Lào Cai là tỉnh thường xảy ra các loại hình
thiên tai nguy hiểm với mức độ nghiêm trọng.
Thiên tai nguy hiểm xảy ra phổ biến cả theo không
gian và thời gian dưới các dạng: cháy rừng, rét đậm
- rét hại, lũ ống - lũ quét, Hậu quả của chúng gây
nhiều thiệt hại to lớn đối với phát triển kinh tế - xã
hội, nhất là đối với đồng bào các dân tộc thiểu số
tỉnh Lào Cai.
Tỉnh Lào Cai có trên 637 ngàn người bao gồm
25 dân tộc, trong đó dân tộc thiểu số chiếm hơn
64% dân số toàn tỉnh. Đặc trưng của đồng bào dân
tộc thiểu số Lào Cai là định cư ở vùng núi, trên các
sườn dốc, ven các khe suối. Cộng đồng các dân tộc
thiểu số Lào Cai hiện có khoảng 12 nguồn sinh kế
khác nhau, trong đó mỗi hộ có 3 - 5 hoạt động sinh
kế chính. Ngoài trồng lúa, ngô, chăn nuôi gia súc
gia cầm thì hoạt động đánh bắt thủy sản, các hoạt
động phi nông nghiệp khác (đan lát, thêu, rèn, )
là các nguồn thu phụ của các hộ gia đình.
Do tập quán định cư và canh tác nông nghiệp
trên đất dốc nên tiềm ẩn nhiều nguy cơ do lũ ống,
lũ quét và sạt lở đất. Đối tượng chịu thiệt hại nhiều
nhất là vùng cao, vùng nghèo, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số sinh sống. Dân tộc chịu hậu quả nặng
nề nhất là người Mông, tiếp theo là người Dao.
7 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 571 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của thiên tai đến sinh kế các dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
342
35(4), 342-348 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 12-2013
TÁC ĐỘNG CỦA THIÊN TAI ĐẾN SINH KẾ
CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH LÀO CAI
ĐÀO THỊ LƯU, LÊ VĂN HƯƠNG
Email: daoluu2007@gmail.com
Viện Địa lý, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Ngày nhận bài: 12 - 9 - 2013
1. Mở đầu
Hiện nay, sinh kế bền vững đang là mối quan
tâm hàng đầu của con người. Nó là điều kiện cần
thiết cho quá trình phát triển nâng cao đời sống
nhưng vẫn đáp ứng được đòi hỏi về chất lượng môi
trường tự nhiên. Lào Cai có khí hậu nhiệt đới gió
mùa, song do nằm sâu trong lục địa bị chi phối bởi
yếu tố địa hình phức tạp nên diễn biến thời tiết có
phần thay đổi, khác biệt theo thời gian và không
gian. Đây là một trong những tỉnh phải đối mặt với
các thiên tai như hạn hán, cháy rừng, lũ ống, lũ
quét, sạt lở đất, băng giá, sương muối,...
Những tác động này đã gây ảnh hưởng nặng nề
tới sinh kế người dân địa phương nói chung và
đồng bào các dân tộc thiểu số nói riêng. Có sinh kế
phải thay đổi, thậm chí mất đi và cũng có sinh kế
mới xuất hiện. Thực tế cho thấy việc lựa chọn hoạt
động sinh kế của người dân chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố: điều kiện tự nhiên, xã hội, yếu tố con
người, vật chất, cơ sở hạ tầng,
Bài báo này trình bày kết quả điều tra nghiên
cứu về hiện trạng sinh kế và những tác động của
thiên tai tới sinh kế đồng bào các dân tộc thiểu số
tỉnh Lào Cai trong những năm gần đây nhằm làm
cơ sở cho việc đề xuất phát triển các mô hình sinh
kế bền vững.
2. Khái quát khu vực nghiên cứu
Lào Cai là tỉnh miền núi biên giới nằm phía tây
bắc Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội 296km theo
đường sắt và 345 km theo đường bộ. Toàn tỉnh có
tổng diện tích đất tự nhiên là 635.708 ha, trong đó đất
nông nghiệp là 76.253,82 ha (chiếm 12,0% diện tích
tự nhiên) bao gồm đất trồng cây hàng năm: 53.665 ha,
đất trồng cây lâu năm: 10.512 ha, đất cỏ dùng vào
chăn nuôi: 3.840,78 ha, đất có mặt nước nuôi trồng
thuỷ sản: 1.241,35 ha chiếm 5,04%. Tổng diện tích
đất lâm nghiệp là 418.361 ha, chiếm 65,77% diện tích
đất tự nhiên, trong đó: đất có rừng 296.160 ha, đất
không có rừng: 122.201 ha. [8, 12].
Địa hình Lào Cai gồm nhiều đồi núi và thung
lũng. Độ cao trung bình khoảng 100-200m so với
mực nước biển. Địa hình thấp nhất là các huyện
Bát Xát, Bảo Thắng, Bảo Yên với độ cao trung
bình của cả huyện là 100m. Các huyện có độ cao
trung bình lớn nhất là Sa Pa (1600m), Mường
Khương (1000m), Bắc Hà (1200m) [10]. Nhìn
chung, địa hình Lào Cai rất phức tạp, phân tầng độ
cao lớn, mức độ chia cắt mạnh, nhiều nơi tạo thành
vách đứng dễ gây quá trình sập lở, trượt khối.
Lào Cai là tỉnh có chế độ khí hậu nhiệt đới gió
mùa rõ rệt. Nhiệt độ trung bình hàng năm thường
từ 22 đến 24°C, cao nhất 36°C, thấp nhất 10°C (có
nơi dưới 0°C như ở Sa Pa). Lượng mưa trung bình
năm trên 1.700 mm, sương mù thường xuất hiện
phổ biến trên toàn tỉnh, có nơi mật độ rất dày.
Trong các đợt rét đậm thường xuất hiện sương
muối, ở những vùng có độ cao trên 1.000 m (Sa Pa,
Bát Xát) hàng năm thường có tuyết rơi [11].
Năm 2011 dân số trung bình toàn tỉnh Lào Cai là
637.520 người, mật độ dân số 100 người/km2. Toàn
tỉnh có 25 dân tộc anh em, trong đó dân tộc thiểu số
chiếm 64,09%, bao gồm: dân tộc Mông chiếm
21,21%, dân tộc Tày chiếm 15,84%, dân tộc Dao
chiếm 14,05%, dân tộc Giáy chiếm 4,7%, dân tộc
Nùng chiếm 4,4% còn lại 4,49% là các dân tộc ít
người khác như: Phù Lá, La Chí, Bố Y, Sán Dìu, Sán
Chay, Hà Nhì, Thái, Sa Phó,[4, 8].
343
Về phát triển kinh tế, giai đoạn 2006 - 2010 tốc
độ tăng trưởng GDP của tỉnh Lào Cai bình quân
đạt 13%/năm, trong đó tăng trưởng ngành nông,
lâm nghiệp và thủy sản 6,7%/năm, ngành công
nghiệp và xây dựng 21%/năm và dịch vụ đạt
11,9%/năm. GDP bình quân đầu người năm 2010
đạt 15,7 triệu đồng/người, gấp 3,1 lần so với năm
2005.
Tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
trong GDP liên tục giảm, từ 35,4% năm 2005
xuống còn 27,9% năm 2010, ngành công nghiệp -
xây dựng tăng từ 26,5% năm 2005 lên 34,2% năm
2010, dịch vụ giảm từ 38,1% năm 2005 xuống còn
37,9% năm 2010 [10].
3. Đặc điểm sinh kế đồng bào các dân tộc thiểu
số tỉnh Lào Cai
Sinh kế (livelihood) hay cách mưu sinh của một
người, một nhóm người phụ thuộc chặt chẽ vào
nguồn lực, năng lực ra quyết định và những hoạt
động kiếm sống để đạt được mục tiêu và ước mơ
của họ. Sinh kế bền vững thể hiện khả năng thích
nghi để duy trì sức sản xuất lâu dài của nguồn tài
nguyên, khả năng chống đỡ với các cú sốc hay các
áp lực bên ngoài, khả năng duy trì đời sống, sinh
hoạt độc lập ít phụ thuộc vào bên ngoài [2, 9].
Dựa vào các tài liệu, các báo cáo và các nghiên
cứu thu thập được cũng như kết quả điều tra năm
2012 chúng tôi nhận thấy trồng lúa và nương rẫy là
hoạt động sinh kế chủ yếu của đồng bào các dân
tộc thiểu số Lào Cai. Bên cạnh đó, chăn nuôi gia
súc, gia cầm, nuôi trồng thủy sản, các ngành nghề
thủ công được xem là các nguồn cung cấp tiền mặt
quan trọng của nông hộ. Tuy nhiên, sản xuất còn
mang tính tự cung, tự cấp, chưa có các điển hình về
sản xuất hàng hóa. Chúng tôi thống kê được 12
nguồn sinh kế khác nhau (bảng 1) nhưng không
phải hộ nào cũng hội tụ đủ các nguồn sinh kế, mỗi
hộ có trung bình 3 đến 5 hoạt động chính.
3.1. Sinh kế nông nghiệp
Gắn với môi trường tự nhiên có tính đa dạng
sinh học cao, từ lâu người dân các dân tộc thiểu số
miền núi phía bắc nói chung và ở tỉnh Lào Cai nói
riêng đã luôn duy trì các mô hình đa dạng sinh kế.
Sinh kế trồng trọt: các hoạt động trồng trọt là
nguồn thu nhập chính của các hộ gia đình đồng bào
dân tộc thiểu số Lào Cai. Với họ, canh tác lúa được
tiến hành cả ở ruộng trũng và nương rẫy. Bên cạnh
lúa, các loại cây trồng khác như ngô, sắn, đậu
tương là nguồn cung cấp lương thực chủ yếu cho
các cộng đồng. Các nhóm tộc người sống ở vùng
núi thấp hoặc ở các thung lũng chân núi (như Tày,
Nùng, Sán Dìu,) vừa làm ruộng (ruộng nước
hoặc ruộng bậc thang), vừa tận dụng các mảnh
nương trên các sườn đồi gần nơi cư trú để trồng
trọt các loại nông sản ngoài lúa như chuối, bông,
sắn, đu đủ, mía, ngô, khoai để bổ sung cho nền
kinh tế tự cấp tự túc của gia đình. Trong khi đó, mô
hình nông nghiệp chủ yếu của các nhóm dân tộc
thiểu số sống tại các vùng cao (Mông, Phù Lá, Hà
Nhì,...) là canh tác nương rẫy (gieo trỉa lúa nương
và trồng các loại hoa màu). Nhóm các dân tộc này
ở Lào Cai sử dụng hơn 50% tổng diện tích gieo
trồng cho các loại cây hoa màu, chủ yếu là ngô và
sắn. Đặc biệt, có sự khác biệt đáng kể trong việc
sử dụng đất canh tác của nhóm hộ nghèo và
nhóm không nghèo. Trong khi nhóm không nghèo
dùng 70% diện tích cho canh tác lúa, thì nhóm
nghèo sử dụng khoảng 1/2 diện tích cho trồng cây
lương thực khác.
Bảng 1. Các hoạt động sinh kế chính của
đồng bào dân tộc thiểu số Lào Cai
TT Hoạt động sinh kế hộ gia đình
1 Trồng lúa, ngô
2 Trồng rau
3 Trồng hoa
4 Trồng cây dược liệu (thảo quả)
5 Chăn nuôi trâu/bò,ngựa, dê
6 Chăn nuôi lợn
7 Chăn nuôi gà
8 Nuôi trồng, đánh bắt thủy sản
9 Trồng rừng
10 Trồng và thu hái lâm sản ngoài gỗ
11 Nghề thêu - dệt thổ cẩm
12 Rèn, đúc, đan lát
Nguồn: Kết quả điều tra năm 2012
Tại Lào Cai sản xuất lúa gạo đóng góp hơn
50% thu nhập từ trồng trọt của cộng đồng các dân
tộc Tày, Dao, Giáy, trong khi các hộ người Mông
và các dân tộc khác thu nhập từ trồng trọt chỉ
chiếm từ 38 đến 41% (bảng 2). Tuy nhiên, sự khác
biệt giữa các nhóm hộ nghèo và không nghèo, giữa
các nhóm theo giới tính của chủ hộ trong cơ cấu sử
dụng đất canh tác không tạo ra sự khác biệt đáng
kể nào trong cơ cấu thu nhập từ trồng trọt. Trong
khi nhóm không nghèo tập trung chủ yếu vào trồng
lúa hơn là nhóm nghèo, tỷ lệ thu nhập từ lúa gạo
trong tổng số thu nhập từ trồng trọt giữa hai nhóm
là gần như nhau. Điều này phản ánh thực tế là
nhóm không nghèo đa dạng hoá các hoạt động sinh
kế hơn nhóm hộ nghèo, đặc biệt trong các hoạt
344
động làm công ăn lương và các hoạt động tạo thu
nhập phi nông nghiệp khác. Mặc dù tỷ lệ thu nhập
từ sản xuất lúa gạo trong tổng thu nhập từ trồng trọt
của nhóm không nghèo không khác biệt nhiều so
với nhóm nghèo, nhưng thu nhập bình quân đầu
người từ lúa gạo của nhóm hộ không nghèo cao
hơn 3,4 lần nhóm hộ nghèo ở các xã đặc biệt
khó khăn.
Bảng 2. Cơ cấu thu nhập từ trồng trọt (%)
Dân tộc Lúa gạo Cây hoa màu
Cây lâu
năm
Cây ăn
quả
Cây
trồng
khác
Mông 38,5 52,4 4,3 1,8 3,2
Tày 62,8 22,5 7,8 5,1 1,9
Dao 50,6 35,5 9,3 2,7 2,0
Giáy 52,4 30,9 7,6 5,5 3,6
Các dân
tộc khác
40,8 42,7 11,3 4,1 1,2
Nguồn: [1]
Sinh kế chăn nuôi: những hoạt động này đóng
góp trung bình khoảng 15% vào tổng thu nhập của
hộ gia đình, nhất là ở các xã đặc biệt khó khăn. Kết
quả điều tra cho thấy chăn nuôi gia cầm là hoạt
động chăn nuôi chính ở các hộ gia đình đồng bào
dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai. Trung bình, thu nhập
từ nuôi gia cầm chiếm khoảng 45% thu nhập từ
chăn nuôi. Chăn nuôi lợn là hoạt động chăn nuôi
quan trọng đứng thứ hai sau chăn nuôi gia cầm.
Mặc dù vậy, đại gia súc là tư liệu sản xuất quan
trọng nhất trong các hộ gia đình. Ngoài việc cung
cấp sức kéo cho các hoạt động sản xuất nông
nghiệp, gia súc sinh sản được coi là nguồn tiết
kiệm quan trọng của hộ nông dân. Đối với các hộ
không có trâu, bò, thay vì việc cày bằng gia súc,
người dân phải cày bừa bằng tay hoặc nhờ đến sự
trợ giúp của các thành viên khác trong cộng đồng.
Trong trường hợp phải mượn trâu, bò của các
thành viên khác, các hộ phải làm trả công với tỷ lệ
1 đến 3 công người tương ứng với 1 công trâu bò
(bảng 3). Ngoài trâu bò, để có thêm sức kéo cho
sản xuất nông nghiệp và vận chuyển hàng hoá,
người dân ở Lào Cai còn nuôi ngựa và chăn
nuôi dê.
Bảng 3. Cơ cấu thu nhập từ sinh kế chăn nuôi (%)
Dân tộc Lợn Trâu, bò Gia súc khác Gia cầm Khác
Mông 30,4 7,6 4,8 43,3 14,6
Tày 32,6 4,4 2,6 46,1 14,6
Dao 30,4 9,1 3,0 43,7 13,9
Giáy 40,5 6,2 4,9 47,2 2,9
Dân tộc khác 25,1 3,6 4,4 61,0 6,2
Nguồn: [1]
3.2. Sinh kế trồng và quản lý rừng
Rừng chiếm phần lớn đất thuộc sở hữu của
đồng bào dân tộc thiểu số Lào Cai nhưng thu nhập
từ hoạt động lâm nghiệp chiếm tỷ lệ nhỏ. Tuy
nhiên, trồng và quản lý rừng vẫn là một hoạt động
sinh kế quan trọng của người dân ở đây. Hiện nay
Dự án trồng rừng thay thế nương rẫy ở tỉnh Lào Cai
được UBND tỉnh phê duyệt năm 2009, đã tạo điều
kiện cho 11.356 hộ gia đình có diện tích nương,
rẫy đang canh tác trên đất lâm nghiệp với diện tích
gần 21 nghìn ha, tập trung chủ yếu ở các huyện:
Bắc Hà, Si Ma Cai, Bát Xát, Mường Khương. Đây
là cơ hội cho đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ
tham gia trồng rừng, làm thay đổi tập quán canh
tác theo phương thức truyền thống, kém hiệu quả
sang phương thức sản xuất mới cho hiệu quả kinh
tế cao hơn, tạo điều kiện ổn định và phát triển kinh
tế cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu,
vùng xa. Hoạt động sinh kế trồng và quản lý rừng
đã đóng vai trò quan trọng cho cuộc sống của
người dân Lào Cai như cung cấp củi khô, măng và
các sản phẩm thu hái từ rừng.
3.3. Sinh kế nuôi trồng, đánh bắt thủy sản
Đây là một hoạt động sinh kế thiết yếu tại cộng
đồng các dân tộc thiểu số Lào Cai. Tuy nhiên, do
đặc điểm địa hình của vùng miền núi, cả diện tích
nuôi và nguồn lợi thủy sản vẫn còn hạn chế. Hiện
nay nuôi trồng thủy sản mới chỉ tập trung tại một
số địa phương trong tỉnh như xã Quang Kim, xã
Bản Vược của huyện Bát Xát; xã Gia Phú, xã Phú
Nhuận của huyện Bảo Thắng, xã Long Khánh của
huyện Bảo Yên, Riêng đối với các huyện vùng
cao như Mường Khương, Bắc Hà, Si Ma Cai, Văn
Bàn việc nuôi trồng thủy sản của các hộ đồng bào
dân tộc thiểu số còn khó khăn. Do đó, nguồn thực
phẩm từ thủy sản chưa đáp ứng được nhu cầu của
địa phương, đa phần các thủy sản phải chuyển từ
nơi khác đến nên giá thành rất cao. Nguyên nhân
chính là do điều kiện khí hậu thời tiết của các
huyện tương đối khắc nghiệt, mùa đông nhiệt độ
xuống thấp, nguồn nước hạn chế, địa hình tương
đối hiểm trở. Thực tế cho thấy chủ yếu đồng bào
miền núi Lào Cai nuôi thả cá trong các ao nhỏ,
nhằm cung cấp thực phẩm tại chỗ cho mỗi gia
đình. Song, cũng chỉ có một phần nhỏ số hộ gia
đình có một vài ao nhỏ còn phần lớn các hộ không
có ao nuôi. Đặc biệt, diện tích ao sở hữu và mức độ
thâm canh của những hộ nghèo thường nhỏ hơn và
thấp hơn so với các hộ trung bình và khá giả trong
cùng một cộng đồng. Sinh kế nuôi trồng thủy sản
345
của đồng bào dân tộc thiểu số Lào Cai chỉ được
tiến hành ở mức thấp, thả cá là chính và rất ít khi
cung cấp thức ăn nên năng suất không cao.
3.4. Sinh kế khác
Ngoài các sinh kế trên, các dân tộc thiểu số Lào
Cai còn có nhiều hoạt động sinh kế bổ trợ khác như
làm nghề thủ công gia đình, săn bắt hái lượm và
trao đổi hàng hóa. Các nghề thủ công gia đình
truyền thống của các tộc người thiểu số Lào Cai
chủ yếu chỉ phục vụ nhu cầu tại chỗ. Nhiều nghề
trong đó gắn với rừng như nghề chế tác đồ gỗ, làm
mây tre đan,... Đặc biệt, sinh kế tự nhiên (săn bắt,
hái lượm) trước đây có vai trò rất quan trọng đối
với mỗi gia đình và cộng đồng. Người dân các tộc
người thiểu số ở Lào Cai không chỉ biết khai thác
lâm, thổ sản từ rừng (gỗ để làm nhà, củi đun, rau
xanh, thịt thú rừng, cây thuốc,) mà còn rất giỏi
trong việc đánh bắt động vật thủy sinh phục vụ
đời sống.
4. Tác động của thiên tai tới sinh kế đồng bào
các dân tộc thiểu số Lào Cai
4.1. Loại hình thiên tai
Lũ ống, lũ quét: Lào Cai là trọng điểm của tai
biến lũ quét - lũ bùn đá, trượt - lở do ảnh hưởng
sâu sắc của điều kiện khí hậu và địa hình.. Lũ quét
thường xảy ra trên các thung lũng, thềm khe suối
(kể cả các khe suối lưu vực nhỏ). Mức độ tàn phá
của lũ quét, sạt lở đất hết sức bất ngờ và khốc liệt
gây tổn thất về người, công trình hạ tầng và đời
sống kinh tế văn hoá xã hội vùng thiên tai, đặc biệt
là vùng dân tộc thiểu số nơi kinh tế kém phát triển,
đời sống gặp nhiều khó khăn. Đặc trưng điển hình
của thiên tai này là xảy ra cục bộ ở một vùng, một
khu dân cư, một bản làng; những người bị thiệt
mạng thường trong một gia đình hoặc có quan hệ
dòng họ với nhau.
Rét đậm - rét hại: hiện tượng này xảy ra vào các
thời kỳ giá rét kéo dài nhiều ngày. Trời rét buốt về
đêm và sáng sớm, nhất là ở các vùng núi cao.
Trong những ngày rét đậm rét hại thường có sương
muối tăng dần với cường độ ngày càng dày đặc và
kéo dài. Nhiệt độ không khí trung bình ngoài trời
khoảng 15°C, vùng cao khoảng 8°C. Ở Sa Pa, Bắc
Hà và Bát Xát, nhiệt độ đo được từ 2°C đến 0°C,
có nơi xuống dưới 2°C (-2°C) [11].
Cháy rừng: tỉnh Lào Cai có trên 418 nghìn ha
rừng và đất lâm nghiệp, trong đó chiếm 1/2 là rừng
phòng hộ, còn lại là rừng sản xuất. Theo đánh giá
của Ban Chỉ huy PCCCR tỉnh, Lào Cai có tới
100.000 ha rừng có nguy cơ cháy cao, tập trung ở
khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên và các huyện
Văn Bàn, Bắc Hà, Mường Khương. Theo thống kê
của ngành kiểm lâm, trong 10 năm qua, trên địa
bàn tỉnh xảy ra 202 vụ cháy rừng, làm thiệt hại trên
1.000 ha, trong đó rừng tự nhiên gần 900 ha, rừng
trồng 163 ha, mức độ thiệt hại 62,3%. Các vụ cháy
rừng chủ yếu xảy ra vào quý I, quý II hàng năm
trong điều kiện thời tiết khô hanh.
Kết quả điều tra năm 2012 của nhóm nghiên
cứu cho thấy đa số các hộ cho rằng lũ ống, lũ quét,
rét đậm, rét hại là nguyên nhân làm cho đồng bào
quyết định thay đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi
trong sản xuất nông nghiệp. Đây cũng chính là
những loại hình thiên tai mà cộng đồng các dân tộc
thiểu số Lào Cai thường phải đối mặt. Có tới 50%
số hộ cho rằng thiên tai tác động mạnh tới cuộc
sống sản xuất của cộng đồng địa phương, 30% cho
rằng tác động trung bình. Đặc biệt có 12% số hộ
được hỏi đã phải di chuyển nơi ở do thiên tai.
4.2. Tác động của thiên tai đến sinh kế
Theo lý thuyết sinh kế mà tổ chức phát triển
Anh (DFID) đưa ra, với một cộng đồng hay nhỏ
hơn là một hộ gia đình đều có 5 loại nguồn vốn tạo
thành một ngũ giác sinh kế và ngũ giác này sẽ bị
thay đổi khi có các điều kiện bên ngoài tác động
vào. Năm nguồn vốn bao gồm vốn xã hội (S), vốn
tài chính (F), vốn con người (H), vốn vật chất (P),
và vốn tự nhiên (N) [1, 2]. Thiên tai ở Lào Cai có
tác động trực tiếp lên 3/5 nguồn vốn sinh kế đồng
bào dân tộc thiểu số như sau:
Tác động đến nguồn vốn tự nhiên: Đối với tất
cả các dân tộc thiểu số ở nước ta nói chung, ở Lào
Cai nói riêng, tự nhiên là những yếu tố đầu vào cơ
bản để các sinh kế được thực hiện. Mọi hoạt động
kinh tế truyền thống của người dân đều được hình
thành và phát triển trên cơ sở của các đặc điểm môi
trường tự nhiên nơi họ cư trú. Họ luôn cố gắng tìm
hiểu để có giải pháp thích ứng - vừa có thể khai
thác, vừa gìn giữ các nguồn lực tự nhiên.
Lào Cai vốn được đặc trưng bởi địa hình phức
tạp và có ít diện tích đất canh tác. Các loại hình
thiên tai như sạt lở đất, lũ quét làm mất diện tích
đất canh tác làm hạn chế nguồn vốn sinh kế của
người dân, đặc biệt là người nghèo dân tộc thiểu
số. Cháy rừng, rét đậm rét hại làm giảm hoặc phá
hủy các diện tích đã được gieo trồng từ đó giảm
346
sản lượng lương thực sản xuất được. Kết quả
nghiên cứu ở Lào Cai cho thấy diện tích lúa, hoa
màu mất trắng do thiên tai ở Lào Cai từ năm 2000
đến năm 2011 là 12.104 ha (hình 1).
Hình 1. Diện tích lúa, hoa màu mất trắng do thiên tai ở Lào Cai từ năm 2000 đến năm 2011
Theo báo cáo của Ủy ban Nhân dân tỉnh Lào
Cai (2011), năm 2011 hạn hán kéo dài trên địa bàn
tỉnh cho nên diện tích gieo trồng chỉ đạt 93% so
với kế hoạch, toàn tỉnh có 1,820 ha lúa bị hạn trong
đó có khoảng 120 ha lúa phải gieo cấy lại, diện tích
mất trắng lên đến 20 ha.
Rét đậm rét hại cũng làm thiệt hại lớn đến sản
xuất lúa. Đợt rét đậm rét hại vào năm 2008 ở Lào
Cai đã gây thiệt hại hơn 84 tấn lúa giống do người
dân phải gieo trồng lại sau khi đợt rét đậm đi qua.
Không những chỉ tác động đến sản xuất lúa, các
hiện tượng thời tiết cực đoan còn ảnh hưởng trực
tiếp đến sản xuất lâm nghiệp, cây ăn quả và hoa
màu trong vườn.
Bên cạnh đó, rừng và đất rừng là một nguồn
vốn sinh kế quan trọng đối với đồng bào dân tộc
thiểu số ở vùng núi phía Bắc nói chung và Lào Cai
nói riêng. Tuy nhiên không phải các hộ đều có
rừng. Không những chỉ không tiếp cận được rừng
và đất rừng, những hộ không có rừng còn bị hạn
chế phát triển chăn nuôi đại gia súc do bãi chăn
chính là các khu rừng đã được sở hữu bởi các hộ
gia đình khác, điều này tạo nên sự cạnh tranh trong
phát triển chăn nuôi giữa người có rừng và không
có rừng. Những hộ tiếp cận với rừng và đất rừng
thường có nguồn thu nhập đa dạng hơn. Do vậy,
tính tổn thương do tác động của thiên tai ít hơn.
Các hiện tượng thiên tai như cháy rừng, lũ quét, sạt
lở đất gây thiệt hại lớn đến các sinh kế gắn với
rừng của đồng bào. Tháng 2 năm 2009 đã xảy ra 04
vụ cháy rừng ở Lào Cai, đó là ở Sa Pa 02 vụ, Bắc
Hà 01 vụ, Văn Bàn 01 vụ. Ngày 15/9/2009 xảy ra
cháy rừng Hoàng Liên Sơn tại xã Bàn Lầu, huyện
Mường Khương, Tp. Lào Cai, thiêu trụi gần 100 ha
rừng tái sinh. Đặc biệt vụ cháy rừng Quốc gia
Hoàng Liên vào đầu năm 2010 đã thiêu cháy
797,16 ha (trong đó rừng tự nhiên là 763,02 ha,
rừng trồng 34,15 ha) [6]. Điều này đã tác động tiêu
cực đến nguồn sinh thủy, gây nguy cơ hạn hán,
thiếu nước sinh hoạt và sản xuất cho một số hộ gia
đình đang sinh sống ở vùng ven, vùng đệm; đất đai
nơi bị cháy giảm độ màu mỡ và chai cứng, gây khó
khăn cho canh tác nông - lâm nghiệp. Đặc biệt, vụ
cháy làm thiệt hại một số diện tích thảo quả (9,5
ha) - nguồn thu chính của đồng bào dân tộc Mông,
Dao,... ở vùng cao.
Tác động đến vốn vật chấ: Một trong những tác
động của thiên tai đến sản xuất chăn nuôi là thay
đổi sự có sẵn nguồn thức ăn cho chăn nuôi. Bên
cạnh đó một số nghiên cứu quy nạp rằng thiên tai
là nguyên nhân quan trọng dẫn đến dịch bệnh trên
vật nuôi [3]. Thực tế cho thấy nhiệt độ thấp (rét
đậm và rét hại) làm khan hiếm nguồn thức ăn cho
vật nuôi đồng thời làm giảm khả năng đề kháng
của cơ thể, tăng nguy cơ mắc bệnh từ đó gây chết
vật nuôi. Đợt lạnh ở vùng núi phía Bắc vào năm
2008 đã làm chết hơn 60.000 con trâu bò, trong đó
riêng tỉnh Lào Cai có 18.760 con trâu bò chết
[6, 7].
347
Trong tháng 1 và 2/2012 đã xảy ra 2 đợt rét
đậm, rét hại kéo dài trên 40 ngày gây thiệt hại
nghiêm trọng đến sinh kế chăn nuôi của người dân
ở các địa phương vùng cao tỉnh Lào Cai. Tháng
3/2012 ở Lào Cai xảy ra rét đậm, rét hại bất thường
sau những ngày thời tiết nắng ấm, không khí lạnh
tăng cường với cường độ mạnh và nhanh kèm theo
mưa rào đã làm cho nhiệt độ hạ thấp đột ngột, nhiệt
độ trung bình xuống dưới 10°C, tại các huyện vùng
cao Bắc Hà nhiệt độ xuống 5,4°C, Sa Pa -2°C; mưa
tuyết và băng giá đã xuất hiện ở nhiều xã tại các
huyện Sa Pa, Bát Xát, Si Ma Cai, Bắc Hà, Mường
Khương. Đợt rét đậm, rét hại này đã làm chết
14.030 con trâu bò của đồng bào các dân tộc
trong tỉnh.
Kết quả thu thập số liệu tại Lào Cai cho thấy từ
năm 2000 - 2011, tổng số gia súc bị chết do thiên
tai ở Lào Cai lên đến 44.802 con, trong đó chủ yếu
là của đồng bào các dân tộc thiểu số. Trong đó
những năm thiệt hại nhất là 2000 (7.353 con), 2008
(19.471 con), 2011 (14.320 con). Cũng trong thời
gian trên, thiên tai (chủ yếu là lũ ống, lũ quét) đã
làm cho 1825 ngôi nhà của người dân (trong đó
chủ yếu là của đồng bào các dân tộc thiểu số) bị
sập hoặc bị cuốn trôi.
Tác động đến vốn con người: thiên tai thường
xuyên đe dọa đến tính mạng (trong đó có lực lượng
lao động chính) và tài sản vốn đã ít ỏi của đồng bào
các dân tộc thiểu số. Hậu quả do thiên tai ở Lào
Cai trong những năm vừa qua rất nghiêm trọng cả
về người, kinh tế, cơ sở hạ tầng và xã hội. Trong
10 năm qua, tỉnh Lào Cai xảy ra 18 trận lũ quét, lở
đất làm hơn 250 người chết và 200 người bị
thương. Có những trận lũ quét, trượt lở đất đã trở
thành thảm hoạ (sạt lở đất tại thôn Sùng Hoảng xã
Phìn Ngan (Bát Xát) tháng 9/2004, vùi lấp 03 ngôi
nhà và 23 người chết; năm 2008 một đợt lũ quét và
sạt lở đất làm 79 người chết và mất tích, 58 người
bị thương. Ngày 2 - 4/8/2010 xảy hai trận lũ quét
tại thị trấn Sa Pa, xã Mường Vi (Bát Xát) làm 02
người chết, 12 người bị thương. Ngày 6/9/2010 tại
xã Lùng Cải, Bắc Hà lũ cuốn trôi 03 người,...
Các nguồn sinh kế bị tác động do thiên tai là
một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng
nghèo đói của đồng bào các dân tộc thiểu số Lào
Cai. Theo số liệu điều tra thu thập được, năm 2011
số hộ nghèo trên địa bàn tỉnh Lào Cai là 40.320 hộ,
chiếm 27,69% tổng số hộ, trong có tới 87,96% số
hộ nghèo là các dân tộc thiểu số. Một số dân tộc có
tỷ lệ hộ nghèo cao so với tổng số hộ là người dân
tộc đó trên địa bàn như dân tộc Mông (39,04%),
Dao (17,9%), Tày (15,75%).
Các khu vực nghèo đói cao của Lào Cai tập
trung ở các huyện Si Ma Cai, Sa Pa, Bát Xát, Bắc
Hà, Mường Khương. Đây cũng chính là những nơi
thường xuyên chịu tác động của thiên tai, ảnh
hưởng tiêu cực đến các hoạt động sinh kế của
người dân địa phương.
Bảng 4. Số hộ nghèo và tỷ lệ nghèo theo các dân tộc của Lào Cai năm 2011
Toàn tỉnh Mông Tày Giáy Dao Hà Nhì Phù Lá Dân tộc khác
Hộ nghèo (hộ) 40320 15740 6352 1359 7218 522 931 3346
Tỷ lệ (%) 27,69 39,04 15,75 3,37 17,9 1,29 2,3 8,29
Nguồn: [5]
5. Kết luận
Lào Cai là tỉnh thường xảy ra các loại hình
thiên tai nguy hiểm với mức độ nghiêm trọng.
Thiên tai nguy hiểm xảy ra phổ biến cả theo không
gian và thời gian dưới các dạng: cháy rừng, rét đậm
- rét hại, lũ ống - lũ quét, Hậu quả của chúng gây
nhiều thiệt hại to lớn đối với phát triển kinh tế - xã
hội, nhất là đối với đồng bào các dân tộc thiểu số
tỉnh Lào Cai.
Tỉnh Lào Cai có trên 637 ngàn người bao gồm
25 dân tộc, trong đó dân tộc thiểu số chiếm hơn
64% dân số toàn tỉnh. Đặc trưng của đồng bào dân
tộc thiểu số Lào Cai là định cư ở vùng núi, trên các
sườn dốc, ven các khe suối. Cộng đồng các dân tộc
thiểu số Lào Cai hiện có khoảng 12 nguồn sinh kế
khác nhau, trong đó mỗi hộ có 3 - 5 hoạt động sinh
kế chính. Ngoài trồng lúa, ngô, chăn nuôi gia súc
gia cầm thì hoạt động đánh bắt thủy sản, các hoạt
động phi nông nghiệp khác (đan lát, thêu, rèn,)
là các nguồn thu phụ của các hộ gia đình.
Do tập quán định cư và canh tác nông nghiệp
trên đất dốc nên tiềm ẩn nhiều nguy cơ do lũ ống,
lũ quét và sạt lở đất. Đối tượng chịu thiệt hại nhiều
nhất là vùng cao, vùng nghèo, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số sinh sống. Dân tộc chịu hậu quả nặng
nề nhất là người Mông, tiếp theo là người Dao.
348
Thiên tai làm giảm đáng kể thu nhập của nhóm
người mà sinh kế chủ yếu phụ thuộc vào tự nhiên
và nguồn lợi tự nhiên như: làm nương rẫy, nông
nghiêp manh mún, đánh bắt thu lượm thủy sản, thu
lượm sản phẩm phi gỗ từ rừng, Khi bị thiên tai
tác động, một số hộ có thể nhanh chóng phục hồi
sinh kế và tái thiết tài sản của họ nhưng nhiều hộ
khác thì quá trình khắc phục chậm hơn. Đặc biệt
đối với các hộ nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu
số Lào Cai, việc tái sản xuất tư liệu sản xuất là
hoàn toàn không thể.
Để góp phần hạn chế tác động thiên tai, cần tiếp
tục xây dựng các dự án kế hoạch hàng năm về
phòng, chống, khắc phục hậu quả do thiên tai gây
nên. Đồng thời xây dựng và phát triển một số loại
hình sinh kế mới phù hợp với điều kiện tự nhiên,
phong tục tập quán của người dân vùng cao kết
hợp các chính sách khuyến khích hỗ trợ người dân
tự vươn lên thoát nghèo một cách bền vững.
Lời cảm ơn: Công trình này là một phần kết
quả Dự án điều tra cơ bản mã số: VAST.ĐTCB-
02/12-13, chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự ủng
hộ của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt
Nam. Tập thể tác giả trân trọng cảm ơn PGS.
TSKH. Nguyễn Địch Dỹ đã có những nhận xét,
góp ý giúp hoàn thiện bài báo.
TÀI LIỆU DẪN
[1] Phạm Thái Hưng, Lê Đặng Trung và
Nguyễn Việt Cường, 2011: Báo cáo: Nghèo của
Dân tộc thiểu số ở Việt Nam: Hiện trạng và thách
thức ở các xã thuộc Chương trình 135, Giai đoạn
II, 2006 - 2007, Hà Nội.
[2] Scoones, I, 1998: Sustainable Rural
Livelihoods: A Framework for Analysis. Institute
of Development Studies.
[3] Thornton P & Mario H, 2008: Climate
change, vulnerability and livestock keepers:
challenges for poverty alleviation Livestock and
global climate change, 21-24.
[4] Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở
tỉnh Lào Cai, 2010: Kết quả tổng điều tra dân số và
nhà ở năm 2009 tỉnh Lào Cai, Nxb. Thống kê.
[5] Ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo Lào Cai,
2012: Báo cáo kết quả xóa đói giảm nghèo tỉnh
Lào Cai năm 2011.
[6] Ban chỉ huy Phòng chống lụt bão và
Tìm kiếm cứu nạn tỉnh Lào Cai, Báo cáo Tổng kết
công tác Phòng chống lụt bão các năm từ 2000
đến 2011.
[7] Center for Sustainable Rural Development,
2009: Need assessment on climate change
mitigation and adaptation, a study in Backan
province, pp. 54. Ha noi.
[8] Cục thống kê Lào Cai, 2012: Niên giám
thống kê Lào Cai 2011.
[9] DFDI, 1999: Sustainable Livelihoods
Guidace Sheets.
[10] UBND tỉnh Lào Cai, 2010: Kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội tỉnh Lào Cai 2011 - 2015.
[11] Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Lào Cai,
2004: Báo cáo Hiện trạng môi trường tỉnh Lào Cai.
[12] Sở TNMT Lào Cai, 2012: Báo cáo hiện
trạng sử dụng đất 2011.
SUMMARY
Impacts of natural calamity on livelihood of ethnic minority in Lao Cai Province
This article presents survey results about livelihood status and impacts of natural calamities on livelihood of ethnic
minorities in Lao Cai province in recent years. Lao Cai is located in northern mountainous region of Vietnam. There are
25 ethnic minorities living with more than 12 kinds of livelihood. Among them, agricultural livelihood plays an important
role in life of local people. However, many kinds of natural calamities often occur in Lao Cai, especially, forest fire,
damaging cold - extreme cold, flash floods, pipe floods, happen extremely. They caused extremely serious damage to
socio-economic development, especially for livelihood of ethnic minorities there.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4118_14579_2_pb_7764_2107850.pdf