Thông qua nghiên cứu thực nghiệm từ
mẫu là các doanh nghiệp ngành công
nghiệp trong giai đoạn 2010 - 2016 cho
thấy, với ba biến đưa vào mô hình, biến
đòn bẩy tài chính và quy mô doanh nghiệp
theo tài sản là có tác động ngược chiều đến
khả năng sinh lời của doanh nghiệp; biến
quy mô doanh nghiệp theo doanh thu có tác
động cùng chiều khả năng sinh lời của
doanh nghiệp. Việc sử dụng đòn bẩy tài
chính sẽ giải quyết được vấn đề vốn trong
việc mở rộng đầu tư của doanh nghiệp. Quy
mô tài sản đầu tư tăng cao có xu hướng làm
giảm khả năng sinh lời của doanh nghiệp,
nhưng sự gia tăng doanh thu lại giúp doanh
nghiệp gia tăng khả năng sinh lời. Kết quả
nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, để tăng
khả năng sinh lời của doanh nghiệp, ngoài
những chiến lược về gia tăng doanh thu,
kiểm soát chi phí thì doanh nghiệp phải chú
trọng đến cơ cấu vốn tài trợ và kết cấu tài
sản được đầu tư. Việc đầu tư tài sản cần
cân nhắc đến hiệu quả hoạt động của tài
sản, tránh trường hợp đầu tư quá mức, tài
sản chưa hoạt động hết công suất sẽ là
nguyên nhân làm cho khả năng sinh lời của
doanh nghiệp giảm. Ngoài ra, nguồn tài trợ
từ nợ gia tăng làm gia tăng thêm những
khoản chi phí tài chính, khi lợi nhuận hoạt
động gia tăng thêm từ hoạt động đầu tư mới
không đủ bù đắp sẽ là một nguyên nhân
làm giảm khả năng sinh lời trong kỳ của
doanh nghiệp. Vì vậy, các nhà quản trị, các
chủ đầu tư cần lựa chọn nguồn tài trợ phù hợp
trong điều kiện mở rộng đầu tư mới.
Hệ số beta từ phương trình hồi quy cho
thấy mức độ tác động của đòn bẩy tài chính
đến khả năng sinh lời là mạnh mẽ nhất (giá
trị 0,16 so với giá trị 0,01 hay 0,02), còn hệ
số beta của quy mô thì quá nhỏ. Điều này
cho thấy đòn bẩy tài chính là có tác động
đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp,
còn quy mô có tác động rất yếu đến khả
năng sinh lời. Vì vậy, để gia tăng khả năng
sinh lời, các nhà đầu tư cần cân nhắc đến
cấu trúc vốn tài trợ thay vì chú trọng đến
việc mở rộng quy mô đầu tư của doanh
nghiệp
9 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 528 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của đòn bẩy tài chính và quy mô đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp ngành công nghiệp Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phạm Thị Hồng Vân và tgk
119
TÁC ĐỘNG CỦA ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH VÀ
QUY MÔ ĐẾN KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA DOANH NGHIỆP
NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
EFFECT OF FINANCIAL LEVERAGE AND FIRM SIZE ON PROFITABILITY OF
MANUFACTURING COMPANIES IN VIETNAM
PHẠM THỊ HỒNG VÂN và NGUYỄN THỊ MINH NGHI
ThS. Trường Đại học Văn Lang, phamthihongvan@vanlanguni.edu.vn, Mã số: TCKH11-06-2018
SV. Trường Đại học Văn Lang, minhnghi_1510@yahoo.com.vn
TÓM TẮT: Nghiên cứu thực hiện nhằm tìm hiểu tác động của đòn bẩy tài chính và quy mô
đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Dữ liệu quan sát trong 7 năm (2010 - 2016) với
236 công ty cổ phần ngành công nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán của Việt Nam.
Nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy có trọng số GLS đo lường mức độ tác động của các
biến độc lập như biến đòn bẩy (đo lường bằng tỷ số nợ), biến quy mô doanh nghiệp được
đo lường theo quy mô tài sản và quy mô theo doanh thu tác động đến biến phụ thuộc là
khả năng sinh lời của các công ty (xác định bằng ROA). Nghiên cứu đã xác định được đòn
bẩy tài chính và quy mô theo tài sản có tác động ngược chiều đến khả năng sinh lời, trong
khi quy mô theo doanh thu tác động cùng chiều đến khả năng sinh lời. Với bằng chứng
thực nghiệm, nghiên cứu đưa ra những đề xuất hữu ích cho nhà quản lý, nhà đầu tư trong
quyết định đầu tư và quyết định tài trợ hoạt động doanh nghiệp.
Từ khóa: doanh nghiệp công nghiệp, đòn bẩy, quy mô doanh nghiệp, khả năng sinh lời.
ABSTRACTS: This study is aimed to analyze the effect of financial leverage and size of a
company on its profitability. Data of 236 manufacturing companies listed on the
Vietnamese stock market were observed in 7 years (2010 - 2016). This paper uses the GLS
weighted regression model to measures the of impact of independent variables such as
leverage (measured by debt ratio) and size (measured by asset and revenue size) on the
profitability (determined by ROA) of manufacturing companies. The study found that the
financial leverage and size by assets had an opposite impact on profitability, while
revenue-driven scale had the same impact on profitability. With empirical evidence, the
study offers useful suggestions for managers and investors in making investment and
business financing decisions.
Key words: leverage, firm size, profitability, manufacturing companies.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Mục tiêu quan trọng nhất của chủ đầu
tư và nhà quản trị doanh nghiệp là tối đa
hóa giá trị doanh nghiệp. Để tối đa hóa giá
trị doanh nghiệp, điều cơ bản nhất là phải
duy trì và gia tăng khả năng sinh lời của
doanh nghiệp mỗi năm. Với những tác
động của yếu tố vĩ mô, yếu tố môi trường
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 11, Tháng 9 - 2018
120
sẽ có những ảnh hưởng nhất định theo từng
ngành nghề kinh doanh. Trong từng ngành
nghề kinh doanh, đặc thù riêng biệt lại là
những yếu tố thuộc về nội tại của doanh
nghiệp. Mức độ sử dụng nợ, mức độ đầu tư
tài sản, chiến lược kinh doanh để gia tăng
mức sinh lời trong mỗi doanh nghiệp lại có
sự khác biệt nhau. Vì thế, các nhà quản trị
doanh nghiệp, các chủ đầu tư trong mỗi
ngành nghề, luôn muốn xác định nhân tố
nào ảnh hưởng đến khả năng sinh lời và
chiều hướng tác động của chúng, ngoài
những yếu tố vĩ mô và thị trường mà tất cả
các doanh nghiệp trong cùng ngành nghề
đó phải chịu ảnh hưởng chung.
Trong tất cả các công ty cổ phần có
niêm yết trên 2 sàn chứng khoán của Việt
Nam, tỷ số các công ty thuộc nhóm ngành
công nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất.
Tính đến tháng 6-2017, tỷ lệ công ty thuộc
ngành công nghiệp niêm yết trên 2 sàn
chứng khoán Việt Nam chiếm 40,06 %
(=520/1.298), mẫu nghiên cứu tỷ lệ này
cũng chiếm 38,94% (=236/606) trong tổng
số có 10 ngành theo tiêu chuẩn phân loại
GICS® (Global Industry Classification
Standards: chuẩn phân ngành được phát
triển bởi tổ chức MSCI và S&P Dow Jones
Indexes). Điều này cho thấy, nhóm ngành
công nghiệp đóng góp giá trị gia tăng chủ
đạo trong nền kinh tế quốc dân. Vì vậy,
việc nghiên cứu các nhân tố nội tại tác
động đến khả năng sinh lời của các doanh
nghiệp ngành công nghiệp là rất cần thiết
và hữu ích cho nền kinh tế.
Theo nghiên cứu của Châu Văn Thưởng và
cộng sự [17, tr.56-78], Trần Thị Thanh Tú [15,
tr.36-43], Trần Hùng Sơn và Trần Viết Hoàng
[16, tr.44-47], Lê Khương Ninh và Nguyễn Lê
Hoa Tuyết [14, tr.38-65], tác động của đòn
bẩy đến doanh nghiệp thường được nghiên
cứu ở dạng cấu trúc vốn ảnh hưởng đến khả
năng sinh lời. Tác động của quy mô đến khả
năng sinh lời của doanh nghiệp cũng ít được
nghiên cứu. Chúng tôi chưa tìm được nghiên
cứu về tác động của đòn bẩy tài chính, quy
mô đến khả năng sinh lời của các doanh
nghiệp ngành công nghiệp trong khoảng thời
gian gần đây. Chính vì vậy, bài viết này sẽ
góp phần cung cấp thông tin hữu ích cho các
nhà quản trị, nhà đầu tư trong ngành công
nghiệp ở Việt Nam.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ LƢỢC
KHẢO CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN
2.1. Lý thuyết nền
Theo Lý thuyết đánh đổi của Kraus và
Litezenberger [11, tr.911-922], giá trị doanh
nghiệp tỷ lệ thuận với hiện giá tấm chắn
thuế và tỷ lệ nghịch với chi phí kiệt quệ tài
chính. Việc sử dụng đòn bẩy tài chính làm
gia tăng giá trị doanh nghiệp, tức gia tăng
khả năng sinh lời nhưng đồng thời cũng gia
tăng rủi ro vỡ nợ cho doanh nghiệp. Vì vậy,
doanh nghiệp phải cân nhắc một mức nợ
phù hợp mới gia tăng khả năng sinh lời, tức
gia tăng giá trị cho doanh nghiệp.
Theo lý thuyết chi phí đại diện của
Jensen và Meckling [8, tr.305-360], đề cập
đến mâu thuẫn lợi ích của 3 nhóm: cổ đông,
nhà quản lý và chủ nợ. Nhà quản lý là
người thay mặt cổ đông trực tiếp điều hành
hoạt động doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong
quá trình điều hành doanh nghiệp, vì những
lợi ích trước mắt, nhà quản lý có thể chỉ
quan tâm đến lợi ích trong ngắn hạn của
doanh nghiệp thông qua mức sinh lời cao ở
kỳ hiện tại, không chú ý đến mục tiêu dài
hạn của doanh nghiệp về một sự tồn tại lâu
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phạm Thị Hồng Vân và tgk
121
dài; điều này có thể làm thiệt hại đến doanh
nghiệp, tổn hại đến lợi ích cổ đông và chủ
nợ trong tương lai. Những doanh nghiệp có
quy mô lớn thường thực hiện tốt các hoạt
động kiểm soát nội bộ bởi bộ phận kiểm
soát hoạt động độc lập với hội đồng quản
trị, thực hiện vai trò giám sát ban giám đốc.
Nhờ vậy, những doanh nghiệp có quy mô
lớn thường đảm bảo hơn cho một sự phát
triển bền vững và lâu dài.
2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm
Các nghiên cứu thực nghiệm về tác
động đòn bẩy và quy mô đến khả năng sinh
lời của doanh nghiệp được tập hợp theo
nhóm các nhân tố tác động.
Tác động của đòn bẩy tài chính đến
khả năng sinh lời: Việc sử dụng đòn bẩy tài
chính (hay sử dụng nợ) trong kinh doanh
được các nhà đầu tư hiểu như là một kỹ
thuật đòn bẩy tác động đến sự gia tăng lợi
nhuận nhưng đồng thời cũng gia tăng rủi
ro. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu thực
nghiệm không đồng nhất về chiều hướng
tác động của chúng. Theo nghiên cứu của
Abor [1, tr.438-445], Kouser và cộng sự
[10, tr.58-64], Devi [5, tr.87-91], doanh
nghiệp sử dụng nợ càng nhiều, doanh
nghiệp được hưởng lợi từ tấm chắn thuế,
càng gia tăng mức sinh lời của doanh
nghiệp. Trong khi đó, trên một số mẫu
nghiên cứu khác, đòn bẩy tài chính lại tác
động ngược chiều đến khả năng sinh lời
của doanh nghiệp, như nghiên cứu của
Biger và cộng sự [4, tr.307-326], Afza và
Hussain [2, tr.219-230], Dogan [6, tr.53-
59]. Nghiên cứu của Biger và cộng sự [4,
tr.307-326] nhận định rằng, tỷ lệ nợ của
một doanh nghiệp là tùy thuộc theo từng
ngành. Từ đó cho thấy, chiều hướng tác
động của đòn bẩy tài chính đến khả năng
sinh lời là tùy thuộc vào mẫu nghiên cứu,
trong đó có liên quan đến yếu tố ngành
nghề kinh doanh, giai đoạn nghiên cứu. Vì
vậy, nghiên cứu này đưa ra giả thuyết H1 về
chiều hướng tác động của đòn bẩy tài chính
đến khả năng sinh lời.
Tác động của quy mô đến khả năng sinh lời
Theo nghiên cứu của Prasanjaya và
Ramantha [12, tr.230-245], Akbas và
Karaduman [3, tr.21-27], quy mô doanh
nghiệp có thể được đo lường theo quy mô
tài sản, tức theo năng lực sản xuất hay theo
quy mô doanh thu, tức là theo năng lực tiêu
thụ. Những nghiên cứu thực nghiệm như
Dogan [6, tr.53-59], Akbas và Karaduman
[3, tr.21-27], Devi và Devi [5, tr.87-91],
Prasanjaya và Ramantha [12, tr.230-245]
cho thấy, tác động của quy mô doanh
nghiệp đo lường theo doanh thu là cùng
chiều với khả năng sinh lời của doanh
nghiệp, trong khi các nghiên cứu của
Whittington [13, tr.335-352], Goddard và
cộng sự [7, tr.269-1282], quy mô doanh
nghiệp đo lường bằng tài sản không có tác
động hay có tác động ngược chiều đến khả
năng sinh lời của doanh nghiệp. Vì vậy, có
2 giả thuyết H2 và H3 thể hiện quan hệ giữa
quy mô đến khả năng sinh lời. Giả thuyết
H2 được nghiên cứu đưa ra theo quan hệ
giữa quy mô theo doanh thu với khả năng
sinh lời, giả thuyết H3 đề cập đến chiều
hướng tác động của quy mô theo tài sản với
khả năng sinh lời.
2.3. Giả thuyết và mô hình nghiên cứu
Từ các lý thuyết và kết quả nghiên cứu
thực nghiệm trên, nghiên cứu đưa vào mô
hình với ba giả thuyết như sau: H1: Đòn bẩy
tài chính có quan hệ ngược chiều với khả năng
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 11, Tháng 9 - 2018
122
sinh lời của doanh nghiệp; H2: Quy mô
doanh nghiệp theo doanh thu có quan hệ
cùng chiều với khả năng sinh lời của doanh
nghiệp; H3: Quy mô doanh nghiệp theo tài
sản có quan hệ cùng chiều với khả năng
sinh lời của doanh nghiệp.
Đòn bẩy tài chính, được đo lường bằng
tỷ số nợ, bằng tổng nợ/ tổng tài sản
(Leverage = Debt/TA), thể hiện mức độ nợ
của doanh nghiệp nhiều hay ít, liên quan từ
quyết định tài trợ của doanh nghiệp. Quy
mô doanh nghiệp theo tài sản thể hiện năng
lực sản xuất của doanh nghiệp nên được đo
lường bằng độ lớn của tài sản, quy mô
doanh nghiệp theo doanh thu thể hiện năng
lực tiêu thụ của doanh nghiệp nên được đo
lường bằng độ lớn của doanh thu.
Khả năng sinh lời của doanh nghiệp là đề
cập đến mức lãi ròng doanh nghiệp tạo ra
trong kỳ, thường được đo lường qua chỉ tiêu
ROA hay ROE. Với chỉ tiêu ROA, đánh giá
mức lãi ròng tạo ra trên toàn bộ tài sản được
đầu tư, trong đó có tài sản được tài trợ từ nợ,
có tài sản được tài trợ từ vốn chủ sở hữu;
trong khi chỉ tiêu ROE, đánh giá mức lãi ròng
tạo ra từ vốn chủ sở hữu, tức chỉ quan tâm
đến vốn của chủ đầu tư mà không đề cập đến
nguồn vốn tài trợ từ chủ nợ. Vì nghiên cứu đề
cập đến khả năng sinh lời trên những tài sản
mà doanh nghiệp đầu tư cho dù được tài trợ
từ nguồn nào nên phù hợp với chỉ tiêu ROA.
Mặc khác, xét về tính chất tương đồng
về độ lớn giữa các biến, biến đòn bẩy và biến
ROA có giá trị không quá 1 lần, tức 100%;
trong khi biến quy mô, có giá trị quá lớn, hơn
1 tỷ đồng. Do vậy, để tạo nên sự tương đồng
về độ lớn giữa các biến, biến quy mô sẽ được
xác định bằng cách lấy logarit của tài sản hay
logarit của doanh thu trong kỳ, với doanh thu
và tài sản lấy theo đơn vị tỷ đồng.
Biến độc lập Biến phụ thuộc
Hình 1. Mô hình nghiên cứu
Nguồn: Tác giả đề xuất
3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Dữ liệu nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng số liệu các báo
cáo tài chính của 236 CTCP là các doanh
nghiệp ngành công nghiệp niêm yết đủ số
liệu liên tục cho các biến của mô hình trong
giai đoạn (2010 - 2016) với 1.652 quan sát.
Nghiên cứu sử dụng phần mềm STATA 14,
tiến hành phân tích tương quan giữa các
biến, xây dựng mô hình hồi quy và kiểm
định mô hình. Nghiên cứu giải thích mức
độ tác động của biến độc lập đến biến phụ
thuộc từ kết quả nghiên cứu.
3.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tiến hành phân tích thống
kê, mô tả các biến trước khi sử dụng
phương pháp phân tích tương quan để xác
định mối quan hệ giữa các biến độc lập với
1. Đòn bẩy tài chính
(Leverage = Debt/TA)
2. Quy mô DN theo Doanh thu
{Size_Sale = Ln (Sale)}
3. Quy mô DN theo tài sản
{Size_TA = Ln (TA)}
Khả năng sinh lời của DN
(Profitability = ROA)
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phạm Thị Hồng Vân và tgk
123
biến phụ thuộc; tiếp theo kiểm định
Hausman để lựa chọn mô hình phù hợp, sau
đó tiến hành thực hiện các kiểm định cần
thiết trên mô hình như kiểm định đa cộng
tuyến, kiểm định tự tương quan, kiểm định
phương sai thay đổi; cuối cùng sử dụng
phương pháp hồi quy có trọng số (GLS) xử
lý các lỗi của mô hình để lựa chọn, ước
lượng vững và hiệu quả như nghiên cứu
của Kartkasan và Merianti [9, tr.409-413].
Mô hình hồi quy có dạng:
Profitability = β0 + βiXit
’
+ µi + Uit
Trong đó: βi là vecto (1*n) gồm các
tham số là hệ số hồi quy tương ứng của các
biến độc lập của mô hình; Xit
’
là vecto
(1*n) gồm các biến độc lập của mô hình.
4. Kết quả nghiên cứu và bàn luận
Trước tiên, nghiên cứu phân tích thống
kê mô tả các biến độc lập. Kết quả Logarit
cơ số e của tài sản và của doanh thu có thể
xuất hiện giá trị âm khi giá trị lấy logarit của
chúng nhỏ hơn 2,7182818 (cơ số e). Để giải
thích về giá trị âm của biến quy mô doanh
nghiệp thì nghiên cứu bổ sung thêm kết quả
thống kê mô tả cho cả giá trị doanh thu và
tổng tài sản. Kết quả thể hiện trong bảng 1.
Bảng 1. Phân tích thống kê mô tả các biến
Biến Quan
sát
Giá trị
trung bình
Độ
lệch chuẩn
Giá trị
nhỏ nhất
Giá trị
lớn nhất
Tài sản-TA (tỷ đồng) 1652 1088,23 2634,383 7,821484 38699,26
Doanh thu-Sale (tỷ đồng) 1652 776,8089 1448,103 1,83657 20782,72
Leverage (=debt/ta) 1652 0,557778 0,221513 0,0071566 0,9480659
Size_TA (=ln(ta)) 1652 5,962457 1,307207 0,2513524 10,56358
Size_Sale (=ln(sale)) 1652 5,772691 1,321924 -1,228368 9,941877
Profitability (=ROA) 1652 0,055223 0,081188 -0,5436149 0,7168319
Nguồn: Nghiên cứu của tác giả
Nghiên cứu kiểm định hệ số tương quan
giữa các biến của mô hình. Kết quả kiểm
định hệ số tương quan giữa biến độc lập với
biến phụ thuộc có giá trị p-value <0,05 cho
thấy các biến độc lập có tương quan với biến
phụ thuộc. Ngoài ra, giữa biến quy mô theo
doanh thu (Size_Sale) và quy mô theo tài
sản (Size_TA) có hệ số tương quan 0,7910
là khá cao, cho thấy giữa năng lực sản xuất
và năng lực tiêu thụ thường có sự tương
quan cùng chiều. Nghiên cứu muốn xem xét
đến mức độ tác động của các nhân tố này
đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp như
thế nào nên vẫn để chúng trong mô hình và
sử dụng kỹ thuật toán để khắc phục hiện
tượng đa cộng tuyến giữa các biến độc lập.
Bảng 2. Kết quả kiểm tra tương quan giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc
Leverage Size_TA Size_Sale Profitability
Leverage 1,0000
Size_TA 0,4268 1,0000
Size_Sale 0,3203 0,7910 1,0000
Profitability
-0,5252
0,0000
-0,1522
0,0000
0,0915
0,0002
1,000
Nguồn: Nghiên cứu của tác giả
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 11, Tháng 9 - 2018
124
Tiếp theo, nghiên cứu sẽ thực hiện
kiểm định F, kiểm định Bresch and Pagan
Lagran, và kiểm định Hausman để lựa chọn
mô hình tác động Pooled OLS hay FEM,
hay REM là phù hợp. Theo kết quả kiểm
định bảng 3, kiểm định F và kiểm định
Breusch and Pagan đều có giá trị Prob. =
0,000 < 0,05 nên mô hình tác động Pooled
OLS là không phù hợp, kiểm định
Hausman có giá trị Prob. = 0,2312 > 0,05
nên mô hình REM là phù hợp.
Bảng 3. Kiểm định để lựa chọn mô hình phù hợp
Loại kiểm định Mục đích kiểm định Giá trị kiểm định Quyết định
F – Test Lựa chọn giữa Pooled và FEM F = 6,39 Prob. = 0,000 Chọn FEM
Breusch and Pagan Lựa chọn giữa Pooled và REM Chibar2(01) = 921,54 Prob. = 0,000 Chọn REM
Hausman test Lựa chọn giữa FEM và REM Chi 2 (3) = 4,30 Prob. = 0,2312 Chọn REM
Nguồn: Nghiên cứu của tác giả
Bảng 4. Kết quả hồi quy theo mô hình tác động ngẫu nhiên (REM)
Coef. Std.Err. z p> │z│ [95% conf. Interval]
Leverage -0,189938 0,0106304 -17,87 0,000 -0,2107733 -0,1691027
Size_TA -0,0155935 0,002735 -5,70 0,000 -0,020954 -0,0102329
Size_Sale 0,0315473 0,002497 12,63 0,000 0,0266533 0,0364413
Const 0,0672541 0,115645 5,82 0,000 0,0445882 0,0899201
Nguồn: Nghiên cứu của tác giả
Ghi chú: Wald chi 2 (3) = 474,64; Prob > F = 0,0000
Kết quả hồi quy theo mô hình tác động
ngẫu nhiên (bảng 4) cho thấy giá trị Prob
của mô hình và p-value của các tham số
đều < 0,05, chứng tỏ mô hình và các biến
có ý nghĩa thống kê, tức là mô hình phù
hợp và các biến độc lập có tác động đến các
biến phụ thuộc (khả năng sinh lời của
doanh nghiệp), dấu của các hệ số hồi quy
cũng phù hợp với dấu kỳ vọng. Đòn bẩy tài
chính và quy mô theo tài sản tác động
ngược chiều đến khả năng sinh lời của
doanh nghiệp, quy mô theo doanh thu tác
động cùng chiều đến khả năng sinh lời của
doanh nghiệp.
Mô hình đảm bảo tính ổn định và hiệu
quả khi thỏa mãn các giả thuyết cổ điển. Vì
vậy, nghiên cứu tiến hành kiểm định đa
cộng tuyến giữa các biến trong mô hình,
kiểm định hiện tượng tự tương quan và
kiểm định phương sai thay đổi. Kết quả
kiểm định đa cộng tuyến thể hiện theo bảng
số 5 cho thấy các biến độc lập có giá trị
VIF < 10, chứng tỏ các biến độc lập không
có hiện tượng đa cộng tuyến.
Bảng 5. Kiểm định đa cộng tuyến giữa các biến
Variable VIF SQRT VIF Tolerance R - squared
Leverage 1,18 1,09 0,8448 0,1552
Size_ TA 2,94 1,72 0,3399 0,6601
Size_Sale 2,76 1,66 0,3621 0,6379
Nguồn: Nghiên cứu của tác giả
Bảng 6. Kết quả kiểm định phương sai thay đổi
Var Sd = sqrt (var)
y (Profitability) 0,0065061 0,0806606
e 0,0025647 0,0506431
u 0,0019877 0,0445841
Nguồn: Nghiên cứu của tác giả
Ghi chú: Chibar2 (01) = 921,54; Prob > chibar2 = 0,0000
Kiểm định phương sai sai số thay đổi
của mô hình tác động ngẫu nhiên (REM)
bằng kiểm định Breusch _ Pagan Lagrange
Multiplier, kết quả kiểm định thể hiện trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phạm Thị Hồng Vân và tgk
125
bảng số 6. Kết quả Prob. < 0,05, nên mô hình
REM có hiện tượng phương sai thay đổi.
Với kết quả kiểm định, mô hình REM không
có hiện tượng đa cộng tuyến, nhưng có hiện tượng
tự tương quan và phương sai thay đổi. Vì vậy,
nghiên cứu tiến hành khắc phục lỗi tự tương quan
và lỗi phương sai thay đổi bằng phương pháp hồi
quy có trọng số GLS hay WLS (Weighted Least
Square) để tìm ước lượng hiệu quả.
Kết quả ước lượng theo phương pháp
GLS cho mô hình hồi quy hiệu quả cho
thấy các biến độc lập có giá trị Prob. < 0,05
tức có ý nghĩa thống kê, dấu của các hệ số
hồi quy phù hợp với dấu kỳ vọng.
Bảng 7. Kết quả ước lượng theo GLS
Coef. Std.Err. z p> │z│ [95% conf. Interval]
Leverage -0,1631941 0,0032422 -50,33 0,000 -0,1695488 -0,1568394
Size_ TA -0,0132473 0,0009208 -14,39 0,000 -0,015052 -0,0114426
Size_Sale 0,0225707 0,0009513 23,73 0,000 0,0207062 0,0244352
Const 0,0907157 0,003937 23,04 0,000 0,0829993 0,0984321
Nguồn: Nghiên cứu của tác giả
Ghi chú: Wald chi2 (3) = 2835,10; Prob > F = 0,0000
Từ kết quả ước lượng, mô hình hồi quy
đo lường mức độ tác động các đòn bẩy tài
chính và quy mô doanh nghiệp đến khả
năng sinh lời của doanh nghiệp như sau:
Profitability = - 0,1631941 * Leverage – 0,0132473
* Size_TA + 0,0225707 * Size_Sale + 0,0907157
Như vậy, khi đòn bẩy tài chính tăng 1%,
khả năng sinh lời của doanh nghiệp giảm
0,163%. Điều này cho thấy, việc gia tăng sử
dụng nợ làm định phí tài chính tăng, khi điều
kiện kinh doanh không thuận lợi, mức lợi
nhuận hoạt động không tăng kịp theo mức
tăng của chi phí tài chính, điều này làm giảm
khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, đòn bẩy tác động ngược
chiều đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp,
tương đồng với kết quả nghiên cứu của Biger
và cộng sự [4, tr.307-326], Afza và Hussain
[2, tr.219-230], Dogan [6, tr.53-59]. Vậy, giả
thuyết 1 được chấp nhận;
Khi quy mô theo tài sản (tỷ đồng) tăng
1%, khả năng sinh lời của doanh nghiệp giảm
0,0132%. Khi doanh nghiệp đầu tư vào tài sản
càng nhiều sẽ có những tài sản không khai
thác hiệu quả, chi phí hoạt động tăng lên sẽ
làm giảm khả năng sinh lời của doanh nghiệp.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, quy mô theo tài
sản tác động ngược chiều đến khả năng sinh
lời của doanh nghiệp, tương đồng với kết quả
nghiên cứu của Whittington [13, tr.335-352],
Goddard và cộng sự [7, tr.269-1282],
Kartkasan và Merianti [9, tr.409-413]. Vậy,
giả thuyết 2 được chấp nhận;
Khi quy mô doanh thu (tỷ đồng) tăng 1%,
khả năng sinh lời của doanh nghiệp tăng
0,02257%. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp
có mức doanh thu càng cao, chứng tỏ sản
phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp được
người tiêu dùng tín nhiệm và lựa chọn, làm
tăng khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Kết
quả nghiên cứu cho thấy, quy mô theo doanh
thu tác động cùng chiều đến khả năng sinh lời
của doanh nghiệp, tương đồng với kết quả nghiên
cứu của Dogan [6, tr.53-59], Akbas và
Karaduman [3, tr.21-27], Devi và Devi [5,
tr.87-91], Prasanjaya và Ramantha [12, tr.230-
245]. Vậy, giả thuyết 3 được chấp nhận.
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 11, Tháng 9 - 2018
126
5. KẾT LUẬN
Thông qua nghiên cứu thực nghiệm từ
mẫu là các doanh nghiệp ngành công
nghiệp trong giai đoạn 2010 - 2016 cho
thấy, với ba biến đưa vào mô hình, biến
đòn bẩy tài chính và quy mô doanh nghiệp
theo tài sản là có tác động ngược chiều đến
khả năng sinh lời của doanh nghiệp; biến
quy mô doanh nghiệp theo doanh thu có tác
động cùng chiều khả năng sinh lời của
doanh nghiệp. Việc sử dụng đòn bẩy tài
chính sẽ giải quyết được vấn đề vốn trong
việc mở rộng đầu tư của doanh nghiệp. Quy
mô tài sản đầu tư tăng cao có xu hướng làm
giảm khả năng sinh lời của doanh nghiệp,
nhưng sự gia tăng doanh thu lại giúp doanh
nghiệp gia tăng khả năng sinh lời. Kết quả
nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, để tăng
khả năng sinh lời của doanh nghiệp, ngoài
những chiến lược về gia tăng doanh thu,
kiểm soát chi phí thì doanh nghiệp phải chú
trọng đến cơ cấu vốn tài trợ và kết cấu tài
sản được đầu tư. Việc đầu tư tài sản cần
cân nhắc đến hiệu quả hoạt động của tài
sản, tránh trường hợp đầu tư quá mức, tài
sản chưa hoạt động hết công suất sẽ là
nguyên nhân làm cho khả năng sinh lời của
doanh nghiệp giảm. Ngoài ra, nguồn tài trợ
từ nợ gia tăng làm gia tăng thêm những
khoản chi phí tài chính, khi lợi nhuận hoạt
động gia tăng thêm từ hoạt động đầu tư mới
không đủ bù đắp sẽ là một nguyên nhân
làm giảm khả năng sinh lời trong kỳ của
doanh nghiệp. Vì vậy, các nhà quản trị, các
chủ đầu tư cần lựa chọn nguồn tài trợ phù hợp
trong điều kiện mở rộng đầu tư mới.
Hệ số beta từ phương trình hồi quy cho
thấy mức độ tác động của đòn bẩy tài chính
đến khả năng sinh lời là mạnh mẽ nhất (giá
trị 0,16 so với giá trị 0,01 hay 0,02), còn hệ
số beta của quy mô thì quá nhỏ. Điều này
cho thấy đòn bẩy tài chính là có tác động
đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp,
còn quy mô có tác động rất yếu đến khả
năng sinh lời. Vì vậy, để gia tăng khả năng
sinh lời, các nhà đầu tư cần cân nhắc đến
cấu trúc vốn tài trợ thay vì chú trọng đến
việc mở rộng quy mô đầu tư của doanh
nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Abor, J. (2005), The effect of capital structure on profitability: empirical analysis of
listed firms in Ghana, Journal of Risk Finance, 6(5).
[2] Afza, T., & Hussain, A. (2011), Determinants of capital structure: A case study of
automobile sector of Pakistan, Interdisciplinary Journal of Contemporary Research in
Business, 2(10).
[3] Akbas, H.E., & Karaduman, H. A. (2012), The effect of firm size on profitability: An
empirical investigation on Turkish manufacturing companies, European Journal of
Economics, Finance and Administrative Sciences, (55).
[4] Biger, N., Nguyen, N. V., Hoang, Q. X. (2008), Chapter 15 - The determinants of
capital structure: Evidence from Vietnam, in: Kim, S.J. and Mckenzie, M.D. (Eds.), Asia-
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phạm Thị Hồng Vân và tgk
127
Pacific Financial Markets: Integration, Innovation and Challenges (International Finance
Review, Volume 8, Emerald Group Publishing Limited.
[5] Devi, A., & Devi, S. (2014), Determinants of firms’ profitability in Pakistan, Research
Journal of Finance and Accounting, 5(19).
[6] Dogan, M. (2013), Does firm size firm profitability affect? Evidence from Turkey,
Research Journal of Finance and Accounting, 4(4).
[7] Goddard, J., Tavakoli, M., & Wilson, J. O. S. (2005), Determinants of profitability in
European Manufacturing and services: evidence from a dynamic panel model, Applied
Financial Economics, 15 (18).
[8] Jensen, M. C., & Meckling, W. H. (1976), Theory of the firm managerial behavious,
agency costs and ownership structure, Journal of Financial Economic, 3(4).
[9] Kartkasan, D., & Merianti, M. (2016), The Effect of Leverage and Firm size to
Profitability of public Manufacturing Companies in Indonesia, International Journal of
Economics and Financial Issues, 6(2).
[10] Kouser, R., Cloud, A., Gul-e-rana, Shahzad, FA. (2011), Firm size, leverage, and
profitability: Overriding impact of accounting information system, Business and
Management Review, 1(10).
[11] Kraus, A., & Litzenberger, R. H. (1973), A stage - preference model of optimal
Financial Leverage, The Journal of Finance, 28(4).
[12] Prasanjaya, A. A. Y., & Ramantha, I. W. (2013), Analysis of CAR, ROA, LDR, and
company size to profitability bank listed on the stock exchange, E-Journal of Accounting
University of Udayana, 4(1).
[13] Whittington, G. (1980), The Profitability and Size of United Kingdom Companies, The
Journal of Industrial Economics, 28 (4).
[14] Lê Khương Ninh, Nguyễn Lê Hoa Tuyết (2012), Ảnh hưởng của quy mô đến lợi nhuận
của doanh nghiệp ở Đồng bằng sông Cửu Long, Tạp chí Phát triển Kinh tế, 265 (11).
[15] Trần Thị Thanh Tú (2010), Phân tích tác động của cơ cấu vốn đến khả năng sinh lời của
các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Tạp chí Phát triển Kinh tế, 236 (6).
[16] Trần Hùng Sơn, & Trần Viết Hoàng (2008), Cơ cấu vốn và hiệu quả hoạt động doanh
nghiệp của các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Thành Phố Hồ Chí Minh,
Tạp chí Phát triển Kinh tế, 218 (12).
[17] Châu Văn Thưởng, Trần Lê Khang, Nguyễn Công Thành (2017), Cấu trúc vốn và
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp: Vai trò của cạnh tranh ngành, Tạp chí Phát triển
Kinh tế, 28 (1).
Ngày nhận bài: 02-5-2018. Ngày biên tập xong: 04-9-2018. Duyệt đăng: 24-9-2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tac_dong_cua_don_bay_tai_chinh_va_quy_mo_den_kha_nang_sinh_l.pdf