Đối với dịch vụ chuyển tiền, cần thay đổi
thói quen sử dụng, trao đổi tiền mặt của mọi
người bằng cách phổ biến phương thức giao
dịch trực tuyến; mở thêm nhiều địa điểm có
thể hỗ trợ thông tin giúp người dân đăng
kí tài khoản ngân hàng, đặc biệt là những
khu vực nông thôn xa xôi, khó tiếp cận.
Khuyến khích người dân sử dụng tài khoản
để giao dịch bằng cách đưa ra những chính
sách hỗ trợ, khuyến mãi và đưa ra những
lợi ích, thuận lợi cho người dân trong việc
giao dịch bằng tài khoản để tăng tỷ lệ người
dân sử dụng tài khoản; lắp đặt thêm các cây
ATM để thuận tiện cho việc trao đổi. Đối
với dịch vụ thanh toán, Nhà nước cần tiếp
tục thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển của các trang web điện tử; có
những chính sách khuyến khích các dịch vụ
thanh toán qua thẻ đối với những cửa hàng,
nhà cung cấp dịch vụ để tăng tỷ lệ người
dân đăng ký tài khoản và sử dụng thẻ tín
dụng. Ngoài ra cần có những quy định cụ
thể, bắt buộc đối với việc thanh toán qua
ngân hàng với những giao dịch có giá trị
lớn. Đối với dịch vụ tiết kiệm, cần có những
chính sách ưu đãi, khuyến khích người dân
gửi tiết kiệm; đưa ra những chính sách bảo
mật, đảm bảo an toàn tiền gửi cho người
dân, hạn chế rủi ro gửi tiết kiệm. Đối với
dịch vụ tín dụng, đưa ra gói hỗ trợ vay đối
với các doanh nghiệp với mức lãi suất thấp;
có những chính sách hỗ trợ cho người dân
vay với mức lãi suất hợp lý,. Đối với dịch
vụ bảo hiểm, tuyên truyền, phổ cập, nâng
cao kiến thức về dịch vụ bảo hiểm để người
dân có cái nhìn đúng đắn, toàn diện về dịch
vụ này; khuyến khích người dân tham gia
các gói bảo hiểm đề phòng rủi ro, các gói
hỗ trợ đối với những người có hoàn cảnh
đặc biệt.
Nâng cao nhận thức cũng như kỹ năng tài
chính của người dân. Giáo dục tài chính
sẽ giúp nâng cao hiểu biết và kỹ năng tài
chính của người dân từ đó khuyến khích họ
sử dụng nhiều hơn các sản phẩm, dịch vụ
tài chính.
13 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 289 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của tài chính toàn diện và các nhân tố khác đến tăng trưởng kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 223- Tháng 12. 2020
Tác động của tài chính toàn diện và các nhân tố khác
đến tăng trưởng kinh tế
Trần Thị Thanh Hương
Khoa Kế toán- Kiểm toán, Học viện Ngân hàng
Nguyễn Thúy Quỳnh
Sinh viên Khoa Kế toán- Kiểm toán, Học viện
Ngân hàng
Nguyễn Việt Hoa
Sinh viên Khoa Kế toán- Kiểm toán, Học viện
Ngân hàng
Đoàn Đức Giang
Sinh viên Khoa Kế toán- Kiểm toán, Học viện
Ngân hàng
Ngày nhận: 01/08/2020
Ngày nhận bản sửa: 14/09/2020
Ngày duyệt đăng: 22/09/2020
Tài chính toàn diện là nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia. Tài chính toàn diện được phản ánh theo nhiều khía
cạnh khác nhau, do vậy để xây dựng chỉ số tài chính toàn diện, nhóm tác giả sử
The impact of financial inclusion and other factors on economic growth
Abstract: Financial inclusion is an important factor contributing to the economic growth and
development of each country. Financial inclusion is reflected in many different aspects, so to build
financial inclusion index the authors use the Principle Component analysis method (PCA). In this
section of the study, the authors use the Principle Component Analysis method (PCA) to construct
a financial inclusion index by two dimensions: usage and access. Next, the authors use panel data
regression with data sets of 97 countries for the period 2011-2017 to estimate the impact of the
financial inclusion index and other factors on economic growth. The results find out the financial
inclusion index has a positive effect on economic growth. The research results also show that the rate
of employees working, and the business freedom index has a positive impact on economic growth.
Keywords: Financial inclusion, economic growth, principle component analysis, panel data regression.
Huong Thi Thanh Tran
Email: huongttt76@hvnh.edu.vn
The Faculty of Accounting and Auditing, Banking Academy
Quynh Thuy Nguyen
Email: nguyenthuyquynh.hadu@gmail.com
Student, The Faculty of Accounting and Auditing
Hoa Viet Nguyen
Email: cumeo1499@gmail.com
Student, The Faculty of Accounting and Auditing
Giang Duc Doan
Email: doangiang2710@gmail.com
Student, The Faculty of Accounting and Auditing
Tác động của tài chính toàn diện và các nhân tố khác đến tăng trưởng kinh tế
2 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 223- Tháng 12. 2020
dụng phương pháp phân tích thành phần chính (PCA). Tiếp đến, nhóm tác giả sử
dụng phương pháp hồi quy dữ liệu mảng với bộ dữ liệu của 97 quốc gia giai đoạn
2011- 2017 để ước lượng tác động của tài chính toàn diện và các nhân tố khác đến
tăng trưởng kinh tế. Kết quả nghiên cứu tìm ra tài chính toàn diện có tác động tích
cực đến tăng trưởng kinh tế. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ lao động có
việc làm có, chỉ số tự do kinh doanh có tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế.
Từ khóa: Tài chính toàn diện, tăng trưởng kinh tế, phân tích thành phần chính, hồi
quy dữ liệu mảng.
1. Giới thiệu
Tài chính toàn diện là một nhân tố không
thể thiếu cho sự phát triển bền vững của
một quốc gia, góp phần thúc đẩy sự phát
triển của các ngành kinh tế và tổ chức tài
chính (Thai Ha Le và cộng sự, 2019). Tài
chính toàn diện được định nghĩa và đo
lường theo nhiều thang đo khác nhau. Theo
Rangarajan (2008) và Kochhar (2009), tài
chính toàn diện là quá trình đảm bảo quyền
tiếp cận các dịch vụ tài chính đầy đủ, kịp
thời cho các nhóm dễ bị tổn thương như
các nhóm có thu nhập thấp với chi phí phải
chăng nhưng phải công bằng và minh bạch.
Cull và cộng sự (2014) cho rằng tài chính
toàn diện có nghĩa là tất cả người trưởng
thành trong độ tuổi lao động đều có quyền
truy cập hiệu quả vào tín dụng, tiết kiệm,
thanh toán và bảo hiểm từ các nhà cung
cấp dịch vụ chính thức. Theo Ngân hàng
Thế giới (WB, 2018), “Tài chính toàn diện
là việc cung cấp dịch vụ tài chính phù hợp
và thuận tiện tới mọi cá nhân và tổ chức
với mức chi phí hợp lý, bao gồm: Chuyển
tiền, thanh toán, tiết kiệm, tín dụng và bảo
hiểm- được phân phối theo cách thức có
trách nhiệm và bền vững’.
Tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là
vấn đề được quan tâm hàng đầu của các
nhà hoạch định chính sách và các quốc
gia. Việc tìm ra các nhân tố tác động tới
tăng trưởng và phát triển kinh tế có ý nghĩa
thực tiễn cao. Tài chính toàn diện được
coi là một trong những trụ cột quan trọng
của tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo
bền vững, góp phần huy động và sử dụng
hiệu quả nguồn lực xã hội (Ellis, Alberto
và Juan-Pablo, 2010; Chandran, 2011;
Sarma và Pais, 2011; Sethi và Acharya,
2018). Theo Claessens và Perotti (2007),
khi khách hàng được tiếp cận các dịch vụ
nhận tiền gửi và bảo hiểm trên toàn thế giới
sẽ góp phần huy động được nguồn vốn cho
thị trường tài chính. Quá trình này cũng sẽ
làm gia tăng sản lượng sản xuất và số lượng
việc làm trong xã hội, góp phần cải thiện và
phân phối thu nhập, đặc biệt đối với những
người nghèo. Cámara và Tuesta (2014)
cũng đã đưa ra kết luận tài chính toàn diện
là một phần không thể thiếu trong việc phát
triển kinh tế, giảm đói nghèo.
Có thể thấy các nghiên cứu về tài chính
toàn diện trước đây đã đánh giá tác động
của một vài khía cạnh phản ánh tài chính
toàn diện đến tăng trưởng kinh tế của một
quốc gia hay một khu vực nhất định. Tuy
nhiên, tài chính toàn diện được đo lường
bởi nhiều khía cạnh khác nhau, mỗi một
khía cạnh lại được đo lường bằng nhiều
chỉ tiêu khác nhau. Do vậy, để đánh giá tác
động tổng hợp của tài chính toàn diện đến
tăng trưởng kinh tế cần thiết xây dựng một
chỉ số tổng hợp về tài chính toàn diện.
TRẦN THỊ THANH HƯƠNG - NGUYỄN THÚY QUỲNH - NGUYỄN VIỆT HOA - ĐOÀN ĐỨC GIANG
3Số 223- Tháng 12. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Mục tiêu nghiên cứu của bài
viết là đánh giá tác động của chỉ
số tài chính toàn diện đến tăng
trưởng kinh tế. Để xây dựng chỉ
số tài chính toàn diện, nghiên
cứu này sử dụng phương pháp
phân tích thành phần chính
(PCA) trên hai khía cạnh mức
độ tiếp cận và mức độ sử dụng
dịch vụ tài chính. Bên cạnh tài
chính toàn diện, nghiên cứu này
cũng xem xét tác động của các
nhân tố khác (nguồn nhân lực,
khoa học công nghệ, giáo dục
đào tạo, tự do kinh doanh)
đến tăng trưởng kinh tế.
2. Tổng quan nghiên cứu
Tài chính toàn diện là một trong
những chìa khóa quan trọng của
một quốc gia để đạt được sự
tăng trưởng toàn diện. Việc tăng
cường cơ hội tiếp cận các dịch
vụ tài chính chính thống như tín
dụng, tiết kiệm, bảo hiểm cũng
tạo điều kiện cho người dân, các
doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư
vào sản xuất và kinh doanh, làm
tăng năng suất lao động, quản
lý rủi ro tài chính tốt hơn và
đạt hiệu quả cao hơn (Dupas và
Robinson, 2013). Tài chính toàn
diện đã mở ra những cơ hội tiếp
cận các dịch vụ tài chính cho
người dân hơn bao giờ hết. Các
dịch vụ ngân hàng, tín dụng,
bảo hiểm, tiết kiệm an toàn
đang dần trở nên phổ biến với
mọi tầng lớp người dân. Sự gia
tăng trong số lượng hộ gia đình
cũng như các doanh nghiệp sử
dụng các dịch vụ ngân hàng đã
đem đến những đóng góp tích
cực cho tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Việc cung
cấp các dịch vụ tài chính với giá cả phải chăng làm gia
tăng thu nhập của nhóm người thu nhập thấp và dễ bị
tổn thương. Với các nhóm người thu nhập thấp, việc
áp dụng phí suất tín dụng thấp (low-cost credit) kích
thích người dân vay vốn và tự tổ chức các hoạt động
sản xuất tại địa phương, làm gia tăng sản xuất, tăng số
lượng việc làm Sethi và Acharya (2018).
Mối quan hệ giữa tài chính toàn diện với tăng trưởng
kinh tế đã được Mandira Sarma (2008) biểu hiện thông
qua sơ đồ sau:
Chỉ số phản ánh tài chính toàn diện được xây dựng theo
nhiều phương pháp khác nhau. Theo Sarma (2008) có
ba yếu tố cấu thành tài chính toàn diện của một quốc
Sơ đồ 1. Ảnh hưởng của tài chính toàn diện
đến tăng trưởng kinh tế
Nguồn: Mandira Sarma, 2008
Tác động của tài chính toàn diện và các nhân tố khác đến tăng trưởng kinh tế
4 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 223- Tháng 12. 2020
gia: sự thâm nhập (penetration), sự thuận
tiện (available) và mức độ sử dụng (usage).
Sự thâm nhập của hệ thống ngân hàng
(Banking penetration) cho biết mức độ tiếp
cận các dịch vụ tài chính của người dân, số
lượng người sử dụng các dịch vụ ngân hàng
càng nhiều thì khả năng tiếp cận tài chính
càng cao. Nếu mỗi người trong nền kinh tế
đều có tài khoản ngân hàng, thì thành phần
này sẽ có trọng số bằng 1. Tác giả sử dụng
dữ liệu “Bank Deposit Accounts” trong chỉ
số phát triển thế giới (WDI) của WB bao
gồm: tài khoản vãng lai, tiết kiệm và tài
khoản tiền gửi có kỳ hạn cho doanh nghiệp
và cá nhân tại 55 quốc gia. Sự thuận tiện
của các dịch vụ ngân hàng (Availability
of banking services) cho biết mức độ sẵn
có của hệ thống tài chính, được đo lường
dựa trên: số lượng ngân hàng/1.000 dân, số
ATM/1.000 người hoặc số nhân viên ngân
hàng trên mỗi khách hàng tại 100 quốc gia.
Mức độ sử dụng hệ thống ngân hàng được
đo lường thông qua hai chỉ tiêu: tỷ lệ tiền
gửi và cho vay của hệ thống ngân hàng/GDP
của 100 quốc gia dựa trên thống kê tài chính
quốc tế IMF. Amidžic và cộng sự (2014) đề
xuất sử dụng phương pháp phân tích nhân
tố (Factor Analysis- FA) để xác định chỉ số
tài chính toàn diện, được đánh giá trên hai
khía cạnh: tiếp cận (outreach) và sử dụng
(use) các dịch vụ tài chính. Có bốn chỉ số
được sử dụng trong nghiên cứu này: số
lượng ATM/1.000 km2, số chi nhánh của
các tổ chức (other depository corporations-
ODC1)/1.000 km2, số hộ gia đình gửi tiền
vào ODC/1.000 người trưởng thành và
số hộ gia đình vay từ ODC/1.000 người
trưởng thành.
1 ODC bao gồm NHTM, tổ chức tín dụng, hợp tác xã,
tổ chức tài chính vi mô (MFIs) và các tổ chức nhận
tiền gửi khác: hiệp hội tiết kiệm và cho vay, Hiệp hội
xây dựng (Building society), ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn, ngân hàng bưu điện, hệ thống tiết
kiệm bưu điện, ngân hàng tiết kiệm (saving banks), và
quỹ thị trường tiền tệ (Money market funds).
Camara và Tuesta (2014) sử dụng phương
pháp phân tích thành phần chính (PCA) với
ba khía cạnh: sử dụng (usage), những rào
cản (barriers) và mức độ tiếp cận (access).
Mức độ sử dụng dịch vụ tài chính được
đo lường thông qua ba chỉ tiêu: sử dụng ít
nhất một dịch vụ tài chính (account), gửi
tiết kiệm (savings) và vay vốn (loan) tại
một tổ chức tài chính chính thức. Những
rào cản gây khó khăn khi tiếp cận các hệ
thống tài chính được đánh giá qua các chỉ
tiêu: khoảng cách địa lý tới các hệ thống
cung cấp dịch vụ tài chính (distance), khả
năng chi trả (affordability), sự thiếu hụt các
tài liệu cần thiết (documents) và niềm tin
vào trung gian tài chính (trust). Mức độ tiếp
cận các hệ thống tài chính được đánh giá
bằng 4 chỉ tiêu: Tỷ lệ máy ATM/100.000
người trưởng thành, tỷ lệ chi nhánh ngân
hàng thương mại (NHTM)/100.000 người
trưởng thành, tỷ lệ máy ATM/1.000 km2 và
tỷ lệ chi nhánh NHTM/1.000 km2. Kết quả
nghiên cứu dựa trên số liệu từ 82 quốc gia
phát triển và kém phát triển trong năm 2011
cho thấy tài chính toàn diện có tác động tích
cực tới thu nhập bình quân đầu người và là
một phần không thể thiếu trong việc giảm
đói nghèo. Kết quả này càng ủng hộ cho lý
thuyết về mối liên kết giữa tài chính toàn
diện với tăng trưởng kinh tế. Lê Thái Hà và
cộng sự (2019) cũng sử dụng phương pháp
PCA để xây dựng chỉ số toàn diện thông
qua các chỉ tiêu: Tỷ lệ máy rút tiền tự động
ATM/100.000 người trưởng thành, tỷ lệ chi
nhánh NHTM/100.000 người trưởng thành,
tỷ lệ tiền gửi chưa thanh toán (Outstanding
deposits)/GDP tại NHTM, tỷ lệ dư nợ cho
vay (Outstanding loans)/GDP tại NHTM.
Kết quả nghiên cứu tại 31 quốc gia Châu
Á trong khoảng thời gian 2004- 2016 cho
thấy có một mối quan hệ mật thiết giữa tài
chính toàn diện và mức độ bền vững của
tài chính.
TRẦN THỊ THANH HƯƠNG - NGUYỄN THÚY QUỲNH - NGUYỄN VIỆT HOA - ĐOÀN ĐỨC GIANG
5Số 223- Tháng 12. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Olaniyi Evan (2017) sử dụng phương pháp
Bayesian VAR với bộ số liệu của 15 quốc
gia Châu phi giai đoạn 2005- 2014 để lượng
hóa tác động của tài chính toàn diện tới tăng
trưởng GDP bình quân đầu người. Trong
nghiên cứu này, để đại diện cho tài chính
toàn diện tác giả sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ người
gửi tiền tại các NHTM/1.000 người trưởng
thành. Kết quả nghiên cứu cho thấy tài
chính toàn diện có tác động tích cực tới tăng
trưởng GDP bình quân đầu người. Để đánh
giá tác động của tài chính toàn diện đến tăng
trưởng kinh tế, Sethi và Acharya (2018) sử
dụng mô hình hồi quy dữ liệu mảng với
bộ số liệu của 31 quốc gia giai đoạn 2004-
2010. Trong nghiên cứu này, dữ liệu về tài
chính toàn diện được xây dựng từ các chỉ số
như sự thâm nhập của ngân hàng, tính sẵn có
của các chi nhánh ngân hàng, tín dụng cho
khu vực tư nhân và tiền gửi huy động từ khu
vực tư nhân. Kết quả nghiên cứu cho thấy
có một mối quan hệ tích cực và lâu dài giữa
tài chính toàn diện và tăng trưởng GDP bình
quân đầu người, tài chính toàn diện là một
trong những động lực chính của tăng trưởng
kinh tế.
Như vậy đã có nhiều nghiên cứu chỉ ra tài
chính toàn diện có tác động tích cực đến
tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Bên
cạnh tài chính toàn diện, cũng có nhiều
nghiên cứu cho thấy tăng trưởng kinh tế
còn chịu ảnh hưởng bởi một số nhân tố như
giáo dục, lao động, khoa học công nghệ,
độ mở của nền kinh tế... Kpodar, K., and
Andrianaivo, M. (2011) sử dụng phương
pháp GMM để nghiên cứu tác động của
công nghệ thông tin và truyền thông (ICT)
đến tăng trưởng kinh tế ở một số nước
Châu Phi giai đoạn 1988- 2007. Ngoài ra,
tác giả cũng xem xét tài chính toàn diện có
phải là một trong những kênh thông qua đó
phát triển điện thoại di động ảnh hưởng đến
tăng trưởng kinh tế. Trong nghiên cứu này,
để phản ánh tài chính toàn diện nhóm tác
giả sử dụng chỉ tiêu số lượng tiền gửi hoặc
khoản vay trên đầu người. Kết quả nghiên
cứu chỉ ra ICT đóng góp đáng kể vào
tăng trưởng kinh tế ở các nước châu Phi.
Khattak, Naeem Ur Rehman and Khan,
Jangraiz (2013) sử dụng phương pháp bình
phương nhỏ nhất (OLS) để đánh giá đóng
góp của giáo dục vào tăng trưởng kinh tế
của Pakistan trong giai đoạn 1971- 2008.
Kết quả nghiên cứu cho thấy giáo dục có
ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh
tế. Các tác giả cũng đưa ra đề xuất giáo dục
là ưu tiên hàng đầu trong các chính sách
công, cần có sự nỗ lực nghiêm túc để cải
thiện giáo dục tiểu học và không khuyến
khích tỷ lệ bỏ học ở tất cả các cấp học để
đạt được tăng trưởng kinh tế bền vững.
Phạm Đình Long, Lương Thị Mai Nhân
(2018) cũng chỉ ra giáo dục có tác động tích
cực đến tăng trưởng kinh tế của các tỉnh
thành miền Trung Việt Nam. Cao Thị Ánh
Tuyết (2018) sử dụng phương pháp hồi quy
dữ liệu mảng, phương pháp bình phương
tổng quát tối thiểu xem xét tác động của độ
mở thương mại, đội ngũ lao động và các
nhân tố khác đến tăng trưởng kinh tế của17
quốc gia đang phát triển (trong đó có Việt
Nam) trong giai đoạn 1995- 2017. Kết quả
nghiên cứu cho thấy đội ngũ lao động có
tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, độ mở thương mại đóng vai trò
mờ nhạt trong việc phát triển kinh tế tại các
quốc gia này.
3. Mô hình nghiên cứu và nguồn dữ liệu
3.1. Mô hình nghiên cứu
Để đánh giá tác động của tài chính toàn diện
và các nhân tố khác đến tăng trưởng kinh tế,
trên cơ sở kế thừa kết quả của các nghiên
cứu trước (Robert J. Barro and Jong-Wha
Lee, 1994; Kpodar, K., and Andrianaivo,
Tác động của tài chính toàn diện và các nhân tố khác đến tăng trưởng kinh tế
6 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 223- Tháng 12. 2020
M., 2011; Olaniyi Evans, 2017; Sethi
và Acharya, 2018; Cao Thị Ánh Tuyết,
2018), nhóm tác giả xây dựng mô hình
hồi quy dữ liệu mảng:
GDPPCit = α0 + α1tFt + α2EPRt + α3IUIt +
α
4
MYSt + α5B't + α6OPENt + ct + ut
trong đó: i là quốc gia, t là năm; α là hệ số
hồi quy; ci: là đặc trưng riêng theo không
gian; uit: là sai số ngẫu nhiên; GDPPC
là GDP bình quân đầu người; FI chỉ số
tài chính toàn diện; EPR là tỷ lệ việc làm
trên dân số; IUI là tỷ lệ người dân sử dụng
internet trong tổng dân số; MYS là số năm
đi học trung bình của một người dân; BF là
chỉ số tự do kinh doanh; OPEN là độ mở
của nền kinh tế.
Do tài chính toàn diện được đo lường bởi
nhiều khía cạnh khác nhau và mỗi một khía
cạnh lại được đo lường bởi nhiều chỉ tiêu
khác nhau nên trên cơ sở tài liệu hiện có,
nghiên cứu này tiến hành xây dựng chỉ
số tài chính toàn diện trên hai khía cạnh:
mức độ tiếp cận và mức độ sử dụng. Mức
độ tiếp cận tài chính toàn diện được thể
hiện thông qua 2 chỉ tiêu ATM (số lượng
ATM/100.000 người trưởng thành), BRAN
(số lượng chi nhánh NHTM/100.000 người
trưởng thành) (Camara và Tuesta,2014;
Amidžic, 2014; Le và cộng sự, 2019); Mức
độ sử dụng được xây dựng thông qua 6 chỉ
tiêu: FIA (tỷ lệ người dân từ 15 tuổi trở lên
có tài khoản), SFI (tỷ lệ người dân từ 15
tuổi trở lên có gửi tiết kiệm tại một tổ chức
tài chính), BFI (tỷ lệ người dân từ 15 tuổi
trở lên có vay từ một tổ chức tài chính),
BFF (tỷ lệ người dân từ 15 tuổi trở lên có
vay gia đình, bạn bè), DCO (tỷ lệ người
dân từ 15 tuổi trở lên có thẻ ghi nợ), CCO
(tỷ lệ người dân từ 15 tuổi trở lên có thẻ tín
dụng) (Camara và Tuesta, 2014; Demirguc-
Kunt và Klapper, 2012; Anand S. Kodan và
Kuldip S. Chhilara, 2013).
Để tạo ra một chỉ số tổng hợp của tài chính
toàn diện, tác giả sử dụng phương pháp
phân tích thành phần chính (PCA). PCA
được sử dụng rộng rãi để phân tích dữ liệu
giải thích. Tuy nhiên, PCA chưa được sử
dụng nhiều trong xây dựng chỉ số tài chính
toàn diện. Hiện tại, có một vài nghiên cứu sử
dụng PCA để xây dựng chỉ số tài chính tổng
hợp (Camara và Tuesta, 2014; Le, 2019).
Để thực hiện phân tích thành phần chính
cần thực hiện hai kiểm định của Bartlett
và Kaiser - Meyer - Olkin (KMO). Kiểm
định Bartlett kiểm tra xem ma trận tương
quan được sử dụng trong PCA có phải là
ma trận nhận dạng hay không (kiểm định
Barlett có p - value < 0,05 thì sử dụng phân
tích nhân tố là phù hợp (Hair, Black, Babin,
Anderson, and Tatham, 2006; Tabachnick,
Fidell, and Ullman, 2007). Kiểm định
KMO được thực hiện để đo lường mức độ
phù hợp lấy mẫu. Chỉ số KMO nằm trong
khoảng từ 0 đến 1 và lớn hơn 0,5 thì sử
dụng phân tích nhân tố là phù hợp (Hair et
al., 2006; Tabachnick et al., 2007).
Để đánh giá tác động của tài chính toàn diện
và các nhân tố đến tăng trưởng kinh tế, trong
điều kiện số liệu hiện có, nhóm tác giả sử
dụng mô hình hồi quy dữ liệu mảng. Tùy
thuộc vào đặc điểm dữ liệu có thể lựa chọn
một trong ba mô hình: mô hình OLS gộp
(Pooled OLS), mô hình tác động ngẫu nhiên
(Random effect model- REM), mô hình tác
động cố định (Fixed Effect model- FEM).
Để lựa chọn mô hình phù hợp nhất cần thực
hiện một số kiểm định sau:
- Kiểm định Breusch - Pagan để lựa chọn
giữa mô hình dạng POLS với các mô hình
FEM và REM. Cặp giả thuyết cho nền tảng
kiểm định là:
TRẦN THỊ THANH HƯƠNG - NGUYỄN THÚY QUỲNH - NGUYỄN VIỆT HOA - ĐOÀN ĐỨC GIANG
7Số 223- Tháng 12. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
H
0
: Không tồn tại tác động ngẫu nhiên (ci
không biến đổi giữa các tỉnh, hay mô hình
POLS là phù hợp).
H
1
: Tồn tại tác động ngẫu nhiên (ci có sự
khác biệt giữa các tỉnh, hay mô hình POLS
không phù hợp).
Nếu P_Value của kiểm định χ2 < 0,05, bác
bỏ giả thuyết H
0
, nghĩa là mô hình tồn tại
Bảng 1. Xác định và đo lường các biến
Nhân tố Biến Đo lường Đơn vị tính Nguồn tham khảo
Tài chính
toàn diện
FIA Tỷ lệ người dân từ 15 tuổi trở lên có tài khoản. %
Camara và Tuesta, 2014,
Demirguc-Kunt và Klapper
(2012)
SFI
Tỷ lệ người dân từ 15 tuổi
trở lên có gửi tiết kiệm tại
một tổ chức tài chính.
%
Camara và Tuesta, 2014,
Demirguc-Kunt và Klapper
(2012)
BFI
Tỷ lệ người dân từ 15 tuổi
trở lên có vay từ một tổ
chức tài chính.
%
Camara và Tuesta, 2014,
Demirguc-Kunt và Klapper
(2012)
BFF
Tỷ lệ người dân từ 15 tuổi
trở lên có vay gia đình, bạn
bè
%
Camara và Tuesta, 2014;
Demirguc-Kunt và Klapper
(2012)
DCO Tỷ lệ người dân từ 15 tuổi trở lên có thẻ ghi nợ. %
Demirguc-Kunt và Klapper
(2012).
CCO Tỷ lệ người dân từ 15 tuổi trở lên có thẻ tín dụng %
Demirguc-Kunt và Klapper
(2012).
ATM ATM/100.000 người trưởng thành
Số ATM/
100.000 người
trưởng thành
Sarma (2008), Camara và
Tuesta (2014), Amidžic
(2014), Le và cộng sự
(2019).
BRAN Chi nhánh NHTM/ 100.000 người trưởng thành
Số chi nhánh
NHTM/
100.000 người
trưởng thành
Sarma (2008), Camara và
Tuesta (2014), Amidžic
(2014), Le và cộng sự
(2019).
Tăng
trưởng
kinh tế
GDPPC GDP bình quân đầu người tính theo giá so sánh 2011 USD/người
Olaniyi Evans và Raymond
Alenoghena (2017), Sethi
và Acharya (2018)
Giáo dục MYS Số năm đi học bình quân năm
Robert J. Barro and Jong-
Wha Lee (1994), Khattak,
Naeem Ur Rehman and
khan, jangraiz (2013).
Lao động EPR Tỷ lệ lao động có việc làm % Cao Thị Ánh Tuyết (2018)
Khoa
học công
nghệ
IUI Tỷ lệ người dân sử dụng Internet trong tổng dân số %
Kpodar, K., and
Andrianaivo, M. (2011)
Độ mở
của nền
kinh tế
BF Chỉ số tự do kinh doanh % Kabakova, O., and Plaksenkov, E. (2018)
OPEN Độ mở của nền kinh tế % Cao Thị Ánh Tuyết (2018)
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Tác động của tài chính toàn diện và các nhân tố khác đến tăng trưởng kinh tế
8 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 223- Tháng 12. 2020
tác động ngẫu nhiên, khi đó không nên sử
dụng mô hình POLS mà nên dùng mô hình
dạng tác động ngẫu nhiên.
- Kiểm định Hausman để lựa chọn giữa mô
hình FEM và REM
Cặp giả thuyết cho nền tảng kiểm định là:
H
0
: Giữa ci và các biến độc lập không có
tương quan (hay mô hình REM phù hợp).
H
1
: Giữa ci và các biến độc lập có tương
quan (hay mô hình FEM phù hợp).
3.2. Nguồn số liệu
Số liệu phản ánh tài chính toàn diện thu
thập từ Global Findex database. Số liệu
phản ánh GDP bình quân đầu người được
thu thập từ World Bank (2019a), World
Development Indicators database. Số liệu
phản ánh lao động được thu thập từ ILO
(2019), ILOSTAT database và World
development indicators, World Bank. Số
liệu phản ánh giáo dục được thu thập từ
UNESCO Institute for Statistics (2019) và
Barro and Lee (2018). Số liệu phản ánh
khoa học công nghệ, tự do thương mại được
thu thập từ World Development Indicators
(WDI), World Bank.
Dữ liệu đánh giá tác động của tài chính
toàn diện và các nhân tố được thu thập từ
97 quốc gia giai đoạn 2011- 2017.
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
4.1. Kết quả nghiên cứu
Thống kê mô tả các biến sử dụng trong mô
hình nghiên cứu được thể hiện ở Bảng 2.
Kết quả Bảng 3 cho thấy hệ số KMO =
Bảng 2. Thống kê mô tả các biến số đưa vào mô hình
Biến Số quan sát Trung bình Độ lệch chuẩn Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất
FIA 663 62,006 29,755 3,757 100,000
BFI 663 12,644 6,733 1,498 40,513
BFF 663 21,321 12,578 3,282 71,200
DCO 663 46,474 29,816 0,075 98,800
CCO 663 23,618 21,408 0,126 82,600
ATM 642 62,138 47,335 0,317 288,632
BRAN 652 20,5183 15,196 0,454 88,217
SFI 663 25,833 19,778 0,690 79,300
GDPPC 679 18858,83 21244,501 369,200 110162,100
FI 617 -1,62e-08 1 -1,640 3,451
EPR 679 55,855 10,230 33,34 83,800
BF 677 70,314 15,962 0,000 100,000
IUI 678 56,785 25,173 1,100 98,140
MYS 672 9,772 2,730 1,400 14,100
OPEN 662 94,148 68,996 20,700 442,600
Nguồn: Xử lý của tác giả bằng phần mềm SPSS 20
TRẦN THỊ THANH HƯƠNG - NGUYỄN THÚY QUỲNH - NGUYỄN VIỆT HOA - ĐOÀN ĐỨC GIANG
9Số 223- Tháng 12. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
0,866 nằm trong khoảng 0,5 < KMO < 1;
kiểm định Bartlett có giá trị P-value= 0,000
< 0,05, như vậy các chỉ tiêu được lựa chọn
để xây dựng chỉ số phản ánh tài chính toàn
diện là hoàn toàn phù hợp và có thể sử dụng
trong nghiên cứu này.
Số liệu Bảng 4 cho thấy PCA tạo ra được
hai nhân tố đại diện cho chỉ số tài chính toàn
diện, hai nhân tố này giải thích 70,687%
tổng phương sai của chỉ số tài chính toàn
diện. Theo Radovanovi c. Filipovi c. and
Golusin (2018), thành phần chính đầu tiên
được sử dụng để đại diện cho chỉ số tài
chính toàn diện trong mô hình nghiên cứu
vì nó đại diện tốt nhất cho giá trị của các
biến đầu vào được chọn. Do đó, để đánh
giá tác động của tài chính toàn diện đến
tăng trưởng kinh tế, nhóm tác giả lựa chọn
nhân tố đầu tiên.
Để kiểm định lựa chọn mô hình dữ liệu
mảng phù hợp, nhóm tác giả sử dụng hai
kiểm định Breusch-Pagan và Hausman.
Kết quả kiểm định Breusch-Pagan (Bảng 5)
cho thấy p-value rất nhỏ (P = 0,0000), bác
bỏ H
0
, tức là mô hình POLS là không phù
hợp. Điều này có nghĩa mô hình tồn tại ci
hay có sự khác biệt về ci giữa các quốc gia.
Kết quả kiểm định Hausman (Bảng 5) cho
P-value = 0,0000 < 0,05 cho thấy giữa ci và
các biến độc lập có tương quan. Vì vậy, để
đánh giá tác động của tài chính toàn diện và
các nhân tố khác đến GDP bình quân đầu
người sử dụng mô hình FEM là phù hợp.
Sau khi xác định mô hình FEM là phù hợp,
nhóm tác giả tiếp tục sử dụng các kiểm
định Wald và Wooldridge để kiểm tra xem
mô hình có tồn tại khuyết tật nào không.
Kết quả kiểm định Wald cho (Bảng 5) cho
P-value khá nhỏ (P= 0,0000< 0,05), như
vậy mô hình có tồn tại hiện tượng phương
sai sai số thay đổi. Kết quả kiểm định
Wooldridge (Bảng 5), có P-value rất nhỏ
Bảng 3. Kiểm định sự phù hợp của phân
tích thành phần chính
Kiểm định KMO và Bartlett’s
Hệ số Kaiser-Meyer-Olkin 0,866
Kiểm định
Bartlett
Hệ số Chi2 3436,515
Bậc tự do 28
P-value 0,000
Nguồn: Xử lý của tác giả bằng phần mềm SPSS 20
Bảng 4. Tổng phương sai được giải thích
Com-
po-
nent
Initial Eigenvalues Extraction Sums of Squared Loadings
Rotation Sums of Squared
Loadings
Total % of Variance
Cumulative
% Total
% of
Variance
Cumulative
% Total
% of
Variance
Cumulative
%
1 4,641 58,018 58,018 4,641 58,018 58,018 3,422 42,770 42,770
2 1,013 12,668 70,687 1,013 12,668 70,687 2,233 27,917 70,687
3 0,756 9,456 80,143
4 0,598 7,475 87,618
5 0,481 6,012 93,630
6 0,268 3,350 96,980
7 0,156 1,952 98,932
8 0,085 1,068 100,000
Nguồn: Xử lý của tác giả bằng phần mềm SPSS 20
Tác động của tài chính toàn diện và các nhân tố khác đến tăng trưởng kinh tế
10 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 223- Tháng 12. 2020
(P_Value = 0,0000), cho thấy mô hình có
tồn tại hiện tượng tự tương quan giữa các
sai số ngẫu nhiên.
Để khắc phục các khuyết tật trên của mô
hình, nhóm tác giả lựa chọn mô hình hồi
quy dữ liệu mảng với sai số chuẩn Robust.
Áp dụng mô hình hồi quy FEM với sai số
chuẩn Robust cho kết quả ở Bảng 6.
Kết quả ước lượng Bảng 6 cho thấy tài
chính toàn diện (FI), tỷ lệ lao động có việc
làm (EPR) tác động đến GDP bình quân
đầu người (GDPPC) với mức ý nghĩa 5%;
Chỉ số tự do kinh doanh (BF) tác động đến
tăng trưởng GDP bình quân đầu người
(GDPPC) với mức ý nghĩa 10%. Với bộ
số liệu hiện có, chưa có bằng chứng cho
thấy tác động của tỷ lệ người dân sử dụng
internet trong tổng dân số (IUI), độ mở của
nền kinh tế (OPEN) và số năm đi học bình
quân (MYS) tác động đến GDP bình quân
đầu người (GDPPC).
4.2. Thảo luận
Kết quả ước lượng đã cung cấp thêm bằng
chứng chứng minh tài chính toàn diện, lao
động việc làm, có tác động tích cực đến
tăng trưởng kinh tế. Kết quả nghiên cứu
này cũng đồng nhất với kết quả nghiên cứu
trước đó của Olaniyi Evan (2017), Sethi
và Acharya (2018), Cao Thị Ánh Tuyết
(2018),
Tài chính toàn diện được coi là có vị trí rất
quan trọng đối với sự phát triển bền vững
của một quốc gia, là trụ cột quan trọng của
tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo bền
vững, góp phần huy động và sử dụng hiệu
quả nguồn lực xã hội.
Tài chính toàn diện có thể tạo ra những tác
động tích cực như: gia tăng tiết kiệm và đầu
tư làm tăng dòng tiền trong nền kinh tế, qua
đó, thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế.
Tiếp cận dịch vụ ngân hàng giúp các cá
nhân và doanh nghiệp tìm được nguồn lực
để đáp ứng những nhu cầu như vay vốn cho
các cơ hội kinh doanh, thúc đẩy phát triển
kinh tế
Song song với thúc đẩy tài chính toàn diện,
vấn đề tạo việc làm cho người lao động,
đặc biệt trong giai đoạn dịch bệnh Covid 19
đang lan rộng ở hầu khắp các quốc gia trên
thế giới là một nhân tố quan trọng để thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế của các quốc gia.
Bên cạnh đó, việc tạo ra một môi trường
kinh doanh năng động; xúc tiến hoạt động
của các ngành dịch vụ; xúc tiến thương
mại, xúc tiến đầu tư, nâng cao năng lực và
hiệu quả tiếp thị những nhu cầu dịch vụ từ
nước ngoài cũng góp phần không nhỏ vào
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
5. Kết luận và khuyến nghị
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra tài chính toàn
diện, lao động việc làm có tác động tích
cực tới tăng trưởng GDP bình quân đầu
người. Kết quả nghiên cứu cung cấp thêm
Bảng 5. Kết quả kiểm định
lựa chọn mô hình
Kiểm định Breusch and Pagan
Chi2(01)
Prob>Chi2
1141.21
0,000
Hausman test
Chi2
Prob>Chi2
144,68
0,000
Kiểm định Wooldridge
F (1, 90)
Prob>F
456,944
0,000
Kiểm định Modified Wald
Chi2
Prob>Chi2
2,7e+05
0,000
Nguồn: Xử lý của tác giả bằng
phần mềm STATA 14
TRẦN THỊ THANH HƯƠNG - NGUYỄN THÚY QUỲNH - NGUYỄN VIỆT HOA - ĐOÀN ĐỨC GIANG
11Số 223- Tháng 12. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
bằng chứng về việc tăng cường phát triển
tài chính toàn diện (trên hai khía cạnh: tăng
cường mức độ tiếp cận và mức độ sử dụng
dịch vụ tài chính) sẽ thúc đẩy phát triển
kinh tế của các quốc gia. Để thúc đẩy phát
triển tài chính toàn diện, các quốc gia cần
tiếp tục chú trọng phát triển một số dịch
vụ tài chính cơ bản như: chuyển tiền, thanh
toán, tiết kiệm, tín dụng và bảo hiểm.
Đối với dịch vụ chuyển tiền, cần thay đổi
thói quen sử dụng, trao đổi tiền mặt của mọi
người bằng cách phổ biến phương thức giao
dịch trực tuyến; mở thêm nhiều địa điểm có
thể hỗ trợ thông tin giúp người dân đăng
kí tài khoản ngân hàng, đặc biệt là những
khu vực nông thôn xa xôi, khó tiếp cận.
Khuyến khích người dân sử dụng tài khoản
để giao dịch bằng cách đưa ra những chính
sách hỗ trợ, khuyến mãi và đưa ra những
lợi ích, thuận lợi cho người dân trong việc
giao dịch bằng tài khoản để tăng tỷ lệ người
dân sử dụng tài khoản; lắp đặt thêm các cây
ATM để thuận tiện cho việc trao đổi. Đối
với dịch vụ thanh toán, Nhà nước cần tiếp
tục thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển của các trang web điện tử; có
những chính sách khuyến khích các dịch vụ
thanh toán qua thẻ đối với những cửa hàng,
nhà cung cấp dịch vụ để tăng tỷ lệ người
dân đăng ký tài khoản và sử dụng thẻ tín
dụng. Ngoài ra cần có những quy định cụ
thể, bắt buộc đối với việc thanh toán qua
ngân hàng với những giao dịch có giá trị
lớn. Đối với dịch vụ tiết kiệm, cần có những
chính sách ưu đãi, khuyến khích người dân
gửi tiết kiệm; đưa ra những chính sách bảo
mật, đảm bảo an toàn tiền gửi cho người
dân, hạn chế rủi ro gửi tiết kiệm. Đối với
dịch vụ tín dụng, đưa ra gói hỗ trợ vay đối
với các doanh nghiệp với mức lãi suất thấp;
có những chính sách hỗ trợ cho người dân
vay với mức lãi suất hợp lý,... Đối với dịch
vụ bảo hiểm, tuyên truyền, phổ cập, nâng
cao kiến thức về dịch vụ bảo hiểm để người
dân có cái nhìn đúng đắn, toàn diện về dịch
vụ này; khuyến khích người dân tham gia
các gói bảo hiểm đề phòng rủi ro, các gói
hỗ trợ đối với những người có hoàn cảnh
đặc biệt.
Nâng cao nhận thức cũng như kỹ năng tài
chính của người dân. Giáo dục tài chính
sẽ giúp nâng cao hiểu biết và kỹ năng tài
chính của người dân từ đó khuyến khích họ
sử dụng nhiều hơn các sản phẩm, dịch vụ
tài chính.
Song song với phát triển tài chính toàn diện,
các quốc gia cần đặc biệt quan tâm đến
chính sách tạo việc làm, xử lý vấn đề thất
nghiệp còn đang tồn đọng, đồng thời nâng
cao chất lượng lao động của người dân; có
Bảng 6. Kết quả ước lượng với sai số chuẩn Robust
Biến giải thích Hệ số hồi quy Sai số chuẩn P- Value
FI 522,219 249,148 0,039
EPR 333,536 99,203 0,001
BF -33,134 17,238 0,058
IUI 0,324 10,276 0,975
MYS 1202,27 837,222 0,154
OPEN 13,320 20,548 0,518
Hệ số chặn -11206,21 1320,31 0,398
Nguồn: Xử lý của tác giả bằng phần mềm STATA 14
xem tiếp trang 59
Tác động của tài chính toàn diện và các nhân tố khác đến tăng trưởng kinh tế
12 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 223- Tháng 12. 2020
Tài liệu tham khảo
Amidžic, G, A. Massara and A. Mialou (2014). Assessing Countries’ Financial Inclusion Standing - A New Composite
Index. Washington, D.C: International Monetary Fund.
A. S. Kablana, and Chhikara, K. S. (2013). ‘A Theoretical and Quantitative Analysis of Financial Inclusion and
Economic Growth’. Management and Labour Studies, Vol 38, issue 1–2. pp.103–133.
Barro, R. J. and J.-W. Lee. (1994). ‘Sources of economic growth’. Carnegie-Rochester Conference Series on Public
Policy, Vol 40. pp. l-46, North-Holland.
Cao Thị Ánh Tuyết. (2018). ‘Tác động của FDI và độ mở thương mại đến tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia đang phát
triển (1995 – 2017)’. Luận văn thạc sỹ, Đại học Kinh tế Hồ Chí Minh.
Cámara, Noelia and Tuesta, David Alfredo. (September 22, 2014). ‘Measuring Financial Inclusion: A Muldimensional
Index’. BBVA Research, Paper No. 14/26, Economic Research Department, Madrid.
Chandran, Sarath. (September 20, 2011). Financial Inclusion Strategies for Inclusive Growth in India. Accessed 20
April 2020, available at SSRN.
Claessens, S. and Perotti, E. (2007). ‘Finance and inequality: channels and evidence’, Journal of Comparative
Economics, Vol.35, No.4. pp.748-773.
Cull, R., Ehrbeck, T. and Holle, N. (2014). ‘Financial inclusion and development: recent impact evidence’. CGAP
focus note, no.92 Washington, D.C: World Bank Group.
en/269601468153288448/Financial-inclusion-and-development-recent-impact-evidence.
Demirgüç-Kunt, A., and Klapper, L. (2012). ‘Measuring financial inclusion: The global Findex database’. Policy
research working paper 6025. World Bank.
Dupas, P. and J. Robinson. (2013). ‘Savings Constraints and Microenterprise Development: Evidence from a Field
Experiment in Kenya’. American Economic Journal: Applied Economics, Vol. 5, No. 1. pp.163-192.
Ellis, K., Lemma, A., and Rud, J.-P. (2010). Investigating the Impact of Access to Financial Services on Household
Investment. London: Overseas Development Institute.
Global Findex database. Accessed 20 April, 2020. .
Hair, J. F., Black, W. C., Babin, B. J., Anderson, R. E., and Tatham, R. L. (2006). Multivariate data analysis.
Uppersaddle River. New Jersey: Pearson Prentice Hall.
Khattak, Naeem Ur Rehman and khan, Jangraiz. (2013). The Contribution of Education to Economic Growth: Evidence
from Pakistan. Accessed 20 April 2020. .
Kochhar, S., Chandrashekhar, R., Chakrabarty, K. C. and Phatak, D. B. (2009). Speeding Financial Inclusion. New
Delhi: Academic Foundation.
Kpodar, K., and Andrianaivo, M. (2011). ICT, financial inclusion, and growth evidence from African countries.
Washington, D.C: International Monetary Fund.
Kumar, N. (2013). ‘Financial inclusion and its determinants: evidence from India’. Journal of Financial Economic
Policy, Vol. 5, No. 1. pp.4-19.
Kabakova, O., and Plaksenkov, E. (2018). ‘Analysis of factors affecting financial inclusion: Ecosystem view’. Journal
of business Research, Vol.89. pp.198-205.
Mandira Sarma (2008). Index of Financial Inclusion. India: Indian Council for Research on International Economic Relations.
Olaniyi Evans and Raymond Alenoghena (2017). ‘Financial Inclusion and GDP per Capita in Africa: A Bayesian VAR
Model’. Journal of Economic and Sustainable Development, Vol. 8, No.18. pp.44-57.
Phạm Đình Long, Lương Thị Mai Nhân (2018). ‘Tác động của giáo dục đến tăng trưởng kinh tế các tỉnh thành khu vực
miền trung’. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Đà Nẵng, Số 4 (125), 11-15.
Rangarajan Committee. (2008). Report of the Committee on Financial Inclusion. Government of India.
Radovanovic, M., Filipovic, S., and Golusin, V. (2018). ‘Geo-economic approach to energy security measurement
-Principal component analysis’. Renew- able and Sustainable Energy Reviews, Vol 82. pp.1691-1700.
Tabachnick, B. G., Fidell, L. S., and Ullman, J. B. (2007). Using multivariate statistics. Vol.5. NY: Pearson Education.
Sarma, M., and Pais, J. (2011). ‘Financial inclusion and development’. Journal of International Development, Vol 23,
issue 5. pp.613-628.
Sethi, D. and Acharya, D. (2018). ‘Financial inclusion and economic growth linkage: some cross country evidence’,
Journal of Financial Economic Policy, Vol. 10, No. 3. pp. 369-385.
Thai Ha Le, Anh Tu Chuc, Farhad Taghizadeh-Hesary (2019). ‘Financial inclusion and its impact on financial efficiency
and sustainability: Empirical evidence from Asia’. Borsa Istanbul Review, volume 19, issue 4. pp.310-322.
WorldBank (2018). Financial inclusion overview. Accessed 20 April, 2020. <https://www.worldbank.org/en/topic/
financialinclusion/overview>.
World Bank (2019a). World Development Indicators database. Washington, DC. Accessed 20 April, 2020. <
worldbank.org>.
Work Bank (2020). Financial Inclusion overview. Accessed 20 April, 2020. <https://www.worldbank.org/en/topic/
financialinclusion/overview#1>.
PHẠM TIẾN MẠNH - TRẦN THỊ PHƯƠNG ANH - NGUYỄN THỊ NGỌC ÁNH - PHẠM THỊ NGÁT
59Số 223- Tháng 12. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
tận dụng được nguồn dữ liệu thứ cấр, do
đó có thể làm giảm giá trị thu được từ kết
quả nghiên cứu do hành vi của các khách
hàng có thể nhanh chóng thay đổi. Do vậy,
nghiên cứu tiếp theo có thể cân nhắc khắc
phục các điểm yếu này, đồng thời mở rộng
phân tích hiệu quả hoạt động ngân hàng
nhằm phát hiện được nhiều biến quan sát
khác giải thích sự thay đổi của biến mức độ
hài lòng của khách hàng. ■
tiếp theo trang 45
Success: Evidence from The London Stock Exchange. Applied Economics Letters. 10, 783-785.
Cheng, F., & Hwa, T. (2014). Impact of mega sport events on hosting countries’ stock market, In: 2nd International
Conference on Social Sciences Research (ICSSR 2014), 9-10 June 2014, Kota Kinabalu, Sabah, Malaysia, (pp.
582-593).
Scholtens, B., & Peenstra, W. (2010). Scoring On the Stock Exchange? The Effect of Football Matches on Stock Market
Returns: An Even Study. Applied Economics. 41, 3231-3237.
Smant, D. J. (2010). Major Football Events and the Dutch Stock Market: Do football results lead to market anomaly?
Master thesis, Erasmus University Rotterdam.
Hoàng Thọ Mẫn Trinh (2013), Kiểm định giả thuyết thị trường hiệu quả dạng yếu của thị trường chứng khoán Việt
Nam. Luận văn thạc sĩ kinh tế đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
Kang, I., & Park, C. (2015). Soccer sentiment and investment opportunities in the Korean stock market. Asia-Pacific
Journal of Accounting & Economics. 22, 213-226.
Klein, A., & Schmitt, M. (2010). “You’ll Never Walk Alone”-How Loyal are Football Fans To Their Clubs when They
are Struggling Against Relegation? Journal of Sport Management. 24, 649-675.
Li, X. (2007). The Impact of Mega-Sporting Events on Stock Markets. Master Thesis, Auckland University of
Technology.
Petrenko, T. (2014). Economic Impacts of Olympic Games: The analysis of four case Studies. Master thesis. Modul
Vienna University.
Phuong, NT., Anh, TTX., Manh, PT. (2016). Semi-strong form efficiency: market reaction to dividend and earnings
announcements in Vietnam stock Exchange. Review of Business and Economics Studies. 3, 53-67.
Petrenko, T. (2014). Economic Impacts of Olympic Games : The analysis of four case Studies. Master thesis. Modul
Vienna University.
Phạm Đình Long, Nguyễn Thanh Huyền (2017). Kiểm định giả thuyết thị trường hiệu quả trên thị trường chứng khoán
Việt Nam. Tạp chí Kinh tế và Ngân hàng châu Á. Số 137, trang 67-71.
SportyTell (2020), Top-20 Most Expensive Football Stadiums in The World 2020, The SportyTell, 20 April, Accessed
July 2020 from https://sportytell.com/soccer/top-20-most-expensive-football-soccer-stadiums-in-the-world/.
chính sách hỗ trợ học nghề và tạo việc làm
cho người lao động, đặc biệt là người nông
thôn, dân tộc thiểu số; xây dựng quy hoạch
dạy nghề và giải quyết việc làm cho người
lao động; Xây dựng chính sách dài hạn,
định hướng hiệu quả trong việc đào tạo lao
động lành nghề.
tiếp theo trang 11
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất
định, tuy nhiên, nghiên cứu này vẫn còn
tồn tại một số hạn chế: thứ nhất, chưa đánh
giá được có sự khác biệt về tác động của tài
chính toàn diện đến tăng trưởng kinh tế theo
nhóm quốc gia đã phát triển, đang phát triển
và kém phát triển hay không; thứ hai chưa
đánh giá được tác động của tài chính toàn
diện đến giảm nghèo và bất bình đẳng. ■
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tac_dong_cua_tai_chinh_toan_dien_va_cac_nhan_to_khac_den_tan.pdf