Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh

Kết luận Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế nói chung và của nông nghiệp ở TP.HCM nói riêng. Nó mang lại những thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp như giúp mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản, thu hút vốn đầu tư, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và gia tăng hiệu quả sản xuất. Tuy nhiên, hội nhập cũng kèm theo những tác động tiêu cực không nhỏ như gia tăng và chịu nhiều rủi ro do biến động thị trường, gia tăng sức cạnh tranh nông sản. Biết tận dụng cơ hội và hạn chế những thách thức là điều cần thiết để phát triển nông nghiệp ở TP.HCM nhanh và bền vững, đáp ứng yêu cầu của nền nông nghiệp đô thị hiện đại. Người sản xuất nông nghiệp, nhà nước và doanh nghiệp phải tăng cường liên kết, lựa chọn các nông sản chủ lực có lợi thế cạnh tranh, đào tạo và nâng cao chất lượng lao động trong nông nghiệp, thay đổi tư duy quản lý và tổ chức sản xuất để đáp ứng yêu cầu của nền nông nghiệp hiện đại và hội nhập kinh tế quốc tế.

pdf12 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 292 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 69 (03/2020) No. 69 (03/2020) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: 95 TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐẾN PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH The impact of international economic integration on agriculture development in Ho Chi Minh City ThS.NCS. Trần Quốc Việt Trường Đại học Sài Gòn TÓM TẮT Phát triển nông nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh là yêu cầu cần thiết cho sự phát triển bền vững. Việc phát triển nông nghiệp bị tác động bởi nhiều nhân tố, trong đó quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là nhân tố nổi trội trong giai đoạn hiện nay. Bài viết sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp và phương pháp thực địa để đánh giá thực trạng tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển nông nghiệp ở cả mặt tích cực và tiêu cực. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp phát huy những mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực, đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Từ khóa: hội nhập kinh tế, phát triển nông nghiệp, tác động của hội nhập kinh tế ABSTRACT Agriculture development in Ho Chi Minh City is an essential requirement for the sustainable development. Agriculture development is influenced by many factors, of which the process of international economic integration is a prominent factor in the current period. The paper uses methods of statistics, analysis, comparison, synthesis and field surveys to assess the impact of international economic integration on agricultural development in both positive and negative aspects. From the assessments, a number of solutions will be worked out to promote the positives and limit the negatives, ensuring the sustainable development of the agricultural sector in Ho Chi Minh City in the process of international economic integration. Keywords: economic integration, agriculture development, impact of economic integration 1. Đặt vấn đề Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) là đô thị lớn và có nền kinh tế phát triển năng động nhất cả nước. Để đảm bảo cho sự phát triển ổn định và bền vững, việc phát triển nông nghiệp ở khu vực ngoại thành là yêu cầu cần thiết. Trong những năm qua, nền nông nghiệp ở TP.HCM bị tác động bởi nhiều nhân tố cả bên trong và bên ngoài. Trong đó, hội nhập kinh tế quốc tế đã có tác động lớn đến phát triển và chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp của thành phố. Biết tận dụng những cơ hội và hạn chế những thách thức do quá trình hội nhập kinh tế mang lại là yêu cầu cần thiết đối với sự phát triển bền vững của nông nghiệp ở TP.HCM trong giai đoạn hiện nay. Bài viết là kết quả của sự khảo sát thực địa và phân tích sự tác động của quá trình hội nhập kinh tế đến ngành nông nghiệp, Email: vietgeo1989@yahoo.com SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020) 96 qua đó đề xuất các giải pháp để đưa nền nông nghiệp ở TPHCM phát triển nhanh và bền vững trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 2. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu 2.1. Dữ liệu Dữ liệu nghiên cứu chủ yếu được lấy nguồn từ Cục thống kê TP.HCM, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn TP.HCM, Chi cục Phát triển nông thôn TP.HCM, Sở Công thương TP.HCM. Ngoài ra, tác giả còn đi khảo sát thực tế để thống kê những tác động trực tiếp và gián tiếp của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đến sự phát triển nông nghiệp trên địa bàn. 2.2. Phương pháp nghiên cứu Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau trong quá trình thực hiện: - Phương pháp thống kê Các tài liệu thống kê đảm bảo giá trị pháp lí được khai thác triệt để phục vụ cho việc nghiên cứu. Số liệu được thu thập, tổng hợp, xử lí trên cơ sở dữ liệu và kết quả thống kê của Cục thống kê TP.HCM, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP.HCM, Chi cục phát triển nông thôn TP.HCM, Sở Công Thương TP.HCM để làm sáng tỏ tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đến sự phát triển nông nghiệp trên địa bàn. - Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp Trong suốt quá trình nghiên cứu, tác giả đã phân tích, so sánh, tổng hợp về thực trạng tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đến sản xuất nông nghiệp ở TP.HCM, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển bền vững nông nghiệp trên địa bàn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. - Phương pháp thực địa Tác giả tiến hành khảo sát thực địa và thu thập thông tin trên các tuyến, điểm ở Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh, Nhà Bè để so sánh đối chiếu tài liệu thực địa với các tài liệu đã có thể để thấy được tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến sản xuất nông nghiệp ở TP.HCM. Từ đó, đưa ra các giải pháp nhằm phát triển nông nghiệp ở thành phố trong quá trình hội nhập. 3. Nội dung nghiên cứu 3.1. Tổng quan về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển nông nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh 3.1.1. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Thành phố Hồ Chí Minh TP.HCM là đô thị đặc biệt, một trung tâm lớn về kinh tế, văn hoá, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, đầu mối giao lưu và hội nhập quốc tế, là đầu tàu, động lực, có vị trí chính trị quan trọng của cả nước. Với vai trò và vị trí đặc biệt này, TP.HCM là đơn vị đi đầu trong chủ động hội nhập quốc tế, tạo tiền đề để các địa phương khác cùng hội nhập kinh tế quốc tế. Từ khi mở cửa chính thức hội nhập năm 1991, TP.HCM đã đạt được nhiều thành tựu nhất định trong quan hệ quốc tế. Thành phố luôn ở vị trí dẫn đầu trong 63 tỉnh, thành về thu hút vốn FDI. Năm 2017, thành phố có hơn 5.820 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký 40 tỉ USD. Đến nay thành phố đã thiết lập quan hệ kết nghĩa với 34 địa phương khắp các châu lục, có quan hệ thương mại với 193 quốc gia. 3.1.2. Khái quát nền nông nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh Năm 2017, TP.HCM có 116.917,4 ha đất nông nghiệp, trong đó đất sản xuất nông nghiệp là 71.171,9 ha (Cục thống kê TP.HCM, 2018). Tỉ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp ở thành phố chỉ chiếm khoảng 1,1% GRDP nhưng vẫn được chú trọng đầu tư để đảm bảo sự phát triển bền vững của đô thị. Năm 2017, GRDP ngành nông nghiệp đạt hơn 9.500 tỉ đồng, tăng 5,9% so TRẦN QUỐC VIỆT TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 97 với năm 2010; tốc độ tăng trưởng bình quân GRDP ngành nông nghiệp là 5,8% giai đoạn 2010 – 2017 (Cục thống kê TP.HCM, 2018). Ngành nông nghiệp thành phố đang chuyển dịch mẽ theo hướng phát triển nông nghiệp đô thị, nông nghiệp công nghệ cao đáp ứng nhu cầu cho dân cư đô thị và cho xuất khẩu. Sản xuất nông nghiệp ở thành phố tập trung chủ yếu ở khu vực ngoại thành (Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh, Nhà Bè và Cần Giờ) và vùng ven đô (Gò Vấp, Thủ Đức, Bình Tân, Quận 9, Quận 12), nơi còn nhiều diện tích đất nông nghiệp. Tuy nhiên, do quá trình đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng nên diện tích đất nông nghiệp ngày càng giảm (giảm trung bình 1.000 ha/năm) và manh mún. 3.2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển nông nghiệp ở Thành Phố Hồ Chí Minh 3.2.1. Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển nông nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh 3.2.1.1. Thị trường xuất khẩu nông sản ngày càng được mở rộng Dưới tác động của hội nhập kinh tế, các hợp tác và liên kết kinh tế song phương và đa phương được hình thành. Đây là cơ hội lớn để mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản ở TP.HCM ra thế giới. Năm 2017, xuất khẩu nông sản của TP.HCM tăng trưởng mạnh. Tập trung vào các loại nông sản ứng dụng công nghệ cao: - Về xuất khẩu giống cây trồng Dựa trên lợi thế về giống cây trồng nhiệt đới hàng đầu cả nước, năm 2017 thành phố xuất khẩu 420 tấn hạt giống (tăng 9,8% so với năm 2010) các loại như ngô, rau, đậu, hoa, cây ăn trái sang các nước như Ý, Hà Lan, Campuchia, Đài Loan (Cục thống kê TP.HCM, 2018). - Xuất khẩu hoa, cây kiểng là ngành có nhiều tiềm năng Năm 2017, thành phố xuất khẩu gần 350.000 cành lan sang Camphuchia và Nhật Bản với giá trị khoảng 3,5 tỉ đồng (Cục thống kê TP.HCM, 2018). Hoa sứ ở Bình Chánh cũng xuất được 1.000 cây sang thị trường khó tính Nhật Bản. - Về xuất khẩu rau quả Thành phố có trên 10 hợp tác xã và tổ hợp tác sản xuất rau an toàn đạt tiêu chuẩn Global GAP7. Năm 2015, TP.HCM đã xuất khẩu gần 1.400 tấn rau quả như bí đỏ, bắp cải, rau thơm các loại, nghệ đen (Cục thống kê TP.HCM, 2018) sang các nước châu Âu, châu Mĩ, châu Á và đang mở rộng sang thị trường Trung Đông và Bắc Phi. - Về xuất khẩu cá cảnh và động vật hoang dã Với sự tổ chức sản xuất phù hợp với nền nông nghiệp ở đô thị, nuôi cá cảnh ở TP.HCM phát triển rất nhanh do mở rộng thị trường tiêu thụ. Năm 2005, thành phố xuất khẩu 3,6 triệu con với giá trị 2,8 triệu USD; đến năm 2017 là 15 triệu con với 13 triệu USD (tốc độ tăng bình quân 19,6%/năm trong giai đoạn 2005 – 2017). Thị trường xuất khẩu cá cảnh đa dạng, phong phú, rải rác ở khác các châu lục như châu Âu, Bắc Mĩ, Trung Đông, Bắc Phi, Đông Á và Đông Nam Á. Ngoài ra, năm 2017, TP.HCM đã xuất khẩu 3.900 con cá sấu sống, 1.520 tấm da cá sấu muối, 540 tấm da cá sấu và gần 2.000 sản phẩm chế tác từ da cá sấu (Cục thống kê TP.HCM, 2018). Cá sấu sống chủ yếu xuất qua thị trường Trung Quốc. Trong khi đó, Nhật Bản và Hàn Quốc là thị trường truyền thống đối với da sấu thuộc và da cá sấu muối. 3.2.1.2. Thu hút vốn đầu từ nước ngoài vào nông nghiệp Nông nghiệp ở nước ta nói chung và ở TP.HCM nói riêng có vai trò hết sức quan SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020) 98 trọng trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, lĩnh vực này vẫn còn nhiều hạn chế trong thu hút vốn đầu tư FDI. Ở TP.HCM, đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào nông nghiệp chủ yếu là lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao. Khu nông nghiệp công nghệ cao TP.HCM ra đời là tiền đề quan trọng để thu hút FDI vào nông nghiệp. Hiện tại khu nông nghiệp công nghệ cao TP.HCM đã thu hút nhiều nhà đầu tư đến từ Israel, Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia. Tập đoàn Fujisu (Nhật Bản) đầu tư hệ thống điện toán đám mây để quản lí quy trình trồng rau sạch; tập đoàn Unifarm (Indonesia) đầu tư và liên kết thu mua sản phẩm rau, củ, quả của nông dân TP.HCM; tập đoàn CP (Thái Lan) đang đầu tư 23 ha tại khu thủy sản công nghệ cao Cần Giờ để nhân giống tôm biển. Năm 2007, TP.HCM có 8 dự án đầu tư vào nông nghiệp với số vốn là 20.639 ngàn USD; trong đó liên doanh là 4.553 ngàn USD (chiếm 22%), 100% vốn nước ngoài là 15.840 ngàn USD (chiếm 76,5%) và hợp tác kinh doanh là 300 ngàn USD (chiếm 1,5%). Năm 2017, tổng số dự án đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao là 15 dự án với 40.500 ngàn USD, tăng 1,6 lần so với năm 2007 (Cục thống kê TP.HCM, 2018). Theo đó, liên doanh là 15.000 ngàn USD (chiếm 45,3%), tăng 23,2% so với năm 2007 vì sự liên doanh giữa các doanh nghiệp trong nước và các công ty nước ngoài mang lại hiệu quả và lợi thế hơn; 100% vốn nước ngoài là 17.749 ngàn USD (chiếm 53.7%), giảm 22.8% so với năm 2007 và hợp tác kinh doanh là 300 ngàn USD (chiếm 1%), giảm 0.5% so với năm 2007 (Cục thống kê TP.HCM, 2018). Để khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào nông nghiệp ngoại thành, TP.HCM đã có nhiều giải pháp như cho giá thuê đất chỉ 1.140 đồng/m2/năm, giảm 50% phí hạ tầng. Mỗi năm, doanh nghiệp chỉ đóng khoảng 12 triệu đồng/ha. Việc thu hút vốn FDI vào nông nghiệp sẽ góp phần thúc đẩy quá trình đầu tư, chuyển giao và ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp, nâng cao chất lượng nông sản của TP.HCM trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới. 3.2.1.3. Đẩy nhanh quá trình ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển giao, ứng dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp. Ở TP.HCM, việc chuyển giao và ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp được thực hiện qua hai kênh chính là thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp và nhập khẩu trực tiếp trang thiết bị, máy móc hiện đại của nước ngoài vào sản xuất nông nghiệp. Năm 2017, TP.HCM đã thu hút được 14 doanh nghiệp công nghệ cao (cả trong và ngoài nước) đang hoạt động với tổng vốn đầu tư 340 tỷ đồng (Cục thống kê TP.HCM, 2018). Các doanh nghiệp này tập trung vào các lĩnh vực: Công nghệ sinh học nông nghiệp; canh tác không sử dụng đất, sản xuất giống, bảo quản chế biến, hoa và cây cảnh, nấm ăn và nấm dược liệu. Với quy trình hiện đại, nhiều công nghệ tiên tiến từ các nước châu Âu, Bắc Mỹ và của Israel, Nhật Bản, Thái Lan được ứng dụng làm cho chất lượng nông sản tăng lên đáp ứng yêu cầu của các thị trường khó tính. 3.2.1.4. Làm gia tăng giá trị sản xuất nông nghiệp Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư, ứng dụng khoa học – công nghệ và mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản. Chính những điều này đã thúc đẩy sản xuất nông nghiệp ngày càng hiệu quả, góp phần nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp ở TP.HCM. Giai đoạn TRẦN QUỐC VIỆT TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 99 2007 – 2017, giá trị sản xuất nông nghiệp ở TP.HCM tăng nhanh và liên tục. Năm 2007, giá trị sản xuất nông, lâm và thuỷ sản đạt 4.688 tỉ đồng (nông nghiệp chiếm 67%, thủy sản chiếm 31,7%, lâm nghiệp chiếm 1,3%). Đến năm 2017, giá trị sản xuất nông, lâm và thuỷ sản tăng lên 16.721 tỉ đồng (nông nghiệp chiếm 71,4%, thủy sản chiếm 27,6%, lâm nghiệp chiếm 1,0%), tăng 3,6 lần so với năm 2007 (Cục thống kê TP.HCM, 2018). Theo đó, tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành nông nghiệp giai đoạn 2007 – 2017 là 6,7%/năm, cao hơn cả nước 2,7 lần. 3.2.1.5. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp hàng hóa Quá trình hội nhập kinh tế với việc mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản sẽ tạo nhiều thuận lợi cho xuất khẩu nông sản. Tuy nhiên, việc xuất khẩu nông sản sẽ phải thay đổi để đáp ứng nhu cầu của thị trường, nhất là các thị trường khó tính như Nhật Bản, châu Âu, Bắc Mĩ. Dưới tác động của yêu cầu thị trường nó sẽ thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thích hợp ở từng giai đoạn cụ thể. Nhìn chung, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở TP.HCM ngày càng phù hợp, đáp ứng yêu cầu của nền nông nghiệp đô thị và hội nhập kinh tế quốc tế. Theo đó, tỉ trọng ngành nông, lâm và thủy sản có sự thay đổi đáng kể. Giai đoạn 2007 – 2017, ngành nông nghiệp luôn chiếm tỉ trọng cao nhất và có sự biến động, tăng từ 67,5% (năm 2007) lên 71,5% (năm 2017). Ngành thủy sản giảm không liên tục từ 30,0% (năm 2007) xuống còn 27,7% (năm 2017). Ngành lâm nghiệp chiếm tỉ trọng thấp nhất và có xu hướng giảm từ 2,5% năm 2007 xuống còn 0.8% năm 2017 (Cục thống kê TP.HCM, 2018). Tuy nhiên, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông, lâm và thủy sản có sự biến động qua từng năm. - Giai đoạn 2007 – 2013, tỉ trọng ngành nông nghiệp tăng từ 67.5% (năm 2007) lên 78,4% (năm 2013) (Cục thống kê TP.HCM, 2018). Trong khi đó, tỉ trọng ngành thủy sản lại giảm từ 30,0% (năm 2007) xuống còn 20,5% (năm 2013) do có sự biến động về giá cả và diện tích nuôi tôm tại Cần Giờ giảm vì khó khăn trong xuất khẩu. - Giai đoạn 2013 – 2017, tỉ trọng ngành nông nghiệp giảm từ 78,4% (năm 201) xuống còn 71,5% (năm 2017). Trong khi đó, diện tích và sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng do nhu cầu thị trường đã làm tăng tỉ trọng ngành này từ 20,5% (năm 2013) lên 27,1% (năm 2017) (Cục thống kê TP.HCM, 2018). 71,572,078,467,5 77,9 69,9 30,0 28,9 19,7 20,5 27,127,1 0,80,91,11,01,22,5 0% 20% 40% 60% 80% 100% 2007 2009 2011 2013 2015 2017 Lâm nghiệp Thủy sản Nông nghiệp Nguồn: (Cục thống kê TP.HCM, 2018) Hình 1. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp ở TPHCM, giai đoạn 2007 – 2017 (năm) SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020) 100 Trong nội bộ ngành nông, lâm và thủy sản ở ngoại thành TP.HCM cũng có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với nhu cầu thị trường trong bối cảnh hội nhập sâu rộng với thế giới. 3.2.1.6. Tăng thu nhập cho người nông dân Hội nhập kinh tế quốc tế mở ra nhiều cơ hội cho nông dân ngoại thành TP.HCM trong việc tiếp cận nguồn vốn, nguồn giống cây trồng và vật nuôi; tiếp cận khoa học công nghệ; đặc biệt là tiếp cận và mở rộng thị trường. Từ đó, hiệu quả sản xuất được nâng lên, thu nhập người nông dân ngoại thành tăng nhanh qua các năm. Hiệu quả sản xuất được nâng lên rõ rệt, nó thể hiện qua doanh thu bình quân trên 1 ha đất sản xuất. Doanh thu bình quân là 63 triệu đồng/ha (năm 2007), lên 170 triệu đồng/ha (năm 2012), tăng lên 370 triệu đồng/ha (năm 2017, tăng 5,9 lần). Theo đó, thu nhập bình quân của người nông dân cũng tăng nhanh. Năm 2007, thu nhập là 9 triệu đồng/người/năm; đến năm 2012 là 16,7 triệu đồng/người/ năm; đến năm 2017 tăng lên 35 triệu đồng/ người/năm, tăng 3,9 lần so với năm 2007 (Cục thống kê TP.HCM, 2018). Từ đó, đời sống người dân làm nông nghiệp được nâng lên rõ rệt. 63 370 170 9 16.7 35 0 50 100 150 200 250 300 350 400 2007 2012 2017 0 5 10 15 20 25 30 35 40 Doanh thu sản xuất nông nghiệp/1 ha Thu nhập bình quân nông dân/1 năm Nguồn: (Cục thống kê TPHCM, 2018) Hình 2. Doanh thu nông nghiệp/1ha và thu nhập bình quân của nông dân ở TPHCM, giai đoạn 2007 - 2017 3.2.1.7. Thúc đẩy sự hình thành và phát triển của các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp hiện đại Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là nhân tố quan trọng để thúc đẩy sự hình thành và phát triển của nhiều hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp ở TP.HCM. Các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp như trang trại, khu nông nghiệp công nghệ cao, hợp tác xã nông nghiệp đang dần phát triển và cải tiến để phù hợp với nền nông nghiệp mới và hội nhập kinh tế quốc tế, cụ thể: - Khu nông nghiệp công nghệ cao Khu nông nghiệp công nghệ cao là hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp chỉ (triệu) đồng/ha) (triệu đồng/người/năm) (năm ) TRẦN QUỐC VIỆT TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 101 mới xuất hiện vài năm gần đây ở nước ta. Ở TP.HCM hiện chỉ có một khu nông nghiệp công nghệ cao (thành lập năm 2010) với diện tích 88,26 ha ở huyện Củ Chi, trong đó có gần 60 ha dành cho nhà đầu tư. Đây là nơi nghiên cứu đào tạo, chuyển giao công nghệ và sản xuất dịch vụ cung cấp giống, vật tư, chế phẩm sinh học phục vụ sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn thành phố và cả nước chủ yếu cho lĩnh vực trồng trọt. Hiện nay, TPHCM đang triển khai xây dựng Khu Chăn nuôi công nghệ cao ở Bình Chánh và Khu Thủy sản công nghệ cao ở Cần Giờ. Với lợi thế là trung tâm nghiên cứu, ứng dụng khoa học kĩ thuật trực tiếp vào ngành nông nghiệp. Đây sẽ là hình thức tổ chức lãnh thổ có ưu thế nhất trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. - Trang trại Do yêu cầu của kinh tế thị trường, sự đổi mới về chính sách đất đai, đầu tư vốn, nhân lực, mở rộng thị trường tiêu thụ và hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện để kinh tế trang trại phát triển một cách nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng. Năm 2017, TP.HCM có 2.294 trang trại sản xuất nông nghiệp, thu hút đến 6.774 lao động (lao động nữ chiếm 26%) (Cục thống kê TPHCM, 2018). Về quy mô, hầu hết trang trại ở ngoại thành TP.HCM có diện tích không lớn, bình quân chỉ 2,7 ha (cả nước là 5,7ha/ trang trại). Tuy diện tích nhỏ nhưng do được đầu tư, thâm canh nên đa phần trang trại ở ngoại thành TP.HCM đã tạo ra giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích khá cao. Tỉ suất lợi nhuận trong năm (thu nhập/vốn) là 61%. Việc phát triển trang trại ở TP.HCM không những đem lại nguồn lợi cho các chủ trang trại mà còn có những đóng góp đáng kể về kinh tế - xã hội và môi trường, là mô hình sản xuất đầu tàu trong việc chuyển đổi sang nền nông nghiệp tại địa phương trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. - Hợp tác xã nông nghiệp Trong những năm gần đây, sản xuất nông nghiệp ở TP.HCM có xu hướng liên kết, hợp tác để giảm chi phí đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra, nhất là trong thời kì hội nhập. Năm 2017, TP.HCM hiện có 49 hợp tác xã nông nghiệp phân bố tại 13/24 quận huyện, trong đó Củ Chi có 21 hợp tác xã, chiếm 42,8%. Các hợp tác xã hoạt động chủ yếu là nông nghiệp và dịch vụ tổng hợp, chiếm 60,5%. Nhìn chung, các hợp tác xã nông nghiệp đã có sự chuyển đổi nhanh chóng để thích nghi với các hoạt động sản xuất, thương mại nông nghiệp đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Bảng 1. Số lượng hợp tác xã nông nghiệp ở TP.HCM năm 2017 Loại hình hợp tác xã nông nghiệp Số lượng Tỉ lệ(%) Nông nghiệp – dịch vụ tổng hợp 41 83,6 Nông – công nghiệp 1 2,1 Thủy sản – dịch vụ thủy sản 5 10,2 Sản xuất muối 2 4,1 Tổng 49 100 Nguồn: Liên minh hợp tác xã TP.HCM, 2017 SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020) 102 3.2.1.8. Thúc đẩy phát triển du lịch nông nghiệp Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mở ra cơ hội lớn cho ngành du lịch. Việc khai thác mọi lợi thế để phát triển du lịch là điều cần thiết, trong đó có cả thế mạnh về phát triển nông nghiệp phục vụ cho du lịch. Hiện nay, ở TP.HCM gắn sản xuất nông nghiệp với hoạt động dịch vụ khác được mở ra, trong đó mô hình nông nghiệp gắn với du lịch được nông dân thực hiện có hiệu quả. Với lợi thế nằm sát cạnh trung tâm thành phố lớn, nhiều mô hình kinh doanh du lịch gắn với nông nghiệp của nông hộ xuất hiện nhiều nơi. Trên vùng đất thép thành đồng Củ Chi với khu du lịch miệt vườn Trung An, khu du lịch vườn cây ăn trái Bình Mỹ (Củ Chi); điểm du lịch truyền thống 18 thôn vườn trầu Bà Điểm (Hóc Môn), vườn cau đỏ Thạnh Lộc - An Phú Đông (Quận 12), vườn cây ăn trái đặc sản (Cần Giờ), khu du lịch Vườn Cò, khu nhà vườn Trường Thạnh (Quận 9). Không những thu hút du khách trong nước, nhiều du khách quốc tế cũng đến đây để khám phá nền nông nghiệp nhiệt đới ở TP.HCM. Năm 2017, số lượng du khách nước ngoài tham gia du lịch nông nghiệp ở ngoại thành mặt dù còn ít (khoảng 20 nghìn lượt) nhưng đã góp phần thúc đẩy loại hình nông nghiệp sinh thái, tăng thu nhập cho người nông dân ở thành phố. 3.2.1.9. Thay đổi tư duy quản lý và chính sách về nông nghiệp Quá trình toàn hội nhập kinh tế quốc tế đã mở rộng giao lưu, hợp tác với các nước trên thế giới. Nhiều bài học kinh nghiệm từ chính sách quản lý và đầu tư cho nông nghiệp từ các nước châu Âu, Bắc Mĩ, Israel, Nhật Bản như quá trình tích tụ ruộng đất, sử dụng tiết kiện tài nguyên nông nghiệp, đầu tư có trọng tâm trọng điểm, liên kết trong sản xuất nông nghiệp được các nhà lãnh đạo, quản lý tiếp thu. Từ đó, nó làm thay đổi tư duy quản lý và chính sách phát triển nông nghiệp ở TP.HCM trong giai đoạn hiện nay. 3.2.2. Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển nông nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh 3.2.2.1. Cạnh tranh trên thị trường nông sản ngày càng tăng Hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, nhất là các hiệp định tự do thương mại được kí kết sẽ giúp cho hàng hóa lưu thông tự do. Tuy nhiên, nền sản xuất nông nghiệp ở TP.HCM còn nhiều hạn chế về chất lượng, mẫu mã, thương hiệu nên các mặt hàng nông sản chủ lực bị cạnh tranh rất lớn. Nguyên nhân chính là do hạn chế về năng lực chế biến và xuất khẩu của các doanh nghiệp nên việc ký kết các đơn hàng để xuất khẩu ra nước ngoài còn rất thấp, nhiều khó khăn, các doanh thu từ xuất khẩu còn thấp do các khâu chế biến còn thô sơ và hiện nay hầu hết chưa có thương hiệu, qua nhiều khâu trung gian. Quá trình chế biến và bảo quản, nhiều sản phẩm tổn thất sau thu hoạch cả về số lượng và chất lượng hiện vẫn đang còn rất lớn, như lúa gạo hao hụt khoảng 11- 13 %; rau quả, đánh bắt hải sản khoảng 20- 25%, muối hao hụt 15%... làm tăng giá thành sản xuất nguyên liệu và sản phẩm, giảm chất lượng và giá bán sản phẩm. TRẦN QUỐC VIỆT TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 103 Nguồn: Viện chăn nuôi, năm 2015 Hình 3. Giá thành sản xuất 1 kg thịt lợn và bò ở TP.HCM so với các nước trên thế giới, năm 2015 Hiện nay, chi phí sản xuất nhiều loại nông sản ở TP.HCM còn cao hơn nhiều nước trong khu vực nên khó cạnh tranh về giá. Năm 2015, giá thành sản xuất 1 kg thịt lợn trong nước là 2,08 USD/kg, cao 1,2 lần so với Australia, cao hơn 1,5 lần so với Hoa Kì. Tương tự, giá thành sản xuất 1 kg thịt bò trong nước là 2,69 USD/kg, cao hơn 1,1 lần so với Hoa Kì, vào cao 1,4 lần so với Australia. Mặc dù nhiều hộ dân ở TP.HCM đã áp dụng các quy trình sản xuất nông nghiệp tốt như (GAP) và quy trình chế biến tốt (GMP) để đảm bảo chất lượng và an toàn vệ sinh nhưng khâu vận chuyển từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ vẫn còn nhiều bất cập đã làm cho chất lượng nông sản bị giảm sút nhiều. Hiện nay, hàng nông sản nội địa thường thua kém các nước khác từ 15-50% về giá trị do những chênh lệch về chất lượng, điều này cũng đồng nghĩa với việc hàng hóa nội địa cạnh tranh kém trên thị trường, đặc biệt là tại các thị trường khó tính như EU, Hoa Kì, Nhật Bản. 3.2.2.2. Chịu ảnh hưởng trực tiếp rủi ro từ thị trường nông sản quốc tế Toàn cầu hóa làm cho thế giới “phẳng” hơn, chỉ cần một sự việc xảy ra ở bất cứ nơi nào sẽ lan truyền và tác động đến toàn bộ thế giới này. Kinh tế là một lĩnh vực dễ bị tác động nhất, nhất là sự biến động giá cả, tiền tệ, tài chính của thị trường. Riêng lĩnh vực nông nghiệp, hội nhập kinh tế quốc tế càng sâu rộng thì sự phụ thuộc vào biến động thị trường nông sản càng lớn. Đơn cử năm 2013, giá tôm trên thế giới giảm mạnh do sản lượng từ các nước Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia tăng cao, làm cho giá tôm nuôi của người dân Cần Giờ giảm 40% so với năm 2012. Nhiều nông dân thua lỗ, bỏ ao nuôi trong thời gian dài. Theo kết quả đánh giá từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP.HCM, người nuôi tôm Cần Giờ có đến 44,36% hộ nông dân chịu ảnh hưởng bởi giá bán sản phẩm và ảnh hưởng trung bình đến lợi nhuận giảm 20,68%, cao nhất là 60%. (USD) SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020) 104 3.2.2.3. Làm giảm diện tích đất nông nghiệp Quá trình hợp tác, giao lưu quốc tế thúc đẩy quá trình đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng như khu đô thị, hệ thống đường giao thông, khu công nghiệp qua đó gián tiếp làm thu hẹp và làm thay đổi cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp ở TP.HCM. Tuy nhiên, tác động gián tiếp của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng sẽ thúc đẩy việc sở hữu hợp lí đất nông nghiệp. Đến năm 2017, diện tích đất sản xuất nông nghiệp của thành phố là 57.047 ha, chiếm 54,7% diện tích đất nông nghiệp; so với năm 2005 thì diện tích này đã giảm đi hơn 20.000 ha. Diện tích đất lâm nghiệp là 36.276 ha, chiếm 34,79%; tăng 2,7 ha so với năm 2005. Diện tích đất nuôi trồng thủy sản là 9.473 ha, chiếm 9,08%; giảm 300 ha so với năm 2005. Diện tích đất làm muối là 1.000 ha, chiếm 0,96%; giảm 246 ha so với năm 2005 (Cục thống kê TP.HCM, 2018). 3.3. Một số giải pháp phát triển nông nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Để nông nghiệp ở TP.HCM phát triển nhanh và bền vững trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, theo tôi cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: 3.3.1. Giải pháp về quy hoạch vùng sản xuất và lựa chọn phát triển nông sản chủ lực Quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa là yêu cầu cấp thiết vì: (1) Quy mô sản xuất chủ yếu nhỏ lẻ, chất lượng không đồng đều, thị trường tiêu thụ chủ yếu tại địa phương, giá cả thấp không ổn định và khó cạnh tranh với các mặt hàng nhập khẩu. (2) Nông dân ở TP.HCM vẫn còn sản xuất theo phong trào và việc được mùa, mất giá vẫn diễn ra thường xuyên, ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất tại nông hộ. (3) Sản xuất không tập trung, đặc biệt là chăn nuôi gây khó khăn cho kiểm soát nguồn gốc và dịch bệnh, ảnh hưởng đến thương hiệu và giá trị sản xuất tại các nông hộ. Do đó, TP.HCM cần tập trung ra soát quy hoạch các vùng sản xuất hàng hóa tập trung phù hợp với tình hình mới, đặc biệt phù hợp với quy hoạch nông thôn mới. - Đồng thời, thành phố cần lựa chọn loại nông sản phù hợp với sản xuất nông nghiệp ở đô thị và đáp ứng yêu cầu của thị trường. Cụ thể cần tập trung vào sản xuất rau an toàn, hoa cây kiểng, chăn nuôi bò sữa, bò thịt, heo cao sản và nuôi trồng thủy sản. Đây là các cây trồng, vật nuôi lợi thế cạnh tranh trên thị trường và phù hợp với sản xuất nông nghiệp ở TP.HCM. 3.3.2. Giải pháp về đào tạo, nâng cao chất lượng lao động nông nghiệp Lực lượng lao động trong nông nghiệp ở TP.HCM có trình độ và kĩ năng cao hơn so với các tỉnh, thành khác trong cả nước. Tuy nhiên, với yêu cầu của nền nông nghiệp tại đô thị và hội nhập thì cần tập trung đào tạo, nâng cao về trình độ, kĩ năng và nghiệp vụ sản xuất nông nghiệp cho người nông dân. Thường xuyên mở các lớp tập huấn, chuyển giao khoa học công nghệ cho nông dân tại nông hộ, giúp họ chủ động trong sản xuất. Hỗ trợ nông dân sang nước ngoài như Israel, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan học tập kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp. Công tác đào tạo phải tập trung vào thái độ, nhận thức của lao động về những yêu cầu mới đối với nền sản xuất nông nghiệp hiện đại và hội nhập kinh tế thế giới. Giải pháp này được thực hiện tốt sẽ là đòn bẩy để phát triển nông nghiệp tại TP.HCM. 3.3.3. Giải pháp về nâng cao năng lực cạnh tranh nông sản TRẦN QUỐC VIỆT TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 105 + Tăng cường xúc tiến thương mại Nhà nước và các doanh nghiệp cần hỗ trợ nông hộ sản xuất nông nghiệp xúc tiến thương mại qua các hội nghị, hội thảo, hội chợ triển lãm, hội chợ tiêu dùng nông sản. Đồng thời, xây dựng thương hiệu nông sản cho các hộ dân có cùng sản xuất chung loại sản phẩm nông nghiệp; khuyến khích việc dán tem, nhãn, xây dựng thương hiệu và chỉ dẫn địa lí cho các mặc hàng chủ lực như rau an toàn, bò sữa, hoa cây kiểng. + Tăng cường đầu tư khoa học công nghệ Đầu tư có trọng điểm những mặt hàng nông sản có lợi thế cạnh tranh như rau an toàn, hoa cây kiểng, bò sữa. Tập trung giải quyết vấn đề tồn tại về kiểm dịch động thực vật, vệ sinh an toàn thực phẩm và tiêu chuẩn quy trình sản xuất sạch. Đồng thời, chuẩn hóa, luật hóa các quy trình sản xuất, áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế được thừa nhận để tạo nên nông sản có chất lượng, đủ sức cạnh tranh trên thị trường. + Tăng cường quản lý sản xuất Đối với mỗi nông hộ, để nâng cao năng lực cạnh tranh cần thực hiện tốt khâu quản lí sản xuất từ đầu vào đến đầu ra cho nông sản. Cần thực hiện ghi chép chi tiết quy trình sản xuất, tạo điều kiện cho quản lí nguồn giống, thức ăn, phân bón, chu kì sinh trưởng và khi bán ra thị trường có thể truy thu được nguồn gốc rõ ràng. 3.3.4. Giải pháp về tăng cường liên kết trong sản xuất nông nghiệp Để hội nhập sâu rộng, việc liên kết trong sản xuất nông nghiệp là yêu cầu tất yếu. Bên cạnh những hợp tác xã, tổ hợp tác trong sản xuất và tiêu thụ nông sản hiện tại, TP.HCM cần khuyết khích người dân tham gia vào các tổ chức liên kết này để đảm bảo quyền lợi về kinh tế và giảm rủi ro về giá cả trên thị trường. Đối với liên kết giữa nhà nông, nhà nước, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp, cần phân vai giữa ba nhà khoa học, doanh nghiệp và nông dân như ba đỉnh của tam giác đều, còn Nhà nước ở trọng tâm của tam giác với vai trò kiến tạo, tạo lập luật chơi, trọng tài và chế tài cho liên kết này. Đồng thời, trong liên kết sản xuất cần chú ý đến quy hoạch vùng về nguyên liệu, phương thức sản xuất, nhà máy chế biến, trung tâm nghiên cứu, trung tâm hỗ trợ nông dân, chính sách tín dụng và xúc tiến thương mại để phát huy tối đa thế mạnh liên kết sản xuất nông nghiệp ở TP.HCM. 3.3.5. Giải pháp về quản lý sản xuất và hỗ trợ vốn Thay đổi tư duy về quản lý và sản xuất nông nghiệp: Cơ chế thị trường sẽ đào thải những hoạt động sản xuất kém hiệu quả. Muốn tồn tại trong nền kinh tế thị trường thì Cơ quan Nhà nước phải thay đổi cơ chế quản lý phù hợp với sự phát triển thông qua sự điều chỉnh các chính sách, kế hoạch và mô hình quản lý; đồng thời bản thân người nông dân cũng phải thay đổi ý thức trong sản xuất nông nghiệp để những nông sản làm ra đáp ứng được yêu cầu thị trường. Hỗ trợ vốn cho nông dân và doanh nghiệp Nông dân muốn đẩy mạnh sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi và ứng dụng khoa học công nghệ đòi hỏi phải có nguồn vốn nhất định. Thành phố cần hỗ trợ vốn và ưu tiên lãi suất cho lĩnh vực này để nông dân và doanh nghiệp được tiếp cận người vốn đầu tư cho sản xuất. 4. Kết luận Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế nói chung và của nông nghiệp ở TP.HCM nói riêng. Nó mang lại những SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020) 106 thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp như giúp mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản, thu hút vốn đầu tư, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và gia tăng hiệu quả sản xuất. Tuy nhiên, hội nhập cũng kèm theo những tác động tiêu cực không nhỏ như gia tăng và chịu nhiều rủi ro do biến động thị trường, gia tăng sức cạnh tranh nông sản. Biết tận dụng cơ hội và hạn chế những thách thức là điều cần thiết để phát triển nông nghiệp ở TP.HCM nhanh và bền vững, đáp ứng yêu cầu của nền nông nghiệp đô thị hiện đại. Người sản xuất nông nghiệp, nhà nước và doanh nghiệp phải tăng cường liên kết, lựa chọn các nông sản chủ lực có lợi thế cạnh tranh, đào tạo và nâng cao chất lượng lao động trong nông nghiệp, thay đổi tư duy quản lý và tổ chức sản xuất để đáp ứng yêu cầu của nền nông nghiệp hiện đại và hội nhập kinh tế quốc tế. TÀI LIỆU THAM KHẢO Cục thống kê TP.HCM. (2018). Niên giám thống kê 2017. TP.HCM: NXB Thống kê. Vũ Văn Phúc. (2016). Hội nhập kinh tế quốc tế - 30 năm nhìn lại. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia sự thật. Phạm S. (2014). Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao là yêu cầu tất yếu để hội nhập quốc tế. Hà Nội: NXB Khoa học kĩ thuật. Đặng Kim Sơn. (2010). Đổi mới chính sách Nông nghiệp Việt Nam – Bối cảnh, nhu cầu và triển vọng. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia. United Nations. (2000). Economic Globalization: Trends, Risks and Risk Prevention. New York. Uỷ Ban Nhân Dân TP.HCM. (2016). Chương trình xúc tiến thương mại tiêu thụ nông, lâm và thủy sản trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2016 – 2020. TPHCM. Ngày nhận bài: 02/01/2020 Biên tập xong: 15/3/2020 Duyệt đăng: 20/3/2020

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftac_dong_cua_hoi_nhap_kinh_te_quoc_te_den_phat_trien_nong_ng.pdf