Tay Nguyen area (Highland) is considered to be the original water resource of most of the rivers flowing into the East
Sea in the coastal Middle area, South East (Vietnam) and area of two provinces named Rotanak Kiri and Mondul Kiri
(Cambodia). Due to favorable terrain, Highland posesses relatively abundant hydro-electric energy for Vietnamese
central region. Hydro-electric reservoirs have been contributing significantly to the sustainable development of socioeconomy and environment, security and national defense in the area. However, the considerable development of hydroelectric power in the Highland has been assessed in different perspectives in society. This article deeply analyses the
mpacts of hydro-electricity to water resource in the Highland and proposes solutions to the problems such as the
establishment of River Basin Commission and Review hydro-electric Planning to serve multiple purposes in the major
river systems in Tay Nguyen area.
6 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 610 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của phát triển thủy điện đến tài nguyên nước khu vực Tây Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
175
35(2), 175-180 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 6-2013
TÁC ĐỘNG CỦA PHÁT TRIỂN THỦY ĐIỆN ĐẾN
TÀI NGUYÊN NƯỚC KHU VỰC TÂY NGUYÊN
NGUYỄN LẬP DÂN1, NGÔ LÊ LONG2, NGÔ LÊ AN2,
DƯƠNG QUỐC HUY3, CHU BÁ THI4
E-mail: phongtnnm@gmail.com
1Viện Địa lý, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
2Trường Đại học Thủy lợi
3Viện Khoa học Thủy lợi
4Ngân hàng Thế giới
Ngày nhận bài: 5 - 4 - 2013
1. Mở đầu
Tây Nguyên là một vùng lãnh thổ gồm 5 tỉnh:
Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm
Đồng, với tổng diện tích tự nhiên là 54640,6 km2.
Tây Nguyên được coi là đầu nguồn của hầu hết các
sông chảy ra Biển Đông thuộc ven biển Miền
Trung, Đông Nam Bộ (Việt Nam) và hai tỉnh
Rotanak Kiri và Mondul Kiri (Campuchia) là Vu
Gia - Thu Bồn, Trà Khúc, Kone, Ba, Sê San,
Srêpôk, Sê Kông và Đồng Nai. Trong đó, 4 sông:
Đồng Nai, Srêpôk, Sêsan, Ba là các sông chính
thuộc khu vực Tây Nguyên. Các sông này đều là
sông liên quốc gia hoặc liên tỉnh. Do có địa hình
thuận lợi nên Tây Nguyên có nguồn năng lượng
thủy điện khá dồi dào, đứng thứ hai toàn quốc sau
lưu vực sông Hồng. Hơn nữa, nhiều sông Tây
Nguyên có sự chia sẻ nguồn nước cho các sông
khác qua các nhà máy thủy điện, vì thế, những tác
động bất lợi trên các sông Tây Nguyên đều có ảnh
hưởng đến chất lượng, số lượng và hiểm họa (nếu
có) đến hạ lưu các sông [2]. Trong khuôn khổ bài
báo này, các tác giả sẽ trình bày các tác động tích
cực và tiêu cực của việc phát triển thủy điện đến tài
nguyên nước khu vực Tây Nguyên. Đây là một
phần kết quả của đề tài “Nghiên cứu cơ sở khoa
học cho giải pháp tổng thể giải quyết các mâu
thuẫn lợi ích trong việc khai thác sử dụng tài
nguyên nước lãnh thổ Tây Nguyên”, mã số
TN3/T02, thuộc chương trình “Khoa học và công
nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội
Tây Nguyên, mã số TN3/11-15.
2. Khái quát tài nguyên nước vùng Tây Nguyên
2.1. Các đặc trưng hình thái của 4 sông thuộc
Tây Nguyên (hình 1)
2.1.1. Sông Sêsan
Bắt nguồn từ dãy núi Ngọc Linh chảy qua hầu
hết tỉnh Kon Tum, một phần lớn tỉnh Gia Lai rồi
chảy sang Campuchia thuộc tỉnh Rotana Kiri. Tổng
diện tích của lưu vực sông Sê San là 18.570 km2
trong đó phần lãnh thổ Việt Nam là 11.530 km2
chiếm 62,1%. Sông Sê San ở Việt Nam với chiều
dài là 252 km có nguồn chính là sông Krông Pôkô
và hai sông nhánh là Đắk Bla (diện tích F= 5350
km2, chiều dài lưu vực sông Ls = 152 km), sông Sa
Thầy (F = 1570 km2, Ls = 91 km).
2.1.2. Sông Srêpôk
Bắt nguồn từ Đắk Lắk, Việt Nam chảy qua lãnh
thổ Campuchia thuộc tỉnh Mondul Kiri. Tổng diện
tích toàn lưu vực là 30.100 km2, chiều dài toàn bộ
là 315 km. Diện tích lưu vực trên lãnh thổ Việt
Nam là 18.200 km2, chiếm 60,5%. Phía nam sông
Srêpôk do 2 nhánh Krông Knô và Krông Ana hợp
thành. Sông Krông Knô bắt nguồn từ dãy Chư
Yang Sin có đỉnh cao trên 2000 m (F = 3823km2,
Ls = 156km). Sông Krông Ana là hợp lưu của 3
sông nhánh KrôngBuk, Krông Pach và Krông
Bông (F = 3872 km2, Ls = 215km). Sông Krông
Knô và Krông Ana hợp lưu tại hạ lưu thác Buôn
Dray tạo thành dòng chính Srêpôk. Phía bắc sông
Srêpôk có 3 nhánh lớn là Ea Hleo, Ea Drăng và
Ea Hlốp.
176
Hình 1. Bản đồ mạng lưới sông suối vùng Tây Nguyên
(thu từ tỷ lệ 1:250.000)
2.1.3. Sông Ba
Bắt nguồn từ Krông Pông ở cao độ 1200m
thuộc dãy Ngọc Rô với đỉnh cao nhất là 1549m.
Diện tích lưu vực sông Ba tính đến trạm thủy văn
Củng Sơn là 12.800 km2 và 338 km tương
ứng. Lưu vực sông Ba có 7 sông nhánh có
F = 192km2 ~ 2950 km2 trong đó có 3 sông nhánh
lớn với F ≥ 1000 km2 là sông Ia Ayun, EaKrông
Nang thuộc khu vực Tây Nguyên.
Sông Ia Ayun: bắt nguồn từ vùng núi cao từ
1500 đến ~ 1700m, chảy theo hướng bắc - nam đến
Chư Sê, sau đó chuyển hướng TB-ĐN đến Cheo
Reo thì nhập vào bờ phải sông Ba.
Sông EaKrông Nang: bắt nguồn ở vùng núi cao
trên 1000m thuộc huyện Krông Hnăng của tỉnh
Đắk Lắk. Hướng chảy của sông gần như hình vòng
cung, đoạn đầu nguồn theo hướng bắc - nam, sau
đó chuyển sang hướng TB-ĐN rồi lại chảy ngược
lên gần như hướng nam - bắc để nhập vào sông Ba.
2.1.4. Sông Đồng Nai
Hệ thống sông Đồng Nai gồm dòng chính sông
Đồng Nai, và 4 sông nhánh lớn là sông Bé, sông
La Ngà, sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ. Sông
Đồng Nai, đoạn phía thượng lưu có tên là sông Đa
Nhim, bắt nguồn từ phía nam của núi Hon Giao
trên cao nguyên Lâm Viên chảy theo hướng nam
tây nam, tây và nam. Thượng lưu sông chảy trong
địa hình đồi núi hợp lưu với sông La Ngà tại đầu
nguồn vào hồ Trị An. Sông Đồng Nai tính đến đập
Trị An có diện tích lưu vực là 14800 km2 (bao gồm
cả lưu vực sông La Ngà), chiều dài là 480km.
2.2. Tài nguyên nước khu vực Tây Nguyên
Tổng lượng nước mặt các sông Tây Nguyên
vào khoảng 50,2 tỷ m3 (bảng 1); so với cả nước thì
lượng nước sản sinh ra trên 1 km2 lãnh thổ Tây
Nguyên thuộc loại trung bình.
Có thể chia lãnh thổ Tây Nguyên thành 3 vùng
nguồn nước với các mô đun dòng chảy năm (M0)
khác nhau:
- Vùng có M0 = 10 ~ 20 l/s.km2 : lưu vực sông
Ba, Krông Ana, EaSoup;
- Vùng có M0 = 25 ~ 30 l/s.km2: lưu vực sông
Se San, Krông Knô, Đồng Nai;
- Vùng có M0 > 35 l/s.km2: thượng nguồn sông
Plei Krong và Đắk Bla.
Bảng 1. Tổng lượng nước các lưu vực sông ở
Tây Nguyên [1]
TT Hệ thống sông Tổng lượng nước 109m3
1 Sông Srêpôk 14,5
2 Sông Sêsan 13,3
3 Sông Ba (Tây Nguyên) 7,6
4 Đồng Nai (Tây Nguyên) 9,3
5 Các sông nhỏ đầu nguồn (Thu Bồn,
Trà Khúc)
5,5
Tổng cộng 50,2
Sự khác biệt giữa các vùng nguồn nước này chủ
yếu là do mưa biến đổi theo từng vùng. Chế độ
mưa ở Tây Nguyên tăng dần từ vùng thấp lên vùng
cao. Do ảnh hưởng của địa hình, sự phân bố mưa
theo không gian khá phức tạp; các sườn núi có
hướng đón gió, lượng mưa tăng lên rõ rệt từ 1600
đến 2800mm (Bảo Lộc - Lâm Đồng, Gia Lai, Kon
Tum). Ngược lại, thung lũng khuất gió, lượng mưa
177
năm giảm đáng kể chỉ còn 1200 - 1400mm/năm
(sông Krông Buk - Đắk Lắk và Sông Ba - Phú Túc
- Cheo Reo ).
Tài nguyên nước dưới đất ở Tây Nguyên phong
phú hơn các tỉnh ven biển miền Trung. Lưu lượng
dòng ngầm của các thành tạo địa chất khác nhau
hình thành nên dòng chảy mùa kiệt trong giới hạn
các lưu vực sông thuộc Tây Nguyên tối thiểu là 15
× 106m3/ngày (5,56 tỷ m3/năm). Tiềm năng của
nước dưới đất trong giới hạn 4 lưu vực sông ở Tây
Nguyên bao gồm nguồn trữ lượng động và trữ
lượng tĩnh là 17.878.130,74m3/ngày (6,52 tỷ
m3/năm) [1].
3. Đánh giá tác động của phát triển thủy điện
đến tài nguyên nước khu vực Tây Nguyên
Việc xây dựng bất cứ một công trình nào đều
có tác động đến thiên nhiên không nhiều thì ít.
Trong trường hợp hồ chứa thủy điện, việc vận
hành, điều tiết phát điện sẽ làm thay đổi chế độ
dòng chảy tự nhiên. Sự thay đổi nhiều hay ít tùy
theo hồ chứa được vận hành như thế nào. Khi dòng
chảy tự nhiên của một con sông thay đổi thì hệ sinh
thái trong lưu vực con sông đó cũng bị ảnh hưởng
theo. Để có thể đánh giá đúng đắn tác động của thủy
điện cần phân tích đầy đủ, khoa học tất cả các yếu
tố, kể cả mặt tích cực cũng như tiêu cực, trong đó có
những vấn đề khó hoặc không thể định lượng được.
3.1. Tác động tích cực
Ngoài việc phát điện với tổng công suất lắp
máy là 6645MW (xấp xỉ 3 nhà máy thủy điện Sơn
La), các hồ chứa thủy điện vùng Tây Nguyên có
tác động điều hòa dòng chảy, giảm đỉnh lũ, tăng
cường dòng chảy mùa cạn. Với tổng dung tích các
hồ chứa đã, đang và sẽ xây dựng khoảng 16 tỷ m3,
các hồ chứa này góp phần bổ cập thêm lượng nước
ngầm. Bên cạnh đó các hồ chứa này còn tham gia
chuyển nước từ lưu vực có nhiều nước sang lưu
vực rất ít nước (nhu cầu dùng nước lớn) như thủy
điện Kanak - An Khê chuyển nước từ sông Ba sang
sông Kone (Bình Định); thủy điện Thượng Kon
Tum chuyển nước từ sông Đắk Bla (sông Sê San)
sang sông Trà Khúc; thủy điện Đa Nhim chuyển
nước từ sông Đồng Nai qua sông Cái Phan Rang
(Ninh Thuận) và thủy điện Đại Ninh chuyển nước
từ sông Đồng Nai qua sông Luỹ (Bình Thuận, vùng
khô hạn nhất cả nước).
3.2. Tác động tiêu cực
Bên cạnh những lợi ích không thể phủ nhận,
thủy điện cũng có nhiều bất lợi, ảnh hưởng xấu
đến tài nguyên nước, môi trường sinh thái, làm
giảm đa dạng sinh học và hiệu quả kinh tế đảo
ngược từ việc cải tạo môi trường tự nhiên.
3.2.1. Dòng sông bị chia cắt thành nhiều đoạn, chế
độ thủy văn bị thay đổi rõ rệt
- Trên sông Ba từ thượng nguồn đến thủy điện
sông Ba Hạ, chỉ kể trên dòng chính đã có 9 bậc
thang chia dòng sông thành 8 khúc.
- Trên sông Đắk Bla một nhánh của sông Sê
San từ Thượng Kon Tum đến thành phố Kon Tum
có ít nhất 13 nhà máy thủy điện (hồ và đập dâng).
- Trên dòng chính sông Đồng Nai từ đập Đơn
Dương đến đập Trị An gồm có 13 nhà máy thủy
điện đã, đang và sẽ xây dựng.
- Trên dòng chính sông Srêpôk hiện đã và đang
xây dựng 7 bậc thang nhà máy thủy điện.
Việc xuất hiện các bậc thang thủy điện đã làm
thay đổi chế độ thủy văn từ chế độ thủy văn sông
ngòi sang chế độ thủy văn hồ chứa. Dòng chảy trên
các đoạn sông không ổn định, thất thường ngay cả
trong mùa cạn. Thời gian tập trung dòng chảy ngắn
lại, thay đổi theo từng đoạn sông không có qui luật
rõ rệt.
3.2.2. Việc xây dựng các hồ chứa thủy điện đã làm
tăng tổn thất
Tăng bốc hơi mặt nước:
Lượng bốc hơi mặt nước tăng lên được tính
theo công thức:
ΔZ = Zn – Z0
Trong đó: ΔZ là lượng bốc hơi mặt nước tăng
thêm hàng năm (mm/năm);
Zn là lượng bốc hơi mặt nước năm trung bình
nhiều năm (mm/năm);
Z0 là lượng bốc thoát hơi nước mặt lưu vực
năm trung bình nhiều năm tính theo phương trình
cân bằng nước lưu vực kín.
Z0 = X0 – Y0
X0 là lượng mưa năm trung bình nhiều năm
(mm/năm);
Y0 là lớp dòng chảy mặt năm trung bình nhiều
năm bình quân lưu vực (mm/năm);
ΔZ ≈ 500 mm/năm theo giá trị tính toán của các
hồ chứa thủy điện đã và đang xây dựng trên cả 4
sông chính lớn nhất ở Tây Nguyên.
178
Tổng diện tích mặt nước của các hồ chứa đã,
đang và sẽ xây dựng trên cả 4 sông chính thuộc
khu vực Tây Nguyên ước tính khoảng 925 km2.
Như vậy tổng lượng tổn thất do bốc hơi mặt nước
tăng thêm là 925 × 0,5 × 106 = 462,5 triệu m3, bằng
dung tích một hồ chứa lớn.
Tăng lượng tổn thất do thấm ở dưới đáy các hồ
chứa do diện tích chu vi ướt tăng lên.
3.2.3. Tạo ra khúc sông “chết” ở đoạn hạ lưu đập
Nhiều công trình thủy điện, để tạo đầu nước
lớn, nâng cao hiệu quả phát điện đã dùng kênh dẫn
hay đường ống áp lực dẫn nước từ hồ chứa đến nhà
máy thủy điện, nên đoạn sông từ đập đến nhà máy
không có nước trở thành một đoạn sông chết có
chiều dài từ vài km đến hàng chục km ngay sau
tuyến đập chính. Ví dụ: sau thủy điện Đồng Nai 3,
đoạn sông dài 1000 m sau đập có lưu lượng Q ≈ 0,
không có nhập lưu nào đáng kể, thành đoạn sông
“khô” từ tháng XI đến tháng III. Thủy điện Srêpôk
4A đang xây dựng được hình thành bằng một kênh
dẫn dòng từ thủy điện Srêpôk 4 cắt thẳng đoạn
sông cong Bản Đôn 22 km. Đoạn sông cong này
chảy qua Vườn Quốc Gia York Don gây ảnh
hưởng tới khu du lịch sinh thái này.
Bên cạnh đó, nhiều công trình thủy điện điều
tiết ngày đêm tạo ra một số giờ tích, một số giờ xả
nước gây nên những thời đoạn sông khô nước
trong ngày, dòng chảy không lưu thông ảnh hưởng
đến hệ sinh thái thủy sinh, cuộc sống những người
sinh kế trên sông khó khăn.
- Thủy điện Đồng Nai 4 theo chế độ điều tiết
ngày đêm, tạo ra 12 giờ đóng cửa tích nước, hạ lưu
mất nước.
- Thủy điện Buônkuôp điều tiết ngày đêm gây
ảnh hưởng tới ba thác ở hạ lưu là thác Dray Sap
(thác Draynur); thác Gia Long (dữ dội và đẹp
nhất); thác Trinh Nữ.
- Thủy điện Srêpôk 3 + Drayling +Srêpôk 4 đều
là đập dâng điều tiết ngày đêm, chưa có hồ điều tiết
mùa ở cuối cửa sông.
- Thủy điện Sêsan III, Sêsan IIIA đều là điều
tiết ngày đêm gây ảnh hưởng đến dòng chảy đoạn
hạ lưu giữa hai trạm thủy điện.
3.2.4. Hồ chứa thủy điện đã xâm phạm đến diện
tích đất rừng của các vườn Quốc Gia và khu bảo
tồn thiên nhiên:
- Thủy điện KrongKma xâm phạm vườn Quốc
gia Chưyangsin.
- Thủy điện Srêpôk 3 và Srêpôk 4 xâm phạm
vườn Quốc Gia York Don.
- Thủy điện Buôn Kuôp xâm phạm khu bảo tồn
NamKar.
3.2.5. Ảnh hưởng đến các hoạt động ở hạ lưu
Trong quá trình vận hành, đặc biệt là mùa cạn,
để tăng cường lượng điện do chủ yếu chú ý đến sản
lượng điện, nhiều hồ chứa thủy điện tăng cường
việc tích nước để dự trữ phát điện, nên lượng nước
xả xuống hạ lưu không đáng kể, đôi khi ngừng
hoàn toàn. Từ đó, gây ảnh hưởng bất lợi đến việc
cung cấp nước cho các mục đích sử dụng khác ở hạ
du như cấp nước sinh hoạt, tưới tiêu, giao thông,
thủy sản,... đồng thời làm biến đổi chế độ dòng
chảy và suy thoái hệ sinh thái thủy sinh.
Các nhà máy thủy điện như An Khê - Kanak
chuyển nước từ sông Ba qua sông Kone, thủy điện
Đa Nhim và Đại Ninh chuyển nước từ sông Đồng
Nai sang sông Cái Phan Rang và sông Lũy,
Thượng Kon Tum chuyển nước từ sông Đắk Bla
(Kon Tum) sang sông Trà Khúc (Quảng Ngãi) chỉ
tính đến hiệu quả thủy điện, cấp nước song chưa
tính đến hệ lụy nước mặn xâm nhập sâu vào sông
Đà Rằng, sông Đồng Nai, hệ lụy gây ra đoạn sông
khô ở hạ lưu đập, gây ảnh hưởng tới môi trường,
sinh thái cũng như việc khai thác sử dụng nước.
Việc chuyển nước từ lưu vực này sang lưu vực
khác, nếu không có sự đồng thuận ngay từ đầu sẽ
gây ra những mâu thuẫn giữa các địa phương.
3.2.6. Gây xói lở bờ sông
Việc xây đập chặn dòng sẽ giữ lại trong hồ
chứa một lượng lớn phù sa. Dòng phù sa thay đổi
theo từng đoạn sông khiến nhiều bờ sông suy yếu
và sụt đáy sông do “hiệu ứng nước trong”. Mặt
khác, công tác vận hành tích - xả của các hồ chứa
đã làm cho mực nước hạ lưu dao động lớn gây mất
ổn định hai bở sông dẫn đến xói lở ở hạ lưu đập. Ví
dụ: hạ lưu đập Buôn Tua Srah xói lở kéo dài đến
30 km.
3.2.7. Giảm lượng nước ngầm cung cấp cho sông
về mùa cạn do việc phá rừng xây dựng hồ chứa
Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy, để tạo
1MW công suất thủy điện, phải mất đi từ 10 đến 30
ha rừng và để có 1,000 ha hồ chứa nước cũng cần
san phẳng, giải phóng từ 1000 đến 2000 ha đất ở
phía thượng nguồn. Với tổng diện tích mặt hồ 925
km2 (92500 ha) kèm theo diện tích mất đất rừng do
thi công lán trại, đường giao thông chiếm khoảng
179
20-30% nữa, nghĩa là xấp xỉ khoảng 120.000 ha
đất rừng bị phá. Cộng thêm lâm tặc và những
người vô ý thức có cơ hội phá rừng thì diện tích đất
rừng bị mất có thể tăng gấp 2 hay 3 lần.
Do rừng bị tàn phá, các yếu tố điều tiết dòng
chảy giảm, nước mưa chủ yếu thoát theo dòng chảy
gây ra xói mòn, lũ lụt, tăng lưu lượng dòng mặt.
Lượng nước thấm bổ sung cho nước dưới đất giảm
đi rất nhiều. Tài liệu quan trắc ở các lỗ khoan (LK)
một số khu vực rừng còn bảo tồn tốt không thấy
suy giảm mực nước hoặc suy giảm không đáng kể:
như vùng Bản Đôn - Ea Sup, mực nước trong các
lỗ khoan LK84T, LK83T Đắk Nông, LK102T Tân
Rai,... Nhánh dâng và nhánh hạ của đồ thị đường
mực nước đều thoải. Còn vùng Ea H’Leo thể hiện
rõ ảnh hưởng của sự tàn phá rừng, mực nước trong
các lỗ khoan LK29T, LK30T, LK69T suy giảm,
nhánh dâng của đồ thị đều hạ dốc.
3.2.8. Gây ra hiện tượng lũ chồng lên lũ (lũ
nhân tạo)
Nhiều trường hợp, trong khi ở hạ lưu đã xuất
hiện đỉnh lũ song ở thượng lưu để đảm bảo an toàn
cho công trình hồ chứa phải xả cấp tập gây nên
ngập lụt ở hạ du sâu hơn và thời gian ngập kéo dài
hơn bình thường.
3.2.9. Thay đổi xấu chất lượng nước
Việc xây dựng nhà thủy điện làm cho chất
lượng nước sông ở hạ lưu từ khi thi công đến khi
vận hành trong vài năm đầu bị xấu đi đáng kể do
quá trình phân huỷ thực vật trong lòng hồ. Việc
chặt bỏ và dọn dẹp thảm thực vật tại khu vực dự án
sẽ làm tăng lượng chất rửa trôi bề mặt, tăng độ đục,
các chất hữu cơ trong nước, gây nhiễm bẩn nguồn
nước. Hơn nữa, việc bùn cát bồi lắng trong lòng hồ
làm cho nước sông ở hạ lưu trở nên trong vừa gây
“hiệu ứng nước trong” làm xói lở hai bờ hạ lưu vừa
làm giảm lượng thức ăn cho thủy sinh vật, giảm
phù sa bồi đắp ruộng đồng.
3.2.10. Sự rủi ro do vỡ đập
Khu vực nghiên cứu có hàng trăm hồ chứa,
trong đó hầu hết là vừa và nhỏ, xác suất vỡ đập lớn
hơn rất nhiều so với hồ chứa lớn vì có tiêu chuẩn
an toàn cao hơn. Nếu có 1 đập bị vỡ sẽ gây ra tác
động vỡ dây truyền các đập khác trên cùng tuyến
sông gây ra hậu quả xấu. Hơn nữa, do tác động của
biến đổi khí hậu, việc xuất hiện lũ vượt lũ thiết kế
thậm chí vượt lũ kiểm tra không phải là sự kiện
quá hiếm. Ví dụ trận lũ 2009 xảy ra ở hồ thủy điện
Pleikrong (sông Krông Pôkô- Sê San) với lưu
lượng lớn nhất Qmax = 10.229 m3/s trong khi lũ
thiết kế công trình 1000 năm là 7063 m3/s và lũ
kiểm tra 5000 năm là 10.000 m3/s.
4. Kiến nghị một số giải pháp tổng thể giảm
thiểu các tác động bất lợi đến tài nguyên nước
do phát triển thủy điện
Tiến hành tổ chức thành lập Uỷ ban Lưu vực
sông. Tổ chức điều phối lưu vực sông thuộc Nghị
định 120/2008/NĐ-CP ngày 1/12/2008, về quản lý
lưu vực sông theo bốn dòng sông chính ở Tây
Nguyên, sớm hoàn thiện các văn bản Quy hoạch
lưu vực sông của các sông Srêpôk, Sê San, Đồng
Nai, Sông Ba;
Rà soát lại quy hoạch thủy điện phục vụ đa mục
tiêu trên các hệ thống sông chính thuộc Tây
Nguyên. Xây dựng qui chuẩn về ngưỡng khai thác
nước mặt nước ngầm, và dòng chảy tối thiểu ở hạ
lưu các công trình thủy điện. Xây dựng văn bản
hướng dẫn thiết kế thi công các công trình bổ cập
nước ngầm, thu gom nước mưa, bể chứa nước
mặt,... Quy định và kiểm soát chặt chẽ phân bón
hóa học, hóa chất bảo vệ thực vật đảm bảo dưới
mức cho phép.
Ban hành quy trình vận hành liên hồ chứa cả
năm hệ thống bậc thang thủy điện Sông Ba, Đồng
Nai, Sê San, Srêpôk. Ngoài hai nhiệm vụ bảo đảm
an toàn tuyệt đối cho công trình và cung cấp điện
lên lưới điện quốc gia phục vụ kinh tế xã hội, còn
có các nhiệm vụ:
- Góp phần cắt giảm nhẹ lũ cho hạ du:
+ Không cho phép lũ chồng lên lũ (gây ra lũ
nhân tạo).
+ Góp phần cắt giảm lũ cho hạ du với mức độ
cho phép.
- Đảm bảo cấp đủ dòng chảy tối thiểu cho các
đoạn sông hạ du ở phía Việt Nam và cả phía
Campuchia.
Hiện nay khu vực Tây Nguyên chỉ có 3 hệ
thống sông Ba, Sê San, Srêpôk mới được ban hành
qui trình vận hành liên hồ chứa mùa lũ.
Việc cấp giấy phép xây dựng và vận hành một
dự án thủy điện cần phải cân nhắc tính toán đến
các lợi ích khác, trong đó, đặc biệt lưu ý đến khả
năng điều tiết lũ (đối với hồ chứa lớn) cũng như
việc đảm bảo dòng chảy tối thiểu sau hạ lưu đập.
180
Đề nghị Chính phủ sớm qui định bắt buộc các hồ
chứa thủy điện có dung tích lớn từ 100 triệu m3 trở
lên đều phải dành một dung tích phòng lũ cho
hạ du.
Bổ sung thêm một số trạm khí tượng thủy văn
phục vụ dự báo vào mạng lưới quan trắc tài nguyên
và môi trường đến năm 2020 theo Quyết định số
16/2007/QĐ-TTg ngày 29/1/2007. Đồng thời, bổ
sung trang thiết bị hiện đại và nâng cao năng lực
dự báo phục vụ công tác vận hành hồ chứa một
cách hiệu quả.
5. Kết luận
Lượng dòng chảy hàng năm trên lãnh thổ Tây
Nguyên tương đối lớn, nhưng phân bố rất không
đồng đều theo không gian và thời gian. Việc hình
thành hệ thống bậc thang thủy điện trên các sông
chính của các hồ chứa thủy điện Tây Nguyên có
các tác động tích cực: phát điện với tổng công suất
lắp máy 6645MW, điều hòa dòng chảy, giảm đỉnh
lũ, tăng cường dòng chảy mùa cạn, tham gia
chuyển nước từ lưu vực có nhiều nước sang lưu
vực rất ít nước. Tuy vậy, bên cạnh những lợi ích
không thể phủ nhận, thủy điện cũng có nhiều tác
động tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến tài nguyên nước
như: làm cho dòng sông bị chia cắt thành nhiều
đoạn, chế độ thủy văn bị thay đổi, tạo ra khúc sông
chết ở hạ lưu đập. Hồ chứa thủy điện Tây Nguyên
đã xâm phạm đến diện tích đất rừng của các vườn
Quốc Gia Chưyangsin, York Don và khu bảo tồn
NamKar, gây ra xói lở bờ sông, ảnh hưởng đến các
hoạt động ở hạ lưu làm ảnh hưởng đến môi trường
sinh thái, thay đổi xấu chất lượng nước làm suy
giảm đa dạng sinh học và không mang lại hiệu quả
kinh tế, do phải đầu tư cao việc cải tạo môi trường
tự nhiên. Chính vì vậy, để khai thác và sử dụng tài
nguyên nước hiệu quả trên lãnh thổ Tây Nguyên,
đặc biệt trong thủy điện cần nghiên cứu đánh giá
và dự báo đầy đủ các tác động của các công trình
này tới tài nguyên nước, trong đó cần lưu ý xem
xét đến quyền ưu tiên giữa các hộ dùng nước nhằm
giải quyết tốt các mâu thuẫn phát sinh và hài hòa
lợi ích giữa các ngành. Điều này đòi hỏi có những
quy định pháp lý một cách chặt chẽ của cơ quan
quản lý Nhà nước cũng như có sự đầu tư kinh phí
một cách thỏa đáng trong việc nâng cao chất lượng
dự báo, quan trắc tài nguyên nước vùng
Tây Nguyên.
TÀI LIỆU DẪN
[1] Nguyễn Lập Dân, Vũ Thị Thu Lan, Phan
Thái Lê, Lê Minh Nguyệt, 2012: Nghiên cứu cơ sở
khoa học cho các giải pháp tổng thể giải quyết các
mâu thuẫn lợi ích trong việc khai thác sử dụng tài
nguyên nước phục vụ phát triển kinh tế - xã hội
lãnh thổ Tây Nguyên, Kỷ yếu Hội nghị khoa học
Địa lý toàn quốc lần thứ 6, NXB Khoa học Tự
nhiên và Công nghệ, tr.225-234.
[2] Ngô Đình Tuấn, 2000. Tài nguyên nước
Tây Nguyên và vấn đề khai thác sử dụng. Hội thảo
trao đổi thông tin da dạng sinh hoc vùng Tây
nguyên, Bộ KHCN & MT, Ba Vì ngày 29/02 -
01/03/2000.
SUMMARY
The impact of hydro-electric development to water resource in Tay Nguyen area
Tay Nguyen area (Highland) is considered to be the original water resource of most of the rivers flowing into the East
Sea in the coastal Middle area, South East (Vietnam) and area of two provinces named Rotanak Kiri and Mondul Kiri
(Cambodia). Due to favorable terrain, Highland posesses relatively abundant hydro-electric energy for Vietnamese
central region. Hydro-electric reservoirs have been contributing significantly to the sustainable development of socio-
economy and environment, security and national defense in the area. However, the considerable development of hydro-
electric power in the Highland has been assessed in different perspectives in society. This article deeply analyses the
impacts of hydro-electricity to water resource in the Highland and proposes solutions to the problems such as the
establishment of River Basin Commission and Review hydro-electric Planning to serve multiple purposes in the major
river systems in Tay Nguyen area.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3670_12549_1_pb_5407_2107962.pdf