bán chịu nhằm hiệu chỉnh bất kỳ thao tác điều chỉnh nào xảy ra trong
các khoản bán chịu của nhà quản lý. Tất cả các biến trong mô hình được chuẩn hóa bởi
tổng tài sản năm t-1 để giảm hiện tượng phương sai thay đổi.
3.3.2 Mô hình Kothari và cộng sự (2005) – MH2
Kothari và cộng sự (2005) đã điều chỉnh mô hình Hribar và Collins (2002) bằng một chỉ
số về hiệu quả hoạt động, tức tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA). Mô hình này liên
kết các khoản dồn tích và lãi ròng trên tổng tài sản như một thước đo về hiệu quả hoạt
động của công ty.
Mô hình Kothari và cộng sự (2005) được trình bày như sau:
𝐓𝐀𝐢,𝐭
𝐀𝐢,𝐭−𝟏
= 𝛂𝟎
𝟏
𝐀𝐢,𝐭−𝟏
+ 𝛂𝟏
∆𝐑𝐄𝐕𝐢,𝐭
𝐀𝐢,𝐭−𝟏
+ 𝛂𝟐
𝐏𝐏𝐄𝐢,𝐭
𝐀𝐢,𝐭−𝟏
+ 𝛂𝟑𝐑𝐎𝐀𝐢,𝐭−𝟏 + 𝛍𝐢,𝐭 + 𝛆𝐢,𝐭
Trong đó
ROA : Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản, tức tỷ lệ giữa lãi ròng9 và tổng tài sản.
ROAi,t−1 =
NI𝑖,𝑡−1
A𝑖,𝑡−1
3.3.3 Mô hình McNichols (2002) – MH3
Ngoài ra, Safa Lazzem, Faouzi Jilani (2017) còn ước lượng các khoản dồn tích điều chỉnh
được bằng mô hình McNichols (2002). Mô hình này kiểm soát dòng tiền từ hoạt động
7 SALES (Sales revenues)- dữ liệu được lấy trên báo cáo kết quả kinh doanh
8 REC (Accounts receivables) - dữ liệu được lấy trên bảng cân đối kế toán
9 NI (Net income) - dữ liệu được lấy trên báo cáo kết quả kinh doanh
Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019
236
kinh doanh (CFO) ở năm hiện tại t, quá khứ t-1 và tương lai t+1, đồng thời có tính đến các
khoản dồn tích giảm trừ.
Mô hình McNichols (2002) được trình bảy như sau:
𝐓𝐀𝐢,𝐭
𝐀𝐢,𝐭−𝟏
= 𝛂𝟎
𝟏
𝐀𝐢,𝐭−𝟏
+ 𝛂𝟏
∆𝐑𝐄𝐕𝐢,𝐭
𝐀𝐢,𝐭−𝟏
+ 𝛂𝟐
𝐏𝐏𝐄𝐢,𝐭
𝐀𝐢,𝐭−𝟏
+ 𝜶𝟑
𝑪𝑭𝑶𝒊,𝒕
𝐀𝐢,𝐭−𝟏
+ 𝜶𝟒
𝑪𝑭𝑶𝒊,𝒕−𝟏
𝑨𝒊,𝒕−𝟐
+ 𝜶𝟓
𝑪𝑭𝑶𝒊,𝒕+𝟏
𝑨𝒊,𝒕
+ 𝛍𝐢,𝐭 + 𝛆𝐢,𝐭
3.3.4 Mô hình Shahrur và Raman (2008) – MH4
Raman và Shahrur (2008) đề xuất một cách tiếp cận mới trong đo lường việc quản lý thu
nhập. Họ ước lượng các khoản dồn tích điều chỉnh được bằng cách sử dụng mô hình
Jones modifie, đồng thời có tính đến hiệu quả hoạt động (Kothari và cộng sự, 2005) và
tăng trưởng của công ty.
Mô hình Shahrur và Raman (2008) được trình bày như sau:
𝐓𝐀𝐢,𝐭
𝐀𝐢,𝐭−𝟏
= 𝛂𝟎
𝟏
𝐀𝐢,𝐭−𝟏
+ 𝛂𝟏
∆𝐑𝐄𝐕𝐢,𝐭
𝐀𝐢,𝐭−𝟏
+ 𝛂𝟐
𝐏𝐏𝐄𝐢,𝐭
𝐀𝐢,𝐭−𝟏
+ 𝛂𝟑𝐑𝐎𝐀𝐢,𝐭−𝟏 + 𝜶𝟒𝑩𝑴𝒊,𝒕 + 𝛍𝐢,𝐭 + 𝛆𝐢,𝐭
Trong đó
BM : Tăng trưởng của công ty, được xác định bằng tỷ lệ của tổng tài sản trên tổng tài
sản trừ giá trị số sách của vốn chủ sở hữu10 cộng với giá trị thị trường vốn cổ
phần thường11.
BMi,t =
Ai,t
Ai,t−BEi,t+MVi,t
Do mục đích của bài nghiên cứu nhằm mục đích xem xét sự tác động của nợ vay tài chính
đối với mức độ quản lý thu nhập hơn là nghiên cứu về ý nghĩa thực tiễn cụ thể của việc
quản lý thu nhập, nên tác giả sẽ sử dụng phương pháp đo lường các khoản dồn tích theo
giá trị tuyệt đối.
Bảng 3.1 trình bày các số liệu kết quả kiểm định trong lựa chọn phương pháp hồi quy cho
bốn mô hình nêu trên. Các kết quả kiểm định và hồi quy thực hiện trên phần mềm Stata12
cho lần lượt bốn mô hình ước lượng quản lý thu nhập trên cơ sở dồn tích được trình bày ở
PHỤ LỤC – MỤC 1.
Bảng 3.1: Số liệu kết quả kiểm định lựa chọn phương pháp hồi quy cho bốn mô hình
ước lượng quản lý thu nhập trên cơ sở dồn tích (AEM)
10 BE (Book value of Equity) - dữ liệu được lấy trên bảng cân đối kế toán
11 MV (Market value) = Số lượng cổ phần thường đang lưu hành x Giá đóng cửa ngày giao dịch cuối cùng trong
năm.
Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019
237
Mô hình
Hribar và
Collins (2002) –
MH1
Mô hình
Kothari và cộng
sự (2005) –
MH2
Mô hình
McNichols
(2002) – MH3
Mô hình
Shahrur và
Raman (2008) –
MH4
Số quan
sát
265 265 265 265
F Statistic
1,60
(0,0112)
1,33
(0,0828)
6,03
(0,0000)
1,37
(0,0646)
Hausman
test
1,49
(0,6848)
9,00
(0,0611)
12,54
(0,0509)
9,50
(0,0908)
BP
Lagrange
test
5,29
(0,0107)
0,74
(0,1952)
110,62
(0,0000)
1,15
(0,1415)
Nguồn: Tác giả tính toán
Dựa trên kiểm định homogeneity, Hausman và Breush Pagan LM được trình bày trên
bảng. Phương pháp hồi quy được chọn cho các mô hình là:
• MH1 và MH3: Sử dụng phương pháp Rem
• MH2 và MH4: Sử dụng phương pháp Pooled OLS
• 3.4 Mô hình nghiên cứu và các biến kiểm soát
3.4.1 Mô hình nghiên cứu và biến phụ thuộc
Để kiểm định các giả thuyết về mối quan hệ giữa đòn bẩy và giá trị tuyệt đối của các
khoản dồn tích điều chỉnh được (DAC) – đại diện cho quản lý thu nhập, Safa Lazzem,
Faouzi Jilani (2017) sử dụng mô hình hồi quy dạng bảng để ước lượng DAC từ bốn mô
hình và xem các DAC như biến phụ thuộc. Mô hình được trình bày như sau:
Với: 𝜇 : sai số
i: công ty
t: năm
3.4.2 Biến độc lập
▪ Đòn bẩy (LEV)
Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019
238
Jelinek (2007), Wasimullah và cộng sự (2010), Safa Lazzem, Faouzi Jilani (2017) sử
dụng tỷ số nợ tài chính dài hạn12 trên giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu để tính giá trị của
biến đòn bẩy. Giá trị sổ sách của nợ có khả năng giải thích tốt hơn tình trạng nợ của công
ty vì giá trị thị trường của nợ có thể bị thổi phồng do giá cổ phiếu.
LEV =
LD
BE
▪ Tăng trưởng đòn bẩy (LEVINC)
Jelinek (2007), Zagers-Mamedova (2009), Wasimullah và cộng sự (2010), Safa Lazzem,
Faouzi Jilani (2017) dùng biến giả LEVINC để đo lường tác động của tăng trưởng đòn
bẩy trong giai đoạn lấy mẫu. Theo đó,
- LEVINC =1 nếu công ty được phân loại vào nhóm “Các công ty có đòn bẩy tài
chính tăng trưởng”
- LEVINC =0 nếu công ty được phân loại vào nhóm “Các công ty có đòn bẩy tài
chính cao”
▪ Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA)
Bên cạnh đó, Kothari và cộng sự (2005) đã tìm ra sự tương quan trái chiều giữa ROA và
quản lý thu nhập. Kết quả này chỉ ra rằng các nhà quản lý của các công ty có kết quả hoạt
động kém có nhiều động cơ để tham gia vào các hoạt động quản lý thu nhập.
ROA =
NI
A
▪ Tỷ suất đầu tư tài sản cố định từ vốn tài chính tự có (SFR)
Tỷ số này được xác định bằng cách lấy dòng tiền từ hoạt động kinh doanh chia cho đầu tư
ròng trên tài sản cố định13 Safa Lazzem, Faouzi Jilani (2017). Trên thực tế, tỷ lệ này cho
thấy khả năng tài chính của công ty để đầu tư vào tài sản cố định từ chính nguồn lực của
mình. Kết quả nghiên cứu của Wasimullah và cộng sự (2010) cũng cho thấy một mối
tương quan trái chiều giữa tỷ suất này và quản lý thu nhập.
SFR =
CFO
NIFA
▪ Chi phí lãi vay trên tổng nợ vay (INTEXP)
12 LD (Long-term Debt) – dữ liệu được lấy trên bảng cân đối kế toán
13 NIFA (Net investment in fixed assets) =NFAt − NFAt−1
Với NFA (Tài sản cố định ròng) = FA - Dep
FA : Tổng tài sản cố định (Total fixed assets) - dữ liệu được lấy trên bảng cân đối kế toán.
Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019
239
Jelinek (2007), Wasimullah và cộng sự (2010), Safa Lazzem, Faouzi Jilani (2017) sử
dụng tỷ lệ giữa chi phí lãi vay14 trên tổng nợ vay15 để kiểm tra tác động của chi phí lãi vay
đến AEM. Chi phí lãi vay trên tổng nợ còn cho phép các nhà phân tích ước tính mức lãi
suất mà một công ty đang phải trả cho khoản nợ chưa thanh toán của họ. Theo đó, công ty
với mức lãi suất cao có thể dẫn đến tình trạng không chắc chắn về khả năng hoàn thành
các nghĩa vụ với chủ nợ, điều này làm giảm cơ hội tiếp cận các khoản vay mới. Trên thực
tế, Jelinek (2007) cho rằng việc tăng đòn bẩy có thể dẫn tới việc tăng lãi suất, dẫn đến
giảm lãi ròng. Việc tăng nợ vay làm giảm quản lý thu nhập bằng cách kiểm soát hành vi
cơ hội của các nhà quản lý nhưng điều này có thể dẫn đến các khoản dồn tích cao hơn.
Điển hình trong trường hợp có đòn bẩy cao, các nhà quản lý phải đáp ứng được kỳ vọng
của các chủ nợ và các bên liên quan khác và để đáp ứng các mong đợi đó, nhà quản lý có
thể tham gia vào các loại hoạt động quản lý thu nhập theo nhiều cách khác nhau.
INTEXP =
IE
TD
PHẦN 4: KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
4.1 Phân tích đơn biến
Bảng 4.1 trình bày kết quả thống kê mô tả cho biến các khoản dồn tích điều chỉnh được
(DAC) với bốn mô hình lần lượt là Mô hình Hribar và Collins (2002) – MH1, Mô hình
Kothari và cộng sự (2005) – MH2, Mô hình McNichols (2002) – MH3, Mô hình Shahrur
và Raman (2008) – MH4.
Bảng 4.2 trình bày kết quả thống kê mô tả cho các biến độc lập bao gồm các biến LEV,
LEVINC, ROA, SFR và INTEXP.
Bảng 4.1: Thống kê mô tả các khoản dồn tích điều chỉnh được theo giá trị tuyệt đối
Các biến Số quan sát Mean Std. Dev. Min Max
|DAC1| 265 0,0884027 0,0967271 0,0006009 0,8385203
|DAC2| 265 0,0864788 0,0940399 0,0002098 0,8235077
|DAC3| 265 0,0541134 0,0762447 0,0002842 0,7965367
|DAC4| 265 0,0858833 0,0934269 0,001045 0,8204758
Nguồn: Tác giả tính toán
Dep : Khấu hao (Depreciation) - dữ liệu được lấy trên bảng cân đối kế toán.
14 IE (Interest expense) - dữ liệu được lấy trên báo cáo kết quả kinh doanh
15 TD (Total debt) = SD (Short-term debt) + LD (Long-term debt) – dữ liệu được lấy trên bảng cân đối kế toán
Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019
240
Giá trị tuyệt đối của các khoản dồn tích điều chỉnh được có khoảng biến thiên lớn và
không ghi nhận giá trị 0. Ngoài ra, giá trị tuyệt đối trung bình các các khoản dồn tích điều
chỉnh được đều có giá trị khác 0 đáng kể trong cả bốn mô hình thực nghiệm. Từ đó, ta
thấy có sự hiện hữu của việc quản lý thu nhập đối với hầu hết các công ty trong mẫu
nghiên cứu.
Bảng 4.2: Thống kê mô tả cho các biến độc lập
Các biến Số quan sát Mean Std. Dev. Min Max
LEV 265 0,8297223 0,9333733 0 4,432306
LEVINC 265 0,3396226 0,4744772 0 1
ROA 265 0,0433818 0,0735447 -0,2079169 0,7836998
SFR 265 0,1663036 35,73051 -296,2724 323,7282
INTEXP 265 0,1122793 0,7182583 0,000185 11,69481
Nguồn: Tác giả tính toán
Việc sử dụng đòn bẩy tài chính đối với các công ty trong mẫu nghiên cứu được nhận định
là cao bằng chứng là nợ dài hạn trung bình chiếm 82,97223% trên vốn chủ sở hữu với tỷ
lệ đòn bẩy đạt giá trị cao nhất 443,2306%. Có thể thấy rằng nguồn vốn dài hạn từ bên
ngoài, đặc biệt là nợ vay tài chính dài hạn đã trở thành nguồn lực tài chính quan trọng đối
với các công ty. Có khoảng 33,96226% các công ty thuộc nhóm “Các công ty có đòn bẩy
tài chính tăng trưởng”. Thêm vào đó, tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản có độ giao động lớn
trong khoảng từ (-20,79169% - 78,36998%) với giá trị trung bình khoảng 4,33818%. Mặt
khác, tỷ suất vốn tự có (SFR) có giá trị trung bình chỉ khoảng 16,63036% được nhận định
là thấp so với mẫu các công ty niêm yết tại Pháp trong nghiên cứu của Safa Lazzem,
Faouzi Jilani (2017) với giá trị trung bình là 191,0695%. Điều này cho thấy trung bình
mẫu các công ty tại HOSE có khả năng tài chính đầu tư vào tài sản cố định từ chính
nguồn lực của mình được cho là thấp. Ngoài ra, trung bình chi phí lãi vay chiếm khoảng
11,22793% trên tổng nợ vay với các công ty trong mẫu nghiên cứu.
4.2 Phân tích đa biến
Tiến hành kiểm tra phát hiện hiện tượng đa cộng tuyến bằng cách sử dụng hệ số tương
quan giữa các cặp biến độc lập trong mô hình thực nghiệm hoặc sử dụng nhân tử phóng
đại phương sai (Variance Inflation Factor – VIF). Bảng 4.3 trình bày kết quả ma trận
tương quan giữa các biến độc lập. Bảng 4.4 trình bày hệ số phóng đại phương sai VIF.
Bảng 4.3: Ma trận tương quan của các biến độc lập
Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019
241
LEV LEVINC ROA SFR INTEXP
LEV 1,0000
LEVINC -0,4284 1,0000
ROA -0,3114 0,1335 1,0000
SFR 0,0270 -0,0230 -0,0089 1,0000
INTEXP -0,0679 0,0800 0,0263 -0,1202 1,0000
Nguồn: Tác giả tính toán
Bảng 4.4: Hệ số phóng đại phương sai VIF
VIF 1/VIF
LEV
LEVINC
ROA
INTEXP
SFR
1,33
1,23
1,11
1,02
1,02
0,749663
0,813858
0,902982
0,978338
0,985166
MEAN VIF 1,14
Nguồn: Tác giả tính toán
Kết quả cho thấy sự tương quan giữa các cặp biến độc lập trong mô hình thực nghiệm là
thấp khi tất cả các hệ số tương quan đều nhỏ hơn 0,7. Ngoài ra, kết quả kiểm tra VIF cũng
đưa ra kết luận tương tự rằng không có hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình ( VIF
<10 (Myers, 1990)).
Bảng 4.5 tiếp theo trình bày các kết quả kiểm định nhằm lựa chọn phương pháp hồi quy
cũng như phát hiện các khuyết tật cho mô hình nghiên cứu thực nghiệm thông qua bốn
mô hình tiếp cận.
Bảng 4.5: Kiểm định lựa chọn phương pháp hồi quy và phát hiện các khuyết tật
Mô hình
Hribar và
Collins (2002)
Mô hình
Kothari và
cộng sự
Mô hình
McNichols
(2002) – MH3
Mô hình
Shahrur và
Raman (2008)
Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019
242
– MH1 (2005) – MH2 – MH4
Số quan sát 265 265 265 265
F Statistic
3,39
(0,0000)
3,11
(0,0000)
4,42
(0,0000)
3,15
(0,0000)
BP Lagrange
test
40,76
(0,0000)
4,61
(0.0158)
72,44
(0,0000)
34,13
(0,0000)
Hausman test
9,21
(0,0561)
10,12
(0,0384)
2,70
(0,6099)
10,90
(0,0277)
Modified
Wald test
21167,89
(0,0000)
1.2e+05
(0,0000)
1.8e+05
(0,0000)
1.2e+05
(0,0000)
Wooldridge
test
0,287
(0,5947)
0,017
(0,8983)
2,859
(0,0968)
0,075
(0,7859)
Nguồn: Tác giả tính toán
Kiểm định homogeneity với giả thiết H0 cho rằng không có sự tồn tại của các hiệu ứng
riêng biệt đều bị bác bỏ trong cả bốn trường hợp (Prob > F đều nhỏ hơn α=5%). Vì vậy
mô hình Fem được cho là thích hợp hơn Pooled OLS và cân nhắc lựa chọn với mô hình
Rem.
Thêm vào đó, dựa trên kết quả kiểm định Breush Pagan LM cho mục tiêu lựa chọn mô
hình phù hợp giữa Rem và Pooled OLS với giả thiết H0 cho rằng không có sự tồn của các
hiệu ứng ngẫu nhiên bị bác bỏ (Prob > chibar2 đều nhỏ hơn α=5%) trong các mô hình
được đề xuất. Vậy, mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên Rem cũng được cho là thích hợp hơn
Pooled OLS trong cả bốn mô hình.
Bên cạnh đó, kết quả kiểm định Hausman với giả thiết H0 cho rằng không có sự khác biệt
giữa Fem và Rem một cách có ý nghĩa thống kê không bị bác bỏ trong MH1 và MH3
(Prob > Chi2 lớn hơn α=5%). Rem được cho là phù hợp nhất với MH1 và MH3. Ngược
lại kết quả kiểm định Hausman với giả thiết H0 bị bác bỏ trong MH2 và MH4 dẫn đến
Fem phù hợp nhất với MH2 và MH4.
Về vấn đề các khuyết tật đối với mô hình ước lượng kiểm định modified Wald với giả
thiết H0 là không tồn tại phương sai thay đổi cho kết luận rằng cả bốn mô hình tiếp cận
Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019
243
đều có hiện tượng phương sai thay đổi (Prob > Chi2 đều nhỏ hơn α=5%). Sử dụng kiểm
định Wooldridge, kết quả cho thấy không tồn tại hiện tượng tương quan chuỗi trong cả
bốn mô hình (Prob > F đều lớn hơn α=5%).
Phương pháp ước lượng ban đầu được đề xuất là phương pháp bình phương nhỏ nhất tổng
quát (GLS). Tuy nhiên phương pháp này không được đánh giá cao bởi Beck và Katz
(1995) cho rằng phương pháp này đánh giá quá cao tầm quan trọng của các hệ số hồi quy
và họ đã gợi ý một phương pháp khác, phương pháp sai số chuẩn điều chỉnh trong dữ
liệu bảng (PCSE). Sau hồi quy và so sánh kết quả giữa hai phương pháp (GLS và PCSE),
kết quả hồi quy PCSE được cho là hiệu quả và vững hơn GLS cả về khía cạnh thống kê
lẫn mối quan hệ kinh tế.
Bảng 4.6 trình bày tổng quát kết quả hồi quy cho bốn mô hình thực nghiệm bằng PCSE.
Các kết quả kiểm định và hồi quy được trình bày ở phần PHỤ LỤC – MỤC 2.
Bảng 4.6: Tổng hợp kết quả hồi quy bằng phương pháp PCSE
| DAC |
Mô hình Hribar
và Collins
(2002) – MH1
Mô hình
Kothari và cộng
sự (2005) – MH2
Mô hình
McNichols
(2002) – MH3
Mô hình
Shahrur và
Raman (2008) –
MH4
Constant
0,0466226
(3,80)
0,0466254
(3,94)
0,0099384
(1,17)
0,0444979
(3,80)
LEV
0,0144533
(2,03)
0,0127201
(1,82)
0,015101
(2,93)
0,0139903
(2,01)
LEVINC
0,0377194
(2,68)
0,0302925
(2,25)
0,0321237
(2,93)
0,0318985
(2,42)
ROA
0,3932774
(2,94)
0,4374999
(3,58)
0,4937922
(4,38)
0,4491746
(3,73)
SFR
-0,0000579
(-0,53)
-0,0000688
(-0,66)
-0,0000135
(-0,22)
-0,0000909
(-0,89)
INTEXP
-0,0006585
(-0,08)
0,0003813
(0,05)
-0,0060922
(-2,49)
-0,0046949
(-0,64)
Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019
244
Số quan
sát
265 265 265 265
R2 0,1103 0,1278 0,2414 0,1374
ald Chi2
Prob>Chi2
14,07
0,0152
16,45
0,0057
26,84
0,0001
18,52
0,0024
Nguồn: Tác giả tính toán
Trong MH2 và MH4 kết quả hồi quy PCSE cho Rem được trình bày và làm căn cứ phân
tích mặc dù qua các bước kiểm định trước đó Fem được ưu tiên sử dụng hơn nhưng chưa
thực sự phản ánh tốt nhất các mối quan hệ kinh tế. Qua so sánh hai kết quả hồi quy PCSE
với Rem và Fem thấy rằng, kết quả hồi quy với Rem hiệu quả hơn với quy mô mẫu
nghiên cứu. Nếu T nhỏ và N là lớn và các giả định nền tảng cho Rem là đúng thì các ước
lượng thu được từ Rem là hiệu quả hơn so với các ước lượng thu được từ Fem (Taylor,
1980).
Kết quả hồi quy với R bình phương từ bốn mô hình cho thấy Mô hình McNichols (2002)
– MH3 được đánh giá là phù hợp nhất so với các mô hình còn lại khi có R2 đạt giá trị cao
nhất (R2 = 0,2414). Theo đó MH3 với các biến độc lập giải thích được 24,14% sự biến
thiên của biến phụ thuộc (DAC).
4.3 Thảo luận kết quả
4.3.1 Đòn bẩy tài chính và AEM
Với giả thuyết 1 được đề xuất bởi Safa Lazzem, Faouzi Jilani (2017) cho rằng đòn bẩy là
động cơ để thực hiện quản lý thu nhập, các kết quả hồi quy đều đưa ra ý kiến ủng hộ giả
thiết trên. Cụ thể, tỷ lệ nợ vay dài hạn trên giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu tương quan
dương với giá trị tuyệt đối các khoản dồn tích điều chỉnh được và có ý nghĩa thống kê với
ba trong bốn mô hình (MH1, MH3 và MH4) tại mức ý nghĩa 5%. Do đó, kết luận rằng
đòn bẩy tài chính có tác động đáng kể và cùng chiều đến quản lý thu nhập bắt nguồn từ
mối liên quan đến mật thiết với các hợp đồng nợ vay tài chính với lập luận: các nhà quản
lý của các công ty có sử dụng đòn bẩy thì thực hiện các hoạt động quản lý thu nhập với
mục đích tránh các vi phạm trong giao ước nợ.
Kết luận trên ủng hộ lập luận của Defond và Jiambalvo (1994), Iatridis và Kadorinis
(2009), Dyreng và cộng sự (2011), Januarsi và cộng sự (2014), Chamberlain và cộng sự
(2014), Obeidat (2016). Đồng thời kết luận cũng nhất quán với quan điểm của Beatty và
Weber (2003), Dichev và Skinner (2003), Gu và cộng sự (2005) khi chỉ ra rằng đòn bẩy
tài chính cao có thể dẫn đến việc gia tăng AEM cũng như các khoản thu nhập khác đồng
thời làm tăng thêm sự lựa chọn các phương thức kế toán nhằm tránh vi phạm giao ước nợ.
Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019
245
Trong phạm vi vấn đề này, về động cơ thực hiện AEM chủ yếu do các chủ nợ thường sử
dụng các con số được báo cáo để đánh giá các khía cạnh liên quan đến sức khoẻ tài chính,
uy tín và khả năng sinh lợi của các công ty (Ge, 2010) theo đó các điều khoản giao ước nợ
cũng được trình bày dưới các chỉ số tài chính cụ thể điển hình như tỷ suất sinh lợi trên
tổng tài sản (ROA), tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE) hay chỉ số về khả năng
thanh toán lãi vay, . và được tính toán từ thông tin số liệu kế toán trên báo cáo tài
chính. Do đó, các nhà quản lý phải lựa chọn các phương pháp kế toán để tránh vi phạm
giao ước nợ bằng cách khai thác các nguyên tắc kế toán được chấp nhận rộng rãi cũng
như tận dụng tính linh hoạt của của các nguyên tắc đó.
4.3.2 Các công ty có đòn bẩy tăng trưởng với AEM
Tiếp theo, tác động của việc gia tăng đòn bẩy tài chính đối với quản lý thu nhập cũng
được xem xét. Với mẫu nghiên cứu được chọn lọc và phân loại thành hai nhóm (Các
công ty có đòn bẩy tài chính tăng trưởng và Các công ty có đòn bẩy tài chính cao), kết
quả hồi quy cho thấy tăng trưởng đòn bẩy tài chính có tương quan dương với giá trị tuyệt
đối các khoản dồn tích điều chỉnh được đồng thời có ý nghĩa thống kê tại mức ý nghĩa
5% trong cả bốn mô hình. Nhận định về mối quan hệ giữa gia tăng đòn bẩy và quản lý
thu nhập dẫn đến kết luận rằng hành vi quản lý thu nhập có sự khác nhau giữa hai nhóm
công ty và xảy ra cao hơn đối với các công ty có đòn bẩy tăng trưởng so với các công ty
vốn dĩ đã có đòn bẩy tài chính cao trong giai đoạn lấy mẫu. Từ kết luận trên, giả thiết 2
được đề xuất bởi Safa Lazzem, Faouzi Jilani (2017) cho rằng các công ty có đòn bẩy
tăng trưởng trong giai đoạn lấy mẫu có nhiều khả năng thực tiễn việc AEM được chấp
nhận.
Kết quả trên ủng hộ nghiên cứu của Safa Lazzem, Faouzi Jilani (2017) tuy nhiên lại mâu
thuẫn với các nghiên cứu tiền đề trước đó của Jelinek (2007), Wasimullah và cộng sự
(2010). Để giải thích cho kết luận gây mâu thuẫn của bài nghiên cứu này, chúng ta sẽ
quay lại vấn đề về các giao ước nợ vay cũng như khả năng tái đàm phán hợp đồng nợ
vay. Như đã biết về bản chất các giao ước nợ vay thường dựa trên các số liệu kế toán và
với nhu cầu tăng sử dụng nợ (đặc biệt là nợ tài chính dài hạn) theo thời gian thì nhà quản
lý sẽ phải gia tăng thực hiện các hành vi AEM. Việc gia tăng quản lý thu nhập không chỉ
để tránh các vi phạm giao ước nợ đã ký kết trước đó mà còn nhằm mục đích cải thiện khả
năng thương lượng của công ty trong quá trình đàm phán nợ sau đó để có được nguồn
vốn ở những điều kiện thuận lợi. Việc tái đàm phán có mang lại kết quả tốt hay không
thường phụ thuộc vào tình hình hoạt động của công ty năm hiện tại, khả năng hoàn thành
các nghĩa vụ nợ phát sinh đối với chủ nợ cũng như thực hiện tốt các cam kết, giao ước nợ
vay đã ký kết trước đó. Không chỉ với AEM mà REM cũng cho kết quả tương tự bằng
chứng nghiên cứu của Zagers-Mamedova (2009) cho thấy tác động của thay đổi đòn bẩy
đối với quản lý thu nhập là khác nhau giữa nhóm các công ty tăng trưởng đòn bẩy và các
Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019
246
công ty có đòn bẩy cao đồng thời nhận thấy rằng tăng trưởng đòn bẩy có ảnh hưởng tích
cực đến REM.
4.3.3 Thành quả hoạt động của công ty với AEM
Về ảnh hưởng của kết quả hoạt động đến quản lý thu nhập cũng cho thấy sự tồn tại mối
quan hệ thuận chiều. Bằng chứng kết quả hồi quy cho thấy các hệ số hồi quy của chỉ số
tài chính ROA đều có tương quan dương với giá trị tuyệt đối các khoản dồn tích điều
chỉnh được đồng thời có ý nghĩa thống kê tại mức ý nghĩa 5% trong cả bốn mô hình. Vấn
đề về tác động của kết quả hoạt động lên quản lý thu nhập thường có liên quan đến niềm
tin của thị trường cũng như vị thế của công ty trên thị trường chứng khoán. Không những
thế, thành quả hoạt động của công ty được cho có thể ảnh hưởng phần nào đến khả năng
tái đàm phán đối với các hợp đồng nợ vay tài chính nên việc thực hiện quản lý thu nhập
lại càng được khuyến khích. Thực tế cho thấy quản lý thu nhập vẫn diễn ra cho dù công
ty có thành quả hoạt động tốt hay không. Lập luận này phù hợp với những nghiên cứu
thực nghiệm của Kothari và cộng sự (2005), Wasimullah và cộng sự (2010) khi cho rằng
việc thực hiện các hoạt động quản lý thu nhập chịu ảnh hưởng bởi thành quả hoạt động
của công ty trong quá khứ cũng như hiện tại dù tốt hay tệ. Trong trường hợp công ty
không đạt thành quả tốt thì việc quản lý thu nhập sẽ giúp công ty giữ chân thị trường
hoặc ít nhất là giúp giảm thiểu mất mát về giá trị thị trường của công ty trên thị trường
chứng khoán. Mặt khác nếu công ty có thành tích tốt hoạt động hiệu quả thì tham gia vào
quản lý thu nhập sẽ góp phần duy trì vị thế của công ty trên thị trường đồng thời phát đi
tín hiệu tích cực về tình hình hoạt động của công ty trong thời gian sắp tới đến các cổ
đông cũng như khả năng hoàn thành tốt các nghĩa vụ với chủ nợ; nhất quán với kết quả
nghiên cứu của Gunny (2010). Không chỉ vậy, quản lý thu nhập với các công ty có thành
quả hoạt động được đánh giá tốt còn giúp các công ty này che giấu các vấn đề cực đoan
diễn ra trong nội bộ doanh nghiệp nhằm đạt các thuận lợi từ thị trường. Kết luận sau
cùng cho mẫu nghiên cứu là các công ty niêm yết trên HOSE đã qua chọn lọc và phân
loại cho thấy rằng thành quả hoạt động của công ty có tác động cùng chiều và đáng kể
đến AEM.
4.3.4 Chi tiêu vốn tự có cho đầu tư tài sản cố định với AEM
Về mối quan hệ giữa việc đầu tư tài sản cố định từ nguồn vốn tự có với AEM, kết quả hồi
quy chỉ ra mối quan hệ trái chiều. Hệ số hồi quy cho thấy tỷ suất vốn tài chính tự có
(SFR) có tương quan trái chiều với giá trị tuyệt đối các khoản dồn tích điều chỉnh được
trong cả bốn mô hình. Tuy nhiên, hệ số hồi quy của SFR không có ý nghĩa thống kê tại
mức ý nghĩa α=5% trong bất kì mô hình nào. Việc tăng đầu tư vào tài sản cố định từ
nguồn vốn nội bộ mà không cần huy động từ nguồn vốn bên ngoài sẽ giảm thiểu AEM.
Bởi vì dòng tiền của công ty nay được sử dụng cho mục đích đầu tư vào tài sản theo đó sẽ
giảm khả năng hình thành các khoản dồn tích điều chỉnh được vốn được xem như công cụ
Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019
247
quan trọng cho việc quản lý thu nhập, từ đó cũng sẽ làm giảm các hành vi cơ hội của nhà
quản lý. Phát hiện này ủng hộ cho lập luận của Wasimullah và cộng sự (2010).
4.3.5 Chi phí lãi vay với AEM
Nhân tố cuối cùng cần xem xét là chi phí lãi vay có ảnh hưởng như thế nào đến quản lý
thu nhập. Kết quả hồi quy cũng cho thấy sự tồn tại mâu thuẫn giữa bốn mô hình hồi quy.
Theo đó, hệ số hồi quy của chi phí lãi vay trên tổng nợ (INTEXP) có tương quan âm với
giá trị tuyệt đối các khoản dồn tích điều chỉnh được trong MH1, MH3, MH4 nhưng lại có
tương quan dương trong MH2 và chỉ có ý nghĩa thống kê tại mức ý nghĩa α=5% trong
MH3. Với kết quả ba trong bốn mô hình hồi quy cho thấy chi phí lãi vay có tác động trái
chiều đến AEM đã gây mâu thuẫn với lập trường cho rằng việc gia tăng nợ có thể dẫn tới
việc tăng các khoản thanh toán lãi suất dẫn đến việc quản lý thu nhập với mục đích giảm
của Jelinek (2007). Để giải thích vấn đề này cần xem xét bối cảnh thị trường Việt Nam
giai đoạn 2012 – 2016 đặc biệt là yếu tố lãi suất thị trường. Như đã biết lãi suất thị trường
là yếu tố quan trọng quyết định chi phí lãi vay, theo đó lãi suất vay sẽ được các chủ nợ
điều chỉnh dựa trên lãi suất thị trường. Mặt khác, lãi suất thị trường tại Việt Nam được
điều tiết thông qua các chính sách tiền tệ đặc biệt là lãi suất điều hành. Trong giai đoạn
2012-2016, lãi suất thị trường có sự giảm mạnh nguyên nhân bắt nguồn từ các chính sách
nói lỏng tiền tệ cho mục đích hồi phục và phát triển kinh tế.
Hình 4.1: Diễn biến lãi suất điều hành giai đoạn từ năm 2012 – 7/2017
Nguồn: Số liệu NHNN
Với mô hình nghiên cứu tại Việt Nam trong giai đoạn 2012 – 2016 nhìn chung chi phí lãi
vay so với tổng nợ sẽ giảm do việc lãi suất vay giảm so với năm trước. Các công ty gia
tăng đòn bẩy tài chính ngoài việc tránh vi phạm giao ước nợ thì không cần phải quá nỗ
Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019
248
lực tìm mọi cách nhằm cải thiện khả năng thương lượng trong quá trình tái đàm phán nợ
để có được nguồn vốn ở những điều kiện thuận lợi nữa vì giờ đây, họ nhận được ưu đãi về
lãi suất vay từ Nhà nước. Từ đó, tăng sử dụng đòn bẩy dẫn đến động cơ thực hiện AEM
của các nhà quản lý giảm. Kết luận trên chỉ phù hợp trong bài nghiên cứu này với bối
cảnh tại Việt Nam trong thời gian mẫu như trên.
PHẦN 5: KẾT LUẬN
Mục đích chính của nghiên cứu này là góp phần vào cuộc tranh luận đang diễn ra về tác
động của đòn bẩy tài chính đến AEM. Các phân tích trong bài báo này dựa vào các mô
hình ước lượng các khoản dồn tích bao gồm Mô hình Hribar và Collins (2002), Mô hình
Kothari và cộng sự (2005), Mô hình McNichols (2002), Mô hình Shahrur và Raman
(2008) với mẫu nghiên cứu là các công ty niêm yết trên sàn HOSE đã được lựa chọn và
phân loại thành hai nhóm bao gồm Các công ty có đòn bẩy tài chính tăng trưởng và Các
công ty có đòn bẩy tài chính cao trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016. Sau khi
phân tích thực nghiệm về tác động của đòn bẩy lên AEM, kết quả hồi quy cho thấy mối
tương quan dương và có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ nợ dài hạn trên vốn chủ sở hữu với
giá trị tuyệt đối các khoản dồn tích điều chỉnh được. Điều này khẳng định đòn bẩy tài
chính có tác động tích cực đến AEM đồng thời các công ty có đòn bẩy tăng trưởng
thường có nhiều động cơ thực hiện quản lý thu nhập cao hơn các công ty có đòn bẩy cao
mà nguyên nhân thường liên quan đến nỗ lực né tránh vi phạm các giao ước nợ vay đã ký
kết với chủ nợ. Kết quả trên ủng hộ cho Lý thuyết kế toán thực chứng về giao ước nợ vay
với các đại diện là Becker và cộng sự (1998), Beatty và Weber (2003), Dichev và Skinner
(2003), Gu và cộng sự (2005), Gombola và cộng sự (2016), Safa Lazzem, Faouzi Jilani
(2017) khi cho rằng đòn bẩy tài chính được xem như động lực đối với các nhà quản lý để
thực hiện các hành vi quản lý thu nhập. Hơn nữa, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy việc
quản lý thu nhập vẫn xảy ra dù công ty có thành quả hoạt động được đánh giá là tốt. Lập
luận này phù hợp với kết quả nghiên cứu thực nghiệm của Kothari và cộng sự (2005),
Wasimullah và cộng sự (2010). Bên cạnh đó, từ bốn mô hình tiếp cận bao gồm Mô hình
Hribar và Collins (2002), Mô hình Kothari và cộng sự (2005), Mô hình McNichols
(2002), Mô hình Shahrur và Raman (2008), bài nghiên cứu này đóng góp đề xuất mô hình
nghiên cứu AEM của Mô hình McNichols (2002) là phù hợp nhất tại Việt Nam đặc biệt
tại HOSE.
Bài nghiên cứu trên tồn tại một số hạn chế:
Đầu tiên, đối tượng nghiên cứu là các công ty niêm yết trên sàn HOSE do đó mẫu nghiên
cứu chưa thể khái quát được toàn bộ thị trường chứng khoán Việt Nam. Thứ hai, quản lý
thu nhập liên quan đến hành vi của nhà quản trị tuy nhiên việc đo lường quản lý thu nhập
chỉ dựa trên các số liệu kế toán, tài chính mà bỏ qua bước nghiên cứu các hành vi cụ thể
của nhà quản lý trong thực tế. Thứ ba, nghiên cứu bỏ qua ý kiến của kiểm toán viên, một
Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019
249
trong những nhân tố giúp đánh giá tính trung thực, hợp lý và đáng tin cậy của các thông
tin tài chính, kế toán có trong báo cáo tài chính. Cuối cùng, nghiên cứu bỏ qua các hiệu
ứng về chính sách phát triển kinh tế riêng biệt của Việt Nam đặc biệt là chính sách tiền tệ,
tài khóa mà theo đó có thể ảnh hưởng đến thị trường tài chính và hành vi của nhà quản lý.
Từ nghiên cứu này tạo ra nền tảng cho các nghiên cứu sau đó như nghiên cứu sâu hơn về
tác động của đòn bẩy dưới hai hình thức nợ cụ thể bao gồm trái phiếu doanh nghiệp và
các khoản vay tài chính tư nhân đến quản lý thu nhập trên cả hai hình thức (AEM và
REM). Bên cạnh đó, quy mô mẫu dữ liệu sẽ được mở rộng với tất cả các công ty niêm yết
công khai trên sàn chứng khoán Việt Nam trong khoảng thời gian dài hơn cho mục đích
khái quát toàn bộ thị trường Việt Nâm hdhshkhfdjshfdsfhdsfhdskfhdskfhdskfhdmdnjjjj
Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019
250
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Afza, T., and Rashid, B., (2014). Opportunistic earnings managemnt, debt and
diversification: Empirical evidence for manufacturing firms of Pakistan. Science
International, 26(5), 2489–2494.
Alsharairi, M., and Salama, A., (2011). Does high leverage impact earnings
management? Evidence from non-cash mergers and acquisitions. Journal of Financial
and Economic Practice, 12(1), 17–33.
Bathala, C., Moon, K., Rao, R., (1994). Managerial ownership, debt policy, and the
impact of institutional holdings: an agency theory perspective. Financial Management
23, 38–50.
Beck, N., and Katz, J. N., (1995). What to do (and not to do) with time-series cross-
section data. American Political Science Review, 89(3), 634-647.
Beneish, M. D., and Press, E., (1995). Interrelation Among Events of Default.
Contemporary Accounting Research, 12(1), 57–84.
Chamberlain, T. W., Butt, U. R., and Sarkar, S., (2014). Accruals and Real Earnings
Management around Debt Covenant Violations. International Advances in Economic
Research, 20(1), 119–120.
Chava, R. and M. Roberts (2008). How does financing impact investment? The role of
debt covenants. Journal of Finance, 63, 2085-2121.
Cinthia Valle Ruiz (2016). Literature review of earnings management: Who, why,
when, how and what for? Finnish Business Review. Published online: March 11, 2016
2341-9938-12
Cohen, D., A. Dey, T. Lys (2008). Real and accrual-based earnings management in
the pre and post-Sarbanes-Oxley periods. The Accounting Review, 82(3), 757-787.
Cohen, D. and P. Zarowin (2010). Accrual based and real earnings management
activities 25 around seasoned equity offerings. Journal of Accounting and Economics,
forthcoming.
Crutchley, C., Hansen, R., (1989). A test of agency theory managerial ownership,
corporate leverage, and corporate dividends. Financial Management 18, 36– 46.
DeFond, M., and Jiambalvo J., (1994). Debt covenant violation and manipulation of
accruals: Accounting choice in troubled companies. Journal of Accounting and
Economics, 17(1-2), 145-176.
Dechow, P. M., S. A. Richardson, et al. (2000). Are Benchmark Beaters Doing
Anything Wrong? SSRN eLibrary Accessed on 07NOV10.
Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019
251
Dichev, I., Skinner, D., (2002). Large-sample evidence on the debt covenant
hypothesis. Journal of Accounting Research 40, 1091–1123.
Dyreng, S., Hillegeist, S. A., and Penalva, F., (2011). Earnings management to avoid
debt covenant violations and future performance. Working Paper, Duke University,
Arizona State University School of Accountancy.
Esadinia, N., Rabiee, H., and Hamidian, N., (2014). To survey the relation between
financial leverage and real earnings management in the firms listed in Tehran Stock
Exchange. Journal of Accounting Advances, 5(1), 33-54.
Fung, S. Y. K., and Goodwin, J., (2013). Short-term debt maturity, monitoring and
accruals-based earnings management. Journal of Contemporary Accounting and
Economics, 9(1), 67–82.
Ghosh, A., Moon, D., 2010. Corporate debt financing and earnings quality. Journal of
Business, Finance and Accounting 10, 1–22.
Gombola, M. J., Ho, A. Y-F., and Huang, C. C., (2016). The effect of leverage and
liquidity on earnings and capital management: Evidence from U.S. Commercial
banks. International Review of Economics and Finance, 43(200), 35–58.
Gunny, K. A., (2010). The relation between earnings management using real activities
manipulation and future performance: Evidence from meeting earnings benchmarks.
Contemporary Accounting Research, 27(3), 855-888.
Healy, P.M., (1985). The effect of bonus schemes on accounting decisions. Journal of
Accounting and Economics 7, 85–107.
Hribar, P., and Collins, D.W., (2002). Errors in estimating accruals: Implications for
empirical research. Journal of Accounting Research, 40(1), 105-134.
Iturriaga, F. J. L. and P. S. Hoffmann (2005). Managers Discretionary Behaviour,
Earnings Management and Internal Mechanisms of Corporate Governance: Empirical
Evidence from Chilean Firms. Corporate Ownership & Control 3(1): 1729.
Iatridis, G., and Kadorinis, G., (2009). Earnings management and firm financial
motives: A financial investigation of UK listed firms. International Review of
Financial Analysis, 18(4), 164–173.
Januarsi, Y., Badina, T., and Febrianti, D., (2014). Leverage, Corporate strategy and
earnings management: Case of Indonesia. Journal on Business Review, 3 (2), 54-60.
Jelinek, K., (2007). The effect of leverage increases on earnings management. Journal
of Business and Economic Studies, 13(2), 24–46.
Jensen, M. C., (1986). Agency Costs of Free Cash Flow, Corporate Finance, and
Takeovers. American Economic Review, 76(2), 323–329.
Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019
252
Jensen, M. C., and Meckling, W., (1976). Theory of the firm managerial Behaviour,
agency costs and ownership structure. Journal of Financial Economics, 3(4), October,
305- 360.
Ke, B. (2001). Why Do CEOs of Publicly Traded Firms Prefer Reporting Small
Increases in Earnings and Long Duration of Consecutive Earnings Increases? SSRN
eLibrary Accessed on 08OCT10.
Kim, B. (2009). Post-borrowing conservatism and debt covenant slack. Working
Paper. American University.
Kim, B. H., Lei L., and Pevezner, M., (2010). Debt Covenant Slack and Real Earnings
Management. George Mason University Working Paper.
Kothari, S. P., Leone, A. J., and Wasley, C. E., (2005). Performance matched
discretionary accrual measures. Journal of Accounting and Economics, 39(1), 163-
197.
Kothari, S.P., Mizik, N., Roychowdhury, S. (2012). Managing for the moment: the
role of real activity versus accruals earnings management in SEO valuation. Working
paper.
Leuz, C., Nandab, D., Wysocki, P., (2003). Earnings management and investor
protection: an international comparison. Journal of Financial Economics 69, 505– 527.
Lin, C. J., and Wang, H. D., (2013). Debt financing and Earnings Management: An
Internal Capital Market Perspective. Journal of Business Finance and Accounting,
40(78), 842-868.
McNichols, M. F., (2002). Discussion of the quality of accruals and earnings: The role
of accrual estimation errors. The Accounting Review, 77(S-1), Supplement, 61-69.
Myers, R. H., (1990). Classical and modern regression with applications. The
Duxbury advanced series in statistics and decision sciences, (Vol. 2).
Nini, G, D. Smith, and A. Sufi (2009). Creditor control rights and firms’ investment
policy. Journal of Financial Economics, 92(3), 400-420.
Obeidat, M. I. S., (2016). Capital Structure Effect on the Practices of Earnings
Management Phenomenon? The Evidence of Listed Firms in Abu Dhabi Securities
Exchange. Asian Journal of Finance and Accounting, 8 (2), 171-193.
Ohlson, J., (1980). Financial ratios and the probabilistic prediction of bankruptcy.
Journal of Accounting Research, 18 (Spring), 109–131.
Raman, K., and Shahrur, H., (2008). Relationship-specific investments and earnings
management: Evidence on corporate suppliers and customers. The Accounting
Review, 83(7), 1041-1081.
Kỷ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên UEH 2019
253
Roberts, M. and A. Sufi (2009a). Control rights and Capital Structure: An Empirical
Investigation. Journal of Finance, 64, 1657-1695.
Rodriguez-Pérez, G., and Van Hemman, S., (2010). Debt, Diversification and
earnings management. Journal of Accounting and Public Policy, 29(2), 138-159.
Roychowdhury, S., (2006). Earnings management through real activities
manipulation. Journal of Accounting and Economics 42, 335–370.
Sercu, P., Bauwhede, H. V., and Willekens, M. (2006). Earnings management and
debt. DTEW AFI_0619, 1-25, Conference paper.
Teoh, S., Welch, I., Wong, T., (1998a). Earnings management and the long run
underperformance of seasoned equity offerings. Journal of Financial Economics 50,
53–100.
Teoh, S., Welch, I., Wong, T., (1998b). Earnings management and the subsequent
market performance of initial public offerings. Journal of Finance 53, 1935–1974.
Valipour, H., and Moradbeygi, M. (2011). Corpo rate debt financing and earnings
quality. Journal of Applied Finance & Banking, 1 (3), 139-157.
Vakilifard, H., and Mortazari, M. S., (2016). The impact of financial leverage on
Accrual-Based and Real Earnings Management. International Journal of Academic
Research in Accounting, Finance and Management Sciences, 6(2), April, 53-60.
Watts, R., and Zimmerman, J., (1986). Positive accounting theory. New Jersey,
Prentice Hall, Englewood Cliffs (NJ), 388.
Zagers-Mamedova, I., (2009). The effect of leverage increases on real earnings
management. Working Paper, Erasmus MC: University Medical Center Rotterdam.
Zamri, N., Rahman, R. A., and Isa, N. S. M., (2013). The Impact of Leverage on Real
Earnings Management. Procedia Economics and Finance, 7(Icebr), 86–95.
Zhang, J. (2008). The contracting benefits of accounting conservatism to lenders and
borrowers. Journal of Accounting and Economics, 45(1), 27-54.
Zhang, X. (2007). Economic consequences of the Sarbanes–Oxley Act of 2002.
Journal of Accounting and Economics, 44(1), 74-115.
KỶ YẾU NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN UEH 2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Giám đốc – Tổng biên tập
Phan Ngọc Chính
Đơn vị liên kết xuất bản:
Công ty BK Education
Địa chỉ: 35 Chiến Thắng - Phường 9 - Quận Phú Nhuận - TP.HCM
Điện thoại: 0939045464 – 0949 249 736
Email: xuatbaninan@gmail.com
Biên tập:
Đào Thị Hiền
Mã số ISBN: 978-604-79-2328-1
Trình bày, bìa: Thiên Ấn
Sửa bản in: Thiên Ấn
NHÀ XUẤT BẢN TÀI CHÍNH
7 Phan Huy Chú, Quận Hoàn Kiếm, TP. Hà Nội
Điện thoại: (024) 38241432 – Fax: (024) 3839302774
CHI NHÁNH PHÍA NAM
138 Nguyễn Thị Minh Khai, Phường 6, Quận 3, TP.HCM
Điện thoại: (028) 39302775 – Fax: (028) 39302774
In 100 cuốn, khổ 20×28 cm, tại Cty CP In bao bì và XNK Tổng hợp.
Địa chỉ: 1 Bis Hoàng Diệu, Phường 13, Quận 4, TP.Hồ Chí Minh
Số ĐKKHXB: 245-2020/CXBIPH/2-05/TC
và Quyết định số: 12/QĐ-NXBTC cấp ngày 21 tháng 01 năm 2020
In xong nộp lưu chiểu năm 2020.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tac_dong_cua_don_bay_den_quan_ly_thu_nhap_tren_co_so_don_tic.pdf