Bên cạnh đó, các kết quả nghiên cứu thực nghiệm còn cho thấy tác động ngược
chiều của quy mô hoạt động tín dụng lên rủi ro và tác động tích cực của nó lên khả năng
sinh lời của các ngân hàng, có thể thấy hoạt động tín dụng vẫn là nguồn thu quan trọng
của các NHTM Việt Nam hiện nay. Kết quả phân tích cũng cho thấy tác động tiêu cực
của quy mô tiền gửi khách hàng lên khả năng sinh lời của NHTM, trong khi đó, vốn chủ
sở hữu lại có tương quan cùng chiều với cả rủi ro và khả năng sinh lời của các NHTM.
Đây là cơ sở để các ngân hàng cẩn trọng hơn trong việc cơ cấu nguồn vốn hoạt động
của mình. Bên cạnh đó, kết quả còn cho thấy mức tăng tổng tài sản của các NHTM hàng
năm càng cao, khả năng sinh lời càng cao.
Kết quả nghiên cứu cùng thống kê mô tả cho thấy các NHTM Việt Nam có thể
giảm rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời thông qua: (i) Tăng nguồn thu nhập từ các
hoạt động phi tín dụng; (ii) Bên cạnh đó, tiếp tục nâng cao nguồn thu từ các hoạt động
tín dụng; và (iii) Cơ cấu nguồn vốn hợp lý, tránh tập trung phần lớn nguồn vốn từ tiền
gửi của khách hàng.
Tuy đã đạt được một số kết quả nhất định như mục tiêu nghiên cứu ban đầu đã
đặt ra, nghiên cứu vẫn còn những hạn chế mà các nghiên cứu tiếp theo có thể khắc phục
hoặc tiếp tục triển khai thêm để có những đóng góp toàn diện hơn. Những hạn chế chủ
yếu của nghiên cứu đó là: (i) Mẫu nghiên cứu còn hạn chế; (ii) Nghiên cứu chưa tìm ra
được tỷ lệ thu nhập ngoài lãi tối ưu cho các NHTM Việt Nam; (iii) Nghiên cứu chưa
phân tích được riêng lẻ từng nguồn của thu nhập ngoài lãi lên rủi ro và khả năng sinh lời
do không có dữ liệu. Những hạn chế của đề tài này có thể là hướng nghiên cứu cho các
đề tài trong tương lai về thu nhập ngoài lãi của ngân hàng
15 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 562 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của thu nhập ngoài lãi đến rủi ro và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT Tập 8, Số 1S, 2018 118–132
118
TÁC ĐỘNG CỦA THU NHẬP NGOÀI LÃI ĐẾN RỦI RO
VÀ KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM
Nguyễn Minh Sánga, Nguyễn Thị Thùy Trangb*
aKhoa Kinh tế Quốc tế, Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam
bKhoa Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Đà Lạt, Lâm Đồng, Việt Nam
*Tác giả liên hệ: Email: trangntt@dlu.edu.vn
Lịch sử bài báo
Nhận ngày 20 tháng 04 năm 2018
Chỉnh sửa ngày 23 tháng 05 năm 2018 | Chấp nhận đăng ngày 30 tháng 05 năm 2018
Tóm tắt
Bài viết phân tích tác động của thu nhập ngoài lãi lên rủi ro và khả năng sinh lời của 26
ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam trong giai đoạn 2008-2016 bằng mô hình phân
tích dữ liệu bảng. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng thu nhập ngoài lãi không có tác động lên
rủi ro nhưng lại có tác động tích cực lên khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại
trong giai đoạn nghiên cứu. Tuy nhiên, tác động của thu nhập ngoài lãi lên rủi ro của các
ngân hàng thương mại được nghiên cứu lại không có ý nghĩa thống kê. Dựa vào kết quả
nghiên cứu, bài viết đã đưa ra một số khuyến nghị chính sách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.
Từ khóa: Khả năng sinh lời; Ngân hàng thương mại; Rủi ro; Thu nhập ngoài lãi; Việt
Nam.
Mã số định danh bài báo:
Loại bài báo: Bài báo nghiên cứu gốc có bình duyệt
Bản quyền © 2018 (Các) Tác giả.
Cấp phép: Bài báo này được cấp phép theo CC BY-NC-ND 4.0
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ]
119
IMPACTS OF NON-INTEREST INCOME ON RISKS AND
PROFITABILITY IN VIETNAM’S COMMERCIAL BANKS
Nguyen Minh Sanga, Nguyen Thi Thuy Trangb*
aThe Faculty of International Economics, University of Banking Hochiminh City,
Hochiminh City, Vietnam
bThe Faculty of Economics and Business Administration, Dalat University, Lamdong, Vietnam
*Corresponding author: Email: trangntt@dlu.edu.vn
Article history
Received: April 20th, 2018
Received in revised form: May 23rd, 2018 | Accepted: May 30th, 2018
Abstract
Using accounting data from 26 Vietnamese commercial banks over the period from 2008 to
2016, this article applies the panel data analysis method to investigate the impacts of non-
interest income on risks and profitability for Vietnam banking industry. Research results
indicate that non-interest activities of Vietnamese commercial banks increase the
profitability, but do not impact on the risks. Based on the results of this study, some
recommendations related to policies are given to enhance the operational efficiency of
Vietnam’s commercial banking system.
Keywords: Commercial banks; Non-interest income; Profitability; Risk; Vietnam.
Article identifier:
Article type: (peer-reviewed) Full-length research article
Copyright © 2018 The author(s).
Licensing: This article is licensed under a CC BY-NC-ND 4.0
Nguyễn Minh Sáng và Nguyễn Thị Thùy Trang
120
1. GIỚI THIỆU
Trong thời gian gần đây, ngành ngân hàng trên thế giới chứng kiến sự thay đổi
đáng kể của công nghệ, môi trường cạnh tranh, nhu cầu của khách hàng hay chính sách
tài chính của nhà nước. Đây chính là những nguyên nhân dẫn đến sự phát triển không
ngừng của những sản phẩm dịch vụ phi truyền thống. Từ đó, ngoài nguồn thu nhập từ
các hoạt động truyền thống như hoạt động tín dụng, các hoạt động phi truyền thống còn
mang lại cho các ngân hàng thương mại nguồn thu nhập ngoài lãi như phí dịch vụ, hoa
hồng, bảo hiểm hay chứng khoán. Nhằm đánh giá việc đa dạng hóa nguồn thu nhập như
vậy có mang lại chiều hướng phát triển tích cực cho các ngân hàng thương mại hay
không, nhiều nghiên cứu đã phân tích mối quan hệ giữa thu nhập ngoài lãi với rủi ro và
khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại.
Các nghiên cứu hiện tại trên thế giới về tác động của thu nhập ngoài lãi lên rủi
ro của các NHTM đưa ra nhiều kết luận khác nhau. Nghiên cứu của Delpachitra và
Lester (2013); Lepetit, Nys, Rous, và Tarazi (2008); Li và Zhang (2013); Maudos
(2017); và Williams (2016) đều cho rằng thu nhập ngoài lãi làm tăng rủi ro. Ngược lại,
các nghiên cứu của Nguyen, Vo, và Nguyen (2015); Saunders, Schmid, và Walter
(2014); và Singh, Upadhyay, Singh, và Singh (2016) lại kết luận rằng thu nhập ngoài lãi
từ các hoạt động phi truyền thống giúp các ngân hàng giảm được rủi ro. Bên cạnh đó,
nhiều nghiên cứu về tác động của thu nhập ngoài lãi lên khả năng sinh lời của các ngân
hàng thương mại cũng đưa ra những kết luận đa chiều. Thu nhập ngoài lãi giúp các ngân
hàng thương mại nâng cao khả năng sinh lời là kết luận được đưa ra bởi nghiên cứu của
Apergis (2014); Lê và Phạm (2017); và Saunders và ctg. (2014). Những nghiên cứu của
Edirisuriya, Gunasekarage, và Dempsey (2015); Li và Zhang (2013); Maudos (2017);
và Nguyen (2012) lại đưa ra những kết luận ngược lại. Đối với hệ thống NHTM Việt
Nam, cho đến thời điểm hiện tại chưa có nghiên cứu nào phân tích tác động của thu
nhập ngoài lãi lên đồng thời cả rủi ro và khả năng sinh lời. Chính vì thế nghiên cứu này
được thực hiện với kỳ vọng phân tích tác động của thu nhập ngoài lãi lên rủi ro và khả
năng sinh lời của hệ thống NHTM Việt Nam giai đoạn 2008-2016. Kết quả nghiên cứu
thực nghiệm cho thấy không có sự tác động của thu nhập ngoài lãi lên rủi ro trong hoạt
động của các NHTM. Trong khi đó, thu nhập ngoài lãi lại có tác động tích cực lên khả
năng sinh lời của ngân hàng.
Trong phần tiếp theo của bài viết, tác giả sẽ sơ lược các nghiên cứu trước đây về
tác động của thu nhập ngoài lãi lên rủi ro và khả năng sinh lời của các NHTM. Mục 3
trình bày về dữ liệu và phương pháp nghiên cứu. Mục 4 là kết quả của nghiên cứu thực
nghiệm và các thảo luận. Phần cuối cùng là kết luận và những hàm ý chính sách rút ra
từ nghiên cứu.
2. LƯỢC SỬ NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN GIẢ THUYẾT
Có thể thấy xu hướng hoạt động hiện nay của hệ thống NHTM trên thế giới là
đẩy mạnh đa dạng hóa nguồn thu nhập. Ngoài nguồn thu từ các hoạt động truyền thống
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ]
121
hay còn gọi là nguồn thu từ lãi suất như các hoạt động tín dụng hay các hoạt động kinh
doanh đầu tư, các NHTM còn có nguồn lợi nhuận từ hoạt động phi truyền thống hay
còn gọi là nguồn thu nhập ngoài lãi như phí dịch vụ, hoa hồng, bảo hiểm, chứng khoán.
Giá trị trung bình của tỷ lệ thu nhập ngoài lãi trên tổng thu nhập của hệ thống ngân hàng
châu Âu giai đoạn 2002-2007 là 34.1%, giai đoạn 2008-2012 là 32.4% (Maudos, 2017).
Con số này của hệ thống ngân hàng châu Á giai đoạn 1995-2009 là 65.582% (Lee,
Yang, & Chang, 2014). Nghiên cứu của Lee và ctg. (2014) cho thấy việc thay đổi cấu
trúc thu nhập là do việc tái cấu trúc thị trường tài chính châu Á, cuộc khủng hoảng tài
chính châu Á 1997-1998, mức thu nhập của từng quốc gia và đặc trưng kinh doanh của
từng loại hình ngân hàng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc thay đổi cấu trúc thu
nhập của hệ thống NHTM như sự thay đổi của môi trường cạnh tranh, công nghệ, nhu
cầu sử dụng các sản phẩm dịch vụ tài chính của người dân, vốn đầu tư nước ngoài,
chính sách tài chính hay việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, từ đó thúc đẩy các ngân
hàng mở rộng phạm vi hoạt động và đa dạng hóa những sản phẩm dịch vụ mình cung
cấp cho khách hàng.
Đối với hệ thống NHTM Việt Nam, việc đa dạng hóa thu nhập theo hướng phát
triển các sản phẩm phi truyền thống cũng đã và đang được đẩy mạnh. Môi trường cạnh
tranh trong ngành ngân hàng Việt Nam ngày càng khắc nghiệt, không chỉ cạnh tranh
giữa các NHTM trong nước mà còn cạnh tranh với các NHTM nước ngoài. Công nghệ
thay đổi thúc đẩy các NHTM thay đổi hướng hoạt động để phù hợp với nhu cầu của
khách hàng. Ngoài ra, việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng đang được nhà nước quan
tâm. Ngày 1/3/2012, Đề án cơ cấu lại các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015 được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 254/QĐ-TTg đã cho thấy định
hướng của chính phủ về việc chuyển dịch mô hình kinh doanh của các NHTM. Theo đề
án này, hệ thống NHTM Việt Nam nên giảm bớt sự tập trung vào nguồn thu từ lãi suất
của các hoạt động tín dụng và nên đẩy mạnh tìm kiếm thu nhập từ các hoạt động dịch
vụ phi tín dụng (Chính phủ, 2012).
Hiện nay đã có rất nhiều nghiên cứu về tác động của thu nhập ngoài lãi lên rủi ro
của các NHTM tuy chưa đưa ra được kết luận đồng nhất. Nghiên cứu thực nghiệm sử
dụng dữ liệu của 734 ngân hàng châu Âu từ 1996 đến 2002 của Lepetit và ctg. (2008)
kết luận rằng những ngân hàng mở rộng phạm vi vào những hoạt động phi truyền thống
có thu nhập ngoài lãi thì có mức rủi ro cao hơn những ngân hàng chỉ tập trung vào các
hoạt động truyền thống. Nghiên cứu thực nghiệm của Williams (2016) về hệ thống ngân
hàng Úc đã đưa ra kết luận rằng thu nhập ngoài lãi sẽ làm tăng rủi ro của các ngân hàng.
Phân tích xu hướng của thu nhập ngoài lãi và thu nhập từ lãi của năm ngân hàng lớn của
Anh giai đoạn 1986-2012, nghiên cứu của Jaffar, Mabwe, và Webb (2014) đã đưa ra kết
luận về mối tương quan cùng chiều giữa thu nhập ngoài lãi và rủi ro hệ thống. Bên cạnh
đó, nghiên cứu của Busch và Kick (2015) đã phân tích tác động của nguồn thu nhập từ
phí dịch vụ lên hoạt động tài chính và rủi ro của hệ thống ngân hàng Đức giai đoạn
1995-2011. Nghiên cứu đã cho thấy kết quả tổng quát là khi nguồn thu từ phí dịch vụ
tăng, rủi ro của ngân hàng sẽ tăng, đặc biệt các NHTM có mức tăng nhiều hơn các quỹ
Nguyễn Minh Sáng và Nguyễn Thị Thùy Trang
122
tiết kiệm và ngân hàng hợp tác xã. Ngược lại, nghiên cứu của Nguyen và ctg. (2015) về
rủi ro và đa dạng hóa thu nhập của hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2005-2012
đã tìm những bằng chứng cho thấy ngân hàng có thu nhập ngoài lãi cao thì có rủi ro
thấp hơn những ngân hàng tập trung chủ yếu vào thu nhập từ lãi suất.
Những nghiên cứu về mối liên hệ giữa thu nhập ngoài lãi và khả năng sinh lời
của các ngân hàng như nghiên cứu của Edirisuriya và ctg. (2015) và Nguyen (2012) đã
cho thấy thu nhập ngoài lãi gây bất lợi cho các ngân hàng trong việc tăng lợi nhuận của
mình. Ngoài ra, nghiên cứu của Lê và Phạm (2017) về ảnh hưởng của thu nhập ngoài lãi
lên hiệu quả kinh doanh của 26 ngân hàng thương mại Việt Nam từ 2006 đến 2016 lại
cho thấy khi tăng thu nhập từ các hoạt động dịch vụ, kinh doanh, đầu tư thì khả năng
sinh lời sẽ tăng. Bên cạnh đó, cũng có những nghiên cứu phân tích đồng thời cả tác
động giữa thu nhập ngoài lãi lên rủi ro cũng như tác động của thu nhập ngoài lãi lên khả
năng sinh lời của các ngân hàng.
Nhiều nghiên cứu tại các hệ thống ngân hàng khác nhau trên thế giới cho rằng tỷ
lệ thu nhập ngoài lãi cao sẽ làm tăng rủi ro và giảm khả năng sinh lời. Nghiên cứu của
Maudos (2017) đã sử dụng dữ liệu bảng từ các ngân hàng châu Âu trong khoản thời
gian 2002-2012 và phương pháp phân tích hồi quy đa biến để phân tích ảnh hưởng của
cấu trúc thu nhập lên rủi ro và khả năng sinh lời của các ngân hàng. Nghiên cứu đã cho
thấy những ngân hàng với cấu trúc thu nhập càng đa dạng thì khả năng sinh lời càng
thấp và rủi ro càng cao. Nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng được nhận thấy rõ rệt nhất là
vào khoản thời gian khủng hoảng gây ra những ảnh hưởng xấu lên hoạt động của thị
trường tài chính, từ đó ảnh hưởng lên những hoạt động ngoài lãi của ngân hàng.
Delpachitra và Lester (2013) cũng cho rằng thu nhập ngoài lãi và đa dạng hóa thu nhập
làm giảm khả năng sinh lời và tăng rủi ro dựa trên nghiên cứu thực nghiệm trên chín
ngân hàng Úc từ 2000 đến 2009 bằng phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất
(Ordinary Least Squares - OLS). Kết quả nghiên cứu của Li và Zhang (2013) lại cho
thấy thu nhập ngoài lãi có tác động tích cực lên doanh thu của ngân hàng nhưng cũng
làm tăng rủi ro cho ngành ngân hàng Trung Quốc từ 1986 đến 2008. Điều này được tác
giả lý giải là do thu nhập ngoài lãi dễ bị ảnh hưởng và có nhiều biến động tuần hoàn hơn
nguồn thu nhập từ lãi suất, nên việc tăng tỷ trọng của thu nhập ngoài lãi làm doanh thu
biên từ việc đa dạng hóa giảm, từ đó làm cho việc cân bằng giữa rủi ro và tỷ suất sinh
lợi trở nên tệ hơn. Ngược lại, cũng có những nghiên cứu đưa ra kết luận tích cực cho
các ngân hàng như nghiên cứu của Saunders và ctg. (2014). Nghiên cứu sử dụng dữ liệu
của 10,341 ngân hàng Mỹ trong giai đoạn 2002-2013 và đã chỉ ra rằng tỷ lệ thu nhập
ngoài lãi cao có mối liên hệ đến việc tăng khả năng sinh lời và giảm rủi ro của các ngân
hàng.
Bên cạnh đó, nghiên cứu của Singh và ctg. (2016) về hệ thống ngân hàng Ấn Độ
giai đoạn 2003-2013 lại cho thấy thu nhập ngoài lãi có mối quan hệ ngược chiều với cả
doanh thu và rủi ro, chính vì vậy, các ngân hàng Ấn Độ ít có xu hướng đa dạng hóa thu
nhập theo hướng thu nhập ngoài lãi. Nghiên cứu của Lee và ctg. (2014) về tác động của
thu nhập ngoài lãi lên khả năng sinh lời và rủi ro của 967 ngân hàng châu Á đã cho thấy
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ]
123
những hoạt động ngoài lãi mang lại rủi ro thấp hơn nhưng không giúp ngân hàng tăng
lợi nhuận. Nghiên cứu thực nghiệm của Apergis (2014) về 1725 ngân hàng Mỹ giai
đoạn 2000-2013 lại tìm ra rằng những hoạt động phi truyền thống của ngân hàng có mối
quan hệ cùng chiều với cả lợi nhuận và rủi ro.
Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, chưa có nghiên cứu thực nghiệm nào về
tác động của thu nhập ngoài lãi đến rủi ro và khả năng sinh lời của hệ thống NHTM
Việt Nam. Chính vì thế, nghiên cứu này được thực hiện với kỳ vọng phân tích tác động
của thu nhập ngoài lãi đến rủi ro và khả năng sinh lời của hệ thống NHTM Việt Nam
với giả thuyết thu nhập ngoài lãi có tác động tích cực lên rủi ro cũng như khả năng sinh
lời của hệ thống NHTM Việt Nam.
3. DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Nguồn dữ liệu
Nguồn số liệu của bài viết được lấy từ báo cáo thường niên của 26 NHTM Việt
Nam giai đoạn 2008-2016 và số liệu chính thức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
cùng với các nguồn dữ liệu chính thống khác.
3.2. Mô hình nghiên cứu thực nghiệm
Các biến được sử dụng trong nghiên cứu dựa trên nền tảng nghiên cứu của Lee
và ctg. (2014) để phân tích tác động của thu nhập ngoài lãi đến rủi ro và khả năng sinh
lời của hệ thống NHTM Việt Nam và được miêu tả chi tiết trong Bảng 1. Nghiên cứu
này sử dụng hai mô hình: Mô hình tác động cố định (Fixed effects model) và Mô hình
tác động ngẫu nhiên (Random effects model). Tác giả sử dụng kiểm định Hausman để
lựa chọn phương pháp ước lượng phù hợp.
Bảng 1. Mô tả chi tiết các biến trong mô hình hồi quy
Ghi chú: A) Dấu kỳ vọng lên rủi ro; B) Dấu kỳ vọng lên khả năng sinh lời.
Biến Ý nghĩa Dữ liệu thu thập A Nghiên cứu B Nghiên cứu
Biến phụ thuộc
SDROA
Độ lệch chuẩn của
ROA thể hiện rủi ro
Độ lệch chuẩn của
ROA ba năm liền kề
SDROE
Độ lệch chuẩn của
ROE thể hiện rủi ro
Độ lệch chuẩn của
ROE ba năm liền kề
ROA
Suất sinh lời trên tổng
tài sản bình quân thể
hiện khả năng sinh lời
Lợi nhuận sau thuế
/Tổng tài sản bình
quân
ROE
Suất sinh lời trên vốn
chủ sở hữu thể hiện
khả năng sinh lời
Vốn chủ sở hữu/
Tổng tài sản bình
quân
Nguyễn Minh Sáng và Nguyễn Thị Thùy Trang
124
Bảng 1. Mô tả chi tiết các biến trong mô hình hồi quy (tiếp theo)
Biến kiểm soát
Loans
Tỷ lệ dư nợ tín dụng
trên tổng tài sản thể
hiện quy mô hoạt
động tín dụng
Cho vay khách
hàng ròng /
Tổng tài sản
+
Mercieca,
Schaeck, và
Wolfe (2007);
Stiroh và Rumble
(2006)
+
Mercieca,
Schaeck, và
Wolfe (2007);
Stiroh và
Rumble
(2006)
Deposits
Tỷ lệ tiền gửi khách
hàng trên tổng tài sản
thể hiện quy mô tiền
gửi
Tổng tiền gửi
khách hàng /
Tổng tài sản
+
Haw, Ho, Hu, và
Wu (2010)
+ Shiers (2002)
Equity
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu
trên tổng tài sản thể
hiện cơ cấu nguồn vốn
Vốn chủ sở hữu/
Tổng tài sản
+
Mercieca và ctg.
(2007); Stiroh và
Rumble (2006)
+
Mercieca và
ctg. (2007);
Stiroh và
Rumble
(2006)
LLP
Tỷ lệ chi phí dự phòng
rủi ro tín dụng trên
tổng tài sản thể hiện
chất lượng tài sản của
ngân hàng
Dự phòng rủi ro
nợ xấu /Cho vay
khách hàng
/
Berger, Hasan, và
Zhou (2010)
/
Berger, Hasan,
và Zhou
(2010)
SIZE
Logarit tự nhiên của
tổng tài sản thể hiện
quy mô của ngân hàng
Logarit tự nhiên
của tổng tài sản
-
Haw và ctg.
(2010); Stiroh và
Rumble (2006)
+
Haw và ctg.
(2010);
Mercieca và
ctg. (2007); và
Stiroh và
Rumble
(2006)
∆TA
Mức tăng tổng tài sản
hàng năm
Tổng tài sản
năm sau/Tổng
tài sản năm
trước - 1
-
Lepetit và ctg.
(2008); Mercieca
và ctg. (2007); và
Stiroh và Rumble
(2006)
+
Lepetit và ctg.
(2008);
Mercieca và
ctg. (2007); và
Stiroh và
Rumble
(2006)
Ghi chú: A) Dấu kỳ vọng lên rủi ro; B) Dấu kỳ vọng lên khả năng sinh lời.
Biến Ý nghĩa Dữ liệu thu thập A Nghiên cứu B Nghiên cứu
Biến độc lập
NNII
Biến đo lường thu
nhập ngoài lãi
Tỷ lệ giữa thu
nhập ngoài lãi
trên lời nhuận
ròng từ kinh
doanh
+
Delpachitra và
Lester (2013);
Lepetit và ctg.
(2008); Li và Zhang
(2013); Maudos
(2017); và Williams
(2016)
+
Apergis
(2014); Lê
và Phạm
(2017); và
Saunders
và ctg.
(2014)
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ]
125
Biến phụ thuộc trong nghiên cứu này là Rủi ro hoặc Khả năng sinh lời. Rủi ro
của ngân hàng được đo lường bằng SDROA (Standard Deviation Return on Asset - Độ
lệch chuẩn tỷ suất lợi nhuận trên tài sản) và SDROE (Standard Deviation Return on
Equity - Độ lệch chuẩn tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu). Khả năng sinh lời của
ngân hàng được đo lường bằng ROA (Return on Assets - Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản)
và ROE (Return on Equity - Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu). Biến độc lập được
sử dụng trong nghiên cứu để đo lường mức độ ảnh hưởng của thu nhập ngoài lãi lên rủi
ro và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại là NNII. NNII là tỷ lệ giữa thu
nhập ngoài lãi trên lợi nhuận ròng từ kinh doanh. Thu nhập ngoài lãi bao gồm: Thu
nhập ròng từ hoạt động kinh doanh và các sản phẩm tài chính phái sinh; Thu nhập ròng
từ chứng khoán khác; Thu nhập từ bảo hiểm; Thu nhập từ phí và hoa hồng; và Những
nguồn thu nhập khác. Biến kiểm soát gồm có: Loans (tỷ lệ dư nợ tín dụng trên tổng tài
sản); Deposits (tỷ lệ tiền gửi khách hàng trên tổng tài sản); Equity (tỷ lệ vốn chủ sở hữu
trên tổng tài sản); LLP (tỷ lệ chi phí dự phòng rủi ro tín dụng trên tổng tài sản); Size
(Logarit tự nhiên của tổng tài sản thể hiện quy mô của ngân hàng); và ∆TA (Mức tăng
tổng tài sản). Từ các biến trên, nghiên cứu xây dựng mô hình hồi quy như công thức (1)
và (2).
titititi
tititititi
uTASizeLLP
EquityDepositLoansNNIISDROESDROA
,,7,6,5
,4,3,2,1,
***
****)(
(1)
titititi
tititititi
uTASizeLLP
EquityDepositLoansNNIIROEROA
,,7,6,5
,4,3,2,1,
***
****)(
(2)
Dữ liệu trong nghiên cứu là dữ liệu thời gian theo năm được thu thập từ báo cáo
tài chính hàng năm của 26 NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2008-2016. Do dữ liệu vừa
theo thời gian và vừa theo không gian nên phương pháp hồi quy với dữ liệu bảng được
sử dụng trong nghiên cứu này. Đối với phân tích bằng dữ liệu bảng, ta có thể sử dụng
hai mô hình là: Mô hình tác động cố định (Fixed Effects Model - FEM) và Mô hình tác
động ngẫu nhiên (Random Effects Model - REM). Để phân tích được ảnh hưởng của các
yếu tố bên trong và bên ngoài ngân hàng tác động lên rủi ro và khả năng sinh lời, nghiên
cứu tiến hành ước lượng lần lượt cả hai mô hình trên, sau đó sử dụng kiểm định
Hausman để lựa chọn phương pháp ước lượng phù hợp.
4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. Thống kê mô tả
Bảng 2 liệt kê các thông số của các biến nghiên cứu với tổng số quan sát là 182
quan sát (26 NHTM trong 7 năm). Kết quả thống kê mô tả cho thấy tỷ lệ thu nhập ngoài
lãi trên lợi nhuận ròng từ kinh doanh (NNII) trung bình của 26 NHTM trong mẫu
nghiên cứu đạt 0.0699451, trong đó ngân hàng có NNII thấp nhất -0.08, ngân hàng có
NNII cao nhất đạt 0.41. Biến kiểm soát có giá trị trung bình cao nhất là biến thể hiện
Nguyễn Minh Sáng và Nguyễn Thị Thùy Trang
126
quy mô ngân hàng (SIZE) đạt 18.2433 và biến kiểm soát có giá trị nhỏ nhất là biến Tỷ
lệ chi phí dự phòng rủi ro tín dụng trên tổng tài sản (LLP) đạt 0.0076374.
Bảng 2. Các thông số thống kê mô tả được sử dụng
Nguồn: Tổng hợp của tác giả.
4.2. Tác động của thu nhập ngoài lãi đến rủi ro và khả năng sinh lời
Nghiên cứu tiến hành ước lượng lần lượt hai mô hình FEM và mô hình REM,
sau đó sử dụng kiểm định Hausman để lựa chọn phương pháp ước lượng phù hợp. Đối
với việc đo lường tác động của các biến độc lập lên rủi ro (SDROA và SDROE), kết
quả ước lượng với mô hình FEM (Bảng 3) cho thấy chỉ có biến Loans có ý nghĩa thống
kê trong mối tương quan với biến phụ thuộc SDROA. Bên cạnh đó, biến LLP, Size và
∆TA có ý nghĩa thống kê trong mối tương quan với biến phụ thuộc SDROE, trong đó
chỉ có LLP có mối tương quan dương. Trong khi đó, kết quả ước lượng với mô hình
REM (Bảng 3), ta có kết quả khá khác biệt so với kết quả từ mô hình FEM. Chỉ có biến
Loans và Equity có ý nghĩa thống kê trong mối tương quan với biến phụ thuộc SDROA.
Trong khi đó, biến NNII, Loans và ∆TA có ý nghĩa thống kê trong mối tương quan với
biến phụ thuộc SDROE, trong đó chỉ có NNII có mối tương quan dương. Về tác động
của các biến độc lập lên khả năng sinh lời (ROA và ROE), kết quả ước lượng với mô
hình FEM (Bảng 3) cho thấy các biến LLP và Size không có ý nghĩa thống kê khi xét
mối tương quan với ROA.
Biến Tổng số quan sát Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất
SDROA 182 0.0013736 0.0047921 0.00 0.03
SDROE 182 0.0286264 0.0536490 0.00 0.42
ROA 182 0.0073626 0.0084533 -0.06 0.05
ROE 182 0.0789011 0.0892566 -0.82 0.27
NNII 182 0.0699451 0.0637805 -0.08 0.41
Loans 182 0.5128022 0.1296973 0.15 0.73
Deposits 182 0.6139011 0.1345286 0.25 0.89
Equity 182 0.1002747 0.0444914 0.04 0.26
LLP 182 0.0076374 0.0046324 0.00 0.02
SIZE 182 18.243300 1.0978580 15.92 20.73
∆TA 182 0.2403297 0.2959859 -0.39 1.47
Bảng 3. Kết quả ước lượng mô hình FEM và REM
Biến
Rủi ro Khả năng sinh lời
SDROA SDROE ROA ROE
FEM (1) REM (2) FEM (3) REM (4) FEM (5) REM (6) FEM (7) REM (8)
NNII 0.0069056
(0.241)
0.0083245
(0.132)
0.0707956
(0.288)
0.1055006*
(0.096)
0.0251404***
(0.007)
0.02126***
(0.009)
0.1529536
(0.119)
0.1501983*
(0.088)
Loans -0.0100632*
(0.071)
-0.0090042**
(0.046)
-0.0952378
(0.131)
-0.0980152*
(0.057)
0.0263343***
(0.002)
0.0190204***
(0.001)
0.2839554***
(0.002)
0.1922766***
(0.002)
Deposits 0.0004811
(0.906)
-0.0022199
(0.533)
0.0265997
(0.566)
-0.0124493
(0.760)
-0.0253854***
(0.000)
-0.0160937***
(0.003)
-0.2408169***
(0.001)
-0.1436907**
(0.015)
Equity 0.0243625
(0.124)
0.0284948**
(0.039)
0.0768542
(0.667)
0.1393308
(0.378)
0.0667148***
(0.001)
0.0781683***
(0.000)
-0.0276812
(0.900)
0.1117553
(0.565)
LLP 0.1170443
(0.206)
0.0947084
(0.275)
1.765221*
(0.093)
1.484132
(0.137)
-0.0884613
(0.537)
-0.0206308
(0.876)
-0.9106762
(0.549)
-0.0486359
(0.973)
Size -0.0017223
(0.170)
-0.000018
(0.658)
-0.0313151**
(0.028)
-0.0075665
(0.349)
0.0015884
(0.303)
0.0019941**
(0.011)
0.0190247
(0.245)
0.0297042***
(0.001)
∆TA -0.0000678
(0.957)
0.0089448
(0.988)
-0.0241995*
(0.088)
-0.0247089*
(0.075)
0.0035166**
(0.035)
0.0040227**
(0.014)
0.0515794***
(0.004)
0.0548838***
(0.001)
N 182 182 182 182 182 182 182 182
R2 0.1533 0.1428 0.1408 0.1174 0.2958 0.2857 0.1747 0.1586
Ghi chú: *, **, *** mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%.
Nguồn: Tính toán từ dữ liệu của đề tài nghiên cứu.
1
2
7
T
Ạ
P
C
H
Í K
H
O
A
H
Ọ
C
Đ
Ạ
I H
Ọ
C
Đ
À
L
Ạ
T
[C
H
U
Y
Ê
N
S
A
N
K
IN
H
T
Ế
V
À
Q
U
Ả
N
L
Ý
]
Nguyễn Minh Sáng và Nguyễn Thị Thùy Trang
128
Trong khi đó, các biến NNII, Loans, Deposits, Equity và ∆TA có ý nghĩa thống
kê trong mối tương quan với biến phụ thuộc ROA, trong đó chỉ có biến Deposits có mối
quan hệ nghịch chiều với ROA. Các biến NNII, Equity, LLP, Size không có ý nghĩa
thống kê khi xét mối tương quan với ROE. Biến Loans và ∆TA có mối quan hệ cùng
chiều và biến Deposits có mối quan hệ nghịch chiều với biến phụ thuộc ROE.
Kết quả ước lượng với mô hình REM (Bảng 3) cũng có kết quả gần tương tự với
kết quả của ước lượng với mô hình FEM. Chỉ có biến LLP không có ý nghĩa thống kê
khi xét mối tương quan với ROA. Trong khi đó, các biến NNII, Loans, Deposits,
Equity, Size và ∆TA có ý nghĩa thống kê trong mối tương quan với biến phụ thuộc
ROA, trong đó chỉ có biến Deposits có mối quan hệ nghịch chiều với ROA. Các biến
Equity và LLP, Size cũng không có ý nghĩa thống kê khi xét mối tương quan với ROE.
Biến NNII, Loans, Size và ∆TA có mối quan hệ cùng chiều và biến Deposits có mối
quan hệ nghịch chiều với biến phụ thuộc ROE.
Sau khi có kết quả ước lượng từ hai mô hình FEM và REM, nghiên cứu tiếp tục
tiến hành kiểm định Hausman với các giả thuyết:
H0: Không có tương quan giữa các biến giải thích và thành phần ngẫu
nhiên (Mô hình REM là phù hợp).
H1: Có tương quan giữa các biến giải thích và thành phần ngẫu nhiên (Mô
hình FEM là phù hợp)
Kết quả kiểm định Hausman cho thấy: Đối với mô hình xét mối tương quan giữa
các biến độc lập với SDROA và SDROE, giá trị p-value lần lượt là 0.554 và không
kiểm định được. Nên ta chấp nhận giả thuyết H0, tức mô hình REM trong mô hình
tương quan với SDROA phù hợp hơn để nghiên cứu. Đối với mô hình xét mối tương
quan giữa các biến độc lập với ROA và ROE, giá trị p-value của kiểm định Hausman
lần lượt là 0.0016 và 0.000 nên ta chấp nhận giả thuyết H1, tức mô hình FEM phù hợp
hơn để nghiên cứu.
Dựa vào kết quả ước lượng trên, nghiên cứu sẽ sử dụng kết quả hồi quy từ Cột 2
(Bảng 3) để nghiên cứu tác động của thu nhập ngoài lãi lên rủi ro (SDROA), kết quả ở
Cột 5 và Cột 7 (Bảng 3) để nghiên cứu ảnh hưởng của thu nhập ngoài lãi lên khả năng
sinh lời (ROE và ROA).
4.3. Thảo luận
Dựa trên kết quả phân tích hồi quy, ta có thể thấy được tác động của thu nhập
ngoài lãi cũng như các yếu tố khác lên rủi ro và khả năng sinh lời của các NHTM Việt
Nam. Về tác động của thu nhập ngoài lãi lên rủi ro, kết quả hồi quy cho thấy không có
sự tương quan giữa thu nhập ngoài lãi và rủi ro của hệ thống NHTM Việt Nam (Bảng 3,
Cột 2). Điều này bác bỏ giả thuyết nghiên cứu được đưa ra ở Mục 2. Bên cạnh đó, tỷ lệ
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ]
129
dư nợ tín dụng trên tổng tài sản phản ánh quy mô của hoạt động tín dụng có tác động
ngược chiều với rủi ro của các NHTM Việt Nam với mức ý nghĩa 1% (Bảng 3, Cột 2).
Quy mô tín dụng càng lớn, ngân hàng càng nâng cao được chất lượng và hiệu quả hoạt
động của mình, từ đó làm giảm rủi ro. Đồng thời, tỷ lệ vốn chủ sở hữu so với tổng tài
sản cũng có tác động cùng chiều lên rủi ro của các NHTM (Bảng 3, Cột 2).
Về tác động của thu nhập ngoài lãi lên khả năng sinh lời, kết quả hồi quy cho
thấy thu nhập ngoài lãi có tác động cùng chiều lên khả năng sinh lời của hệ thống
NHTM Việt Nam (Bảng 3, Cột 5 và Cột 7). Điều này đúng với giả thuyết nghiên cứu
được đưa ra từ Mục 2. Kết quả này cho thấy nguồn thu từ các hoạt động phi tín dụng
càng cao sẽ giúp các NHTM tăng doanh thu cũng như hiệu quả hoạt động. Các nghiên
cứu thực nghiệm trước đó của Apergis (2014); Saunders và ctg. (2014) đều về hệ thống
ngân hàng Mỹ cũng ủng hộ kết quả này. Bên cạnh đó, tỷ lệ dư nợ tín dụng trên tổng tài
sản cũng có tác động cùng chiều khả năng sinh lời của ngân hàng cho thấy khi quy mô
tín dụng càng lớn, khả năng sinh lời của ngân hàng càng cao (Bảng 3, Cột 5 và Cột 7).
Kết luận này tương tự với nhiều nghiên cứu trước đây như nghiên cứu của Mercieca và
ctg. (2007) hay Stiroh và Rumble (2006). Tỷ lệ tiền gửi của khách hàng so với tổng tài
sản lại có tác động ngược chiều lên cả hai chỉ số đo lường khả năng sinh lời (Bảng 3,
Cột 5 và Cột 7). Lượng tiền gửi vào ngân hàng càng tăng, ngân hàng càng tốn nhiều chi
phí trả cho khách hàng như lãi suất tiền gửi, do đó làm giảm doanh thu của các NHTM.
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu so với tổng tài sản có tác động cùng chiều lên chỉ số ROA của các
NHTM Việt Nam (Bảng 3, Cột 5 và Cột 7). Tỷ lệ vốn chủ sở hữu tăng đồng nghĩa với
việc các ngân hàng có thêm nguồn lực để hoạt động cũng như đầu tư sinh lời, từ đó tăng
khả năng sinh lời của mình. Kết quả này cũng được ủng hộ trong nghiên cứu của
Mercieca và ctg. (2007) và Stiroh và Rumble (2006). Tương tự, mức tăng tổng tài sản
cũng có tác động cùng chiều lên ROA và ROE với mức ý nghĩa 1% (Bảng 3, Cột 5 và
Cột 7). Mức tăng tổng tài sản càng cao chứng tỏ ngân hàng có nhiều nguồn lực để hoạt
động và đầu tư sinh lời. Các nghiên cứu của Lepetit và ctg. (2008); Mercieca và ctg.
(2007); và Stiroh và Rumble (2006) cũng có kết quả tương tự.
5. KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH
Nghiên cứu đã sử dụng tỷ lệ giữa thu nhập ngoài lãi trên lợi nhuận ròng từ kinh
doanh (NNII) để đo lường tác động của thu nhập ngoài lãi lên rủi ro và khả năng sinh
lời của 26 NHTM Việt Nam giai đoạn 2008-2016. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn đo
lường sự tương tác của tỷ lệ dư nợ tín dụng, tỷ lệ tiền gửi khách hàng, tỷ lệ vốn chủ sở
hữu, tỷ lệ chi phí dự phòng rủi ro tín dụng, quy mô ngân hàng và mức tăng tổng tài sản
hàng năm với rủi ro và khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam.
Kết quả ước lượng với mô hình FEM và mô hình REM cho thấy sự tác động của
thu nhập ngoài lãi lên rủi ro trong hoạt động của các NHTM là không đáng kể. Trong
khi đó, thu nhập ngoài lãi lại có tác động tích cực lên khả năng sinh lời của ngân hàng,
điển hình ở đây là chỉ số ROA. Điều này là một tín hiệu tốt cho các ngân hàng muốn đa
Nguyễn Minh Sáng và Nguyễn Thị Thùy Trang
130
dạng hóa nguồn thu nhập của mình, đặc biệt là thu nhập ngoài lãi từ các hoạt động phi
truyền thống để nâng cao năng lực cạnh tranh, hạn chế rủi ro và tăng lợi nhuận.
Bên cạnh đó, các kết quả nghiên cứu thực nghiệm còn cho thấy tác động ngược
chiều của quy mô hoạt động tín dụng lên rủi ro và tác động tích cực của nó lên khả năng
sinh lời của các ngân hàng, có thể thấy hoạt động tín dụng vẫn là nguồn thu quan trọng
của các NHTM Việt Nam hiện nay. Kết quả phân tích cũng cho thấy tác động tiêu cực
của quy mô tiền gửi khách hàng lên khả năng sinh lời của NHTM, trong khi đó, vốn chủ
sở hữu lại có tương quan cùng chiều với cả rủi ro và khả năng sinh lời của các NHTM.
Đây là cơ sở để các ngân hàng cẩn trọng hơn trong việc cơ cấu nguồn vốn hoạt động
của mình. Bên cạnh đó, kết quả còn cho thấy mức tăng tổng tài sản của các NHTM hàng
năm càng cao, khả năng sinh lời càng cao.
Kết quả nghiên cứu cùng thống kê mô tả cho thấy các NHTM Việt Nam có thể
giảm rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời thông qua: (i) Tăng nguồn thu nhập từ các
hoạt động phi tín dụng; (ii) Bên cạnh đó, tiếp tục nâng cao nguồn thu từ các hoạt động
tín dụng; và (iii) Cơ cấu nguồn vốn hợp lý, tránh tập trung phần lớn nguồn vốn từ tiền
gửi của khách hàng.
Tuy đã đạt được một số kết quả nhất định như mục tiêu nghiên cứu ban đầu đã
đặt ra, nghiên cứu vẫn còn những hạn chế mà các nghiên cứu tiếp theo có thể khắc phục
hoặc tiếp tục triển khai thêm để có những đóng góp toàn diện hơn. Những hạn chế chủ
yếu của nghiên cứu đó là: (i) Mẫu nghiên cứu còn hạn chế; (ii) Nghiên cứu chưa tìm ra
được tỷ lệ thu nhập ngoài lãi tối ưu cho các NHTM Việt Nam; (iii) Nghiên cứu chưa
phân tích được riêng lẻ từng nguồn của thu nhập ngoài lãi lên rủi ro và khả năng sinh lời
do không có dữ liệu. Những hạn chế của đề tài này có thể là hướng nghiên cứu cho các
đề tài trong tương lai về thu nhập ngoài lãi của ngân hàng.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
Apergis, N. (2014). The long-term role of non-traditional banking in profitability and
risk profiles: Evidence from a panel of U.S. banking institutions. Journal of
International Money, 45, 61-73.
Berger, A., Hasan, I., & Zhou, M. (2010). The effects of focus versus diversification on
bank performance: Evidence from Chinese banks. Journal of Banking &
Finance, 34, 1417-1435.
Busch, R., & Kick, T. (2015). Income structure and bank business models: Evidence on
performance and stability from the German banking industry. Schmalenbach
Business Review, 67(2), 226-253.
Chính phủ. (2012). Quyết định phê duyệt đề án "Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín
dụng gia đoạn 2011-2015". Hà Nội, Việt Nam: Văn phòng Chính phủ.
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ]
131
Delpachitra, S., & Lester, L. (2013). Non-interest income: Are Australian banks moving
away from their traditional businesses? Economics Papers, 32, 190-199.
Edirisuriya, P., Gunasekarage, A., & Dempsey, M. (2015). Australian specific bank
features and the impact of income diversification on bank performance and risk.
Australian Economic Papers, 54(2), 63-87.
Haw, I., Ho, S., Hu, B., & Wu, D. (2010). Concentrated control, institutions, and
banking sector: An international study. Journal of Banking and Finance, 34,
485-497.
Jaffar, K., Mabwe, K., & Webb, R. (2014). Changing bank income structure: Evidence
from large UK banks? Asian Journal of Finance & Accounting, 6, 195-215.
Lê, H. L., & Phạm, Q. X. (2017). Ảnh hưởng của thu nhập ngoài lãi đến hiệu quả kinh
doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2006-2016. Tạp chí
Ngân hàng, (9), 13-17.
Lee, C., Huang, W., & Yin, C. (2013). The dynamic interactions among the stock, bond
and insurance markets. North American Journal of Economics and Finance, 26,
28-52.
Lee, C. C., Yang, S. J., & Chang, C. H. (2014). Non-interest income, profitability, and
risk in banking industry: A cross-country analysis. North American Journal of
Economics and Finance, 27, 48-67.
Lepetit, L., Nys, E., Rous, P., & Tarazi, A. (2008). Bank income structure and risk: An
empirical analysis of European banks. Journal of Banking & Finance, 32, 1452-
1467.
Li, L., & Zhang, Y. (2013). Are there diversification benefits of increasing noninterest
income in the Chinese banking industry? Journal of Empirical Finance, 24, 151-
165.
Maudos, J. (2017). Income structure, profitability and risk in the European banking
sector: The impact of the crisis. Research in International Business and Finance,
39, 85-101.
Mercieca, S., Schaeck, K., & Wolfe, S. (2007). Small European banks: Benefits from
diversification? Journal of Banking & Finance, 31, 1975-1998.
Nguyen, C. T., Vo, D. V., & Nguyen, C. (2015). Risk and income diversification in the
Vietnamese banking system. Journal of Applied Finance & Banking, 5, 99-115.
Nguyen, J. (2012). The relationship between net interest margin and noninterest income
using a system estimation approach. Journal of Banking & Finance, 36, 2429-
2437.
Saunders, A., Schmid, M., & Walter, I. (2014). Non-interest income and bank
performance: Does ring-fencing reduce bank risk? (Working Paper No. 1417).
Nguyễn Minh Sáng và Nguyễn Thị Thùy Trang
132
Retrieved from https://ideas.repec.org/p/usg/sfwpfi/201417.html.
Shiers, A. (2002). Branch banking, economic diversity and bank risk. The Quarterly
Review of Economics and Finance, 42, 587-598.
Singh, K., Upadhyay, Y., Singh, S., & Singh, A. (2016). Impact of non-interest income
on risk and profitability of banks in India. Annual International Seminar
Proceedings, 17, 997-1007.
Stiroh, K., & Rumble, A. (2006). The dark side of diversification: The case of US
financial holding companies. Journal of Banking & Finance, 30(8), 2131-2161.
Williams, B. (2016). The impact of non-interest income on bank risk in Australia.
Journal of Banking & Finance, 73, 16-37.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tac_dong_cua_thu_nhap_ngoai_lai_den_rui_ro_va_kha_nang_sinh.pdf