Kết luận và hàm ý chính sách
Kết quả thực nghiệm của bài viết cho thấy
nguồn thu thuế GTGT làm tăng thêm tình trạng
bất bình đẳng thu nhập tại các nước ASEAN
đối với quy mô mẫu chung. Tuy nhiên, khi thực
hiện hồi quy với quy mô mẫu được chia theo tứ
phân vị, kết quả đã cho thấy tác động của thuế
GTGT đến bất bình đẳng thu nhập là khác biệt
giữa quốc gia có bất bình đẳng thu nhập cao
và quốc gia bất bình đẳng thu nhập thấp. Cụ
thể hơn, thuế GTGT tác động cùng chiều với
bất bình đẳng thu nhập tại quốc gia có bất bình
đẳng thu nhập thấp. Tuy nhiên, các quốc gia có
bất bình đẳng thu nhập cao thì thuế GTGT có
tác động giúp giảm bất bình đẳng thu nhập. Dựa
trên phát hiện thú vị này, bài viết đưa ra các
hàm ý chính sách như sau:
Thứ nhất, các quốc gia muốn đạt được mục
tiêu công bằng trong thu nhập thì không nên
dựa vào nguồn thu từ thuế GTGT bởi vì tính
lũy thoái của thuế GTGT sẽ làm cho gánh nặng
thuế trở nên quá lớn đối với người có thu nhập
thấp. Thay vào đó, các quốc gia nên tập trung
vào việc kiểm soát thu nhập tốt hơn để gia tăng
cơ sở thu thuế đánh vào thu nhập sẽ hiệu quả
hơn.
Thứ hai, Chính phủ các quốc gia có chênh
lệch bất bình đẳng thu nhập thấp hoàn toàn có
thể sử dụng công cụ thuế GTGT để thực thi
công bằng trong thu nhập bằng cách thay đổi
chính sách thuế theo hướng đưa vào các khoản
giảm trừ, miễn thuế cho các đối tượng có thu
nhập thấp. Tuy nhiên, điều này tương đối khó
thực hiện vì vấn đề kiểm soát đối tượng cuối
cùng tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ là phức tạp.
Thay vào đó, Chính phủ các quốc gia này nên
chủ động khai thác nguồn thu thuế từ các khoản
thuế mang tính điều tiết trực tiếp thu nhập hơn
là dựa vào các khoản thu thuế gián thu trong đó
có thuế GTGT
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 384 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của thuế giá trị gia tăng đến bất bình đẳng thu nhập tại các nước Asean, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 54, 12/2019
_______________________________________________________________________
1 Trường Đại học Kinh tế TP.HCM
TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ GTGT ĐẾN
BẤT BÌNH ĐẲNG THU NHẬP TẠI CÁC NƯỚC ASEAN
THE IMPACT OF VAT ON INCOME INEQUALITY IN ASEAN
Đặng Văn Cường1
Ngày nhận bài: 28/5/2019 Ngày chấp nhận đăng: 16/9/2019 Ngày đăng: 05/12/2019
Tóm tắt
Bài viết nhằm tìm kiếm bằng chứng thực nghiệm về sự tác động của thuế Giá trị gia tăng (GTGT)
đến sự bất bình đẳng thu nhập tại các quốc gia ASEAN. Sử dụng phương pháp ước lượng dành cho
dữ liệu bảng, kết quả cho thấy thuế GTGT tác động làm gia tăng sự bất bình đẳng nói chung tại các
quốc gia khảo sát. Sau đó, bài viết sử dụng hồi quy phân vị phân chia mẫu thành hai nhóm: quốc gia
có bất bình đẳng thu nhập thấp và quốc gia có bất bình đẳng thu nhập cao. Khi thực hiện hồi quy
với quy mô mẫu được chia theo tứ phân vị, kết quả đã cho thấy tác động của thuế GTGT đến bất
bình đẳng thu nhập là khác biệt giữa quốc gia có bất bình đẳng thu nhập cao và quốc gia bất bình
đẳng thu nhập thấp. Cụ thể hơn, thuế GTGT tác động làm tăng bất bình đẳng thu nhập tại quốc gia
có bất bình đẳng thu nhập thấp, trong khi đó, các quốc gia có bất bình đẳng thu nhập cao thì thuế
GTGT có tác động giúp giảm bất bình đẳng thu nhập.
Từ khóa: Thuế GTGT, Bất bình đẳng thu nhập, ASEAN.
Abstract
The paper aims to find empirical evidence of the impact of Value Added Tax (VAT) on income
inequality in ASEAN countries. Using the estimation methods for panel, the results show that the
impact of VAT increases the overall inequality in the surveyed countries. Then, the paper uses the
quaternary regression to divide the sample into two groups: low income inequality countries and
high income inequality countries. The results of quantile regression show that the impact of VAT on
income inequality is the difference between conutries with high income inequality and low income
inequality. Specificall , VAT impacts positively income inequality in countries with low income
inequality, while VAT is strong enough to reduce income inequality in high income inequality
countries.
Key words: Value Add Tax, income inequality, ASEAN
1. Dẫn nhập
Thuế là nguồn thu chính tại các quốc gia
trên thế giới. Tại Việt Nam, nguồn thu thuế ước
tính đóng góp gần 90% (986.6 nghìn tỉ đồng)
tổng thu ngân sách của Chính phủ vào năm
2017 (IMF, 2018). Tương tự, theo Thời báo
Kinh tế Malaysia (2016), nguồn thu của Chính
phủ Malaysia chủ yếu đến từ nguồn thu thuế,
ước tính thuế đóng góp 81,3% tổng thu nhập
của chính phủ nước này trong năm 2016. Ngoài
2Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 54, 12/2019
trò của thuế thu nhập tác động đến việc thu hẹp
sự bất bình đẳng thu nhập là không rõ ràng.
Vấn đề bất bình đẳng thu nhập đang là một
trong những thách thức đang tồn tại ở một số
nước ASEAN khi mà chỉ số GINI do Worldbank
cung cấp luôn ở mức cao (Worldbank, 2018).
Trước sức ép đó, Chính phủ các quốc gia này
luôn cân nhắc đến việc tìm cách giảm bất bình
đẳng thu nhập mỗi khi có sự thay đổi trong
chính sách thuế. Nhưng minh chứng thực
nghiệm về vấn đề này còn tương đối ít, mà cụ
thể là nghiên cứu về sự tác động của thuế
GTGT đến bất bình đẳng thu nhập chưa được
tìm thấy tại các quốc gia này. Bên cạnh đó, cả
Bird & Zolt (2004) và Heady (2001) đều cho
rằng thuế gián thu, đặc biệt là thuế GTGT, có
thể là một trong những giải pháp nhằm kiểm
soát bất bình đẳng thu nhập ở các nước Đông
Nam Á. Vì vậy, bài viết này được tiến hành
nhằm tìm kiếm bằng chứng thực nghiệm về sự
tác động của thuế GTGT đến bất bình đẳng thu
nhập tại các quốc gia này. Tác giả cho rằng kết
quả của nghiên cứu này sẽ cung cấp thông tin
hữu ích để các nhà hoạch định chính sách tham
khảo trong việc đưa ra các quyết định về chính
sách thuế GTGT trong tương lai.
2. Khung phân tích
2.1. Giả thuyết nghiên cứu
Thuế GTGT được quan tâm đến vì nó ảnh
hưởng đối với phân phối thu nhập của người
dân (Tait, 1991). Thuế GTGT được tính khi
tiêu dùng, do đó, nó được cho là có ảnh hưởng
nhiều hơn đối nhóm thu nhập thấp vì họ phải
trả một tỷ lệ thuế cao hơn so với người có thu
nhập cao (tính lũy thoái của thuế gián thu).
Dựa trên lập luận này, các khoản thuế lũy tiến
như thuế thu nhập cá nhân sẽ tốt hơn thuế
lũy thoái để hạn chế sự bất bình đẳng về thu
vai trò nguồn thu cho ngân sách quốc gia, thuế
còn được sử dụng như là công cụ điều tiết vĩ
mô quan trọng của Chính phủ. Các nghiên cứu
gần đây cho thấy tác động của thuế không chỉ
dừng lại khía cạnh tạo nguồn thu mà còn gắn
với việc giải quyết các thất bại của nền kinh tế
thị trường bao gồm vấn đề bất bình đẳng thu
nhập. Chính phủ sử dụng công cụ thuế để can
thiệp vào nền kinh tế thị trường nhằm thực
hiện hai mục đích chính yếu đó là: (i) tài trợ
cho việc cung cấp các hàng hóa công như cơ
sở hạ tầng, vốn con người, luật pháp và (ii) tái
phân phối thu nhập (Atkinson, 2005).
Atkinson (2005) cho rằng thuế đóng một vai
trò quan trọng trong việc điều chỉnh thu nhập
giữa các nhóm dân cư nhằm giảm sự chênh
lệch giàu nghèo giữa các nhóm dân cư.
Theo tìm hiểu của tác giả, nhiều nghiên cứu
thực nghiệm được thực hiện dựa trên đánh giá
các tác động của thuế, đặc biệt nhiều học giả
dành sự quan tâm đến tác động của thuế lên phân
phối thu nhập. Tuy nhiên, kết quả các nghiên
cứu này về vai trò điều tiết thu nhập hướng đến
giảm bất bình đẳng vần còn gây nhiều tranh cãi.
Nghiên cứu của Heady (2001) và Adam & ctg
(2015) được thực hiện ở các nước phát triển
cho thấy có rất ít bằng chứng để chứng minh
vai trò của thuế trong việc giảm bất bình đẳng
thu nhập. Cả hai nghiên cứu này đều sử dụng
thuế trực thu (đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân)
làm yếu tố để đánh giá tác động thuế đối với
bất bình đẳng thu nhập. Trong khi đó, Bird &
Zolt (2004) chỉ ra rằng thuế thu nhập không làm
giảm bất bình đẳng thu nhập ở các nước phát
triển. Tác động này của thuế thu nhập có thể tạo
kết quả tương tự ở các nước Đông Nam Á bởi
vì hệ thống thuế thu nhập ở khu vực này chưa
chặt chẽ và hoàn thiện (Bird & Zolt, 2004). Tỷ
lệ thuế thu nhập cá nhân trên GDP ở các nước
Đông Nam Á là rất nhỏ. Điều này cho thấy vai
3Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 54, 12/2019
đến sự bất bình đẳng thu nhập nhưng tính hiệu
quả của thuế có thể làm giảm bất bình đẳng
thu nhập. Nói cách khác, Chính phủ có thể sử
dụng thuế GTGT can thiệp để thực hiện mục
tiêu giảm bất bình đẳng thu nhập thông qua
tính hiệu quả của chính sách thuế bằng cách áp
dụng hệ thống miễn thuế tiêu thụ hàng hóa đối
với người nghèo hoặc các tổ chức từ thiện.
Ở các quốc gia ASEAN, chính sách thuế
còn tương đối “thoáng” (nhiều kẻ hở) và chưa
chặt chẽ trong việc kiểm soát thu nhập, do đó,
việc sử dụng thuế thu nhập để giảm sự bất
bình đẳng là khó thực hiện. Khi đó, Chính phủ
muốn đạt được mục tiêu kiểm soát bất bình
đẳng thu nhập thì việc sử dụng công cụ thuế
GTGT đánh vào hàng hóa dịch vụ sẽ hiệu quả
hơn vì thuế đánh vào hàng hóa dịch vụ là dễ
kiểm soát hơn. Xuất phát từ minh chứng thực
nghiệm và các lập luận trên, bài viết đưa ra giả
thuyết sau:
H1: Ở các quốc gia có bất bình đẳng thu
nhập thấp, thuế GTGT tác động làm tăng bất
bình đẳng thu nhập do tính lũy thoái của thuế
gián thu.
H1’: Ở các quốc gia có bất bình đẳng cao,
chính phủ sẽ sử dụng thuế GTGT tác động làm
giảm sự bất bình đẳng thu nhập.
2.2. Các nghiên cứu trước đây
Nhiều quốc gia sử dụng GTGT như là một
lựa chọn chính sách để tăng cường phân phối
lại thu nhập. Thuế GTGT đã được sử dụng ở cả
các nước phát triển và đang phát triển vì mục
đích này. Tại một số quốc gia, các hình thức
thuế tiêu dùng khác như thuế hàng hóa và dịch
vụ (GST) cũng đang được sử dụng. Sau khi
được thông qua lần đầu tiên ở Pháp năm 1954,
thuế GTGT thực sự đã chứng tỏ đây là một hình
nhập. Một vài nghiên cứu thực nghiệm trước
đây tìm thấy minh chứng thuyết phục để hỗ
trợ cho khẳng định này (Leahy & ctg, 2011;
Martinez-Vazquez & ctg, 2012). Các kết quả
của các nghiên cứu này cho thấy tỷ trọng thu
thuế GTGT ngày càng tăng là nguyên nhân
dẫn đến bất bình đẳng thu nhập.
Tuy nhiên, Duncan & Sabirianova Peter
(2012) lại cho rằng khi Chính phủ nâng cao
thuế suất thuế thu nhập thì người có thu nhập
cao lại có thu nhập chịu thuế thấp hơn. Nói
cách khác, nghiên cứu của Duncan và Peter
(2012) cho thấy thuế thu nhập mới tác động
tiêu cực đến phân phối thu nhập của người có
thu nhập thấp chứ không phải là thuế GTGT.
Điều này có thể được thực hiện bằng cách
người giàu sẽ làm việc ít hơn, hoặc đơn giản
hơn là họ chỉ khai báo một khoản thu nhập
thực nhỏ hơn để hạn chế nghĩa vụ thuế thu
nhập (tình trạng giấu thu nhập). Ngoài ra,
người nộp thuế có thể áp dụng lựa chọn thứ
hai thông qua các hoạt động tránh đánh thuế
hoặc trốn thuế, do đó, thuế lũy tiến được cho
là không hiệu quả để thực hiện mục tiêu giảm
bất bình đẳng thu nhập.
Trong khi đó, Bye & ctg (2012) cho thấy
thuế GTGT giúp làm giảm bất bình đẳng về
thu nhập thông qua sự can thiệp của Chính phủ
bằng những chính sách ưu đãi như giảm thuế
hoặc miễn thuế đối với hàng hoá thiết yếu, từ
đó làm giảm gánh nặng thuế đối với người tiêu
dùng (Obadic & ctg, 2014). Shome (2009) lập
luận rằng thuế GTGT là dễ quản lý và khả
năng trốn thuế thấp hơn thuế thu nhập, do đó,
nó được xem là một cách hiệu quả để tăng
nguồn thu của Chính phủ (Keen & Mintz,
2004). Engel & ctg (1999) cũng cho rằng tính
lũy tiến của hệ thống thuế không ảnh hưởng
4Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 54, 12/2019
làm cho giá hàng hóa mà người tiêu dùng phải
trả cao hơn so với việc không đánh thuế GTGT.
Metekohy (2015) cho thấy khi tăng thuế GTGT
giá sẽ tăng và dẫn đến kết quả là giảm số lượng
mà người tiêu dùng có thể mua. Việc giảm
sức mua của người tiêu dùng có thể dẫn đến
thay đổi hành vi tiêu dùng. Sapiei & Kasipillai
(2013) cũng cho thấy thuế GTGT sẽ dẫn đến
việc giảm một phần phúc lợi công cộng do các
mô hình tiêu thụ của người tiêu dùng ảnh hưởng
đến khía cạnh sản xuất. Từ đó, các tác giả này
có một nhận định chung về thuế GTGT là một
khoản thuế mang tính lũy thoái đặc trưng cho
loại thuế đánh vào hàng hóa, dịch vụ và gây ra
bất bình đẳng thu nhập.
Ở chiều ngược lại, nghiên cứu của Ngân
hàng Thế giới (2003) được tiến hành tại một
số nước đang phát triển tại châu Phi và châu Á.
Kết quả của nghiên cứu này chỉ ra rằng cơ cấu
thuế ở các nước này lại mang tính lũy tiến so
với thu nhập của người nghèo. Họ giải thích là
do các loại hàng hoá được miễn thuế GTGT có
vẻ như đóng một vai trò quan trọng trong việc
tạo ra tính lũy tiến của thuế GTGT. Đồng thuận
với quan điểm này, Khalid & ctg (2014) cũng
cho rằng thuế đánh vào hàng hóa ở Pakistan có
tính lũy tiến nhẹ so với thu nhập vì hầu hết các
mặt hàng được tiêu dùng bởi người nghèo và
đều được miễn thuế hàng hóa dịch vụ.
Mustapha & ctg (2017) nghiên cứu vai trò
trung gian của việc kiểm soát tham nhũng đối
với thuế GTGT và bất bình đẳng thu nhập
trong top 10 quốc gia tham nhũng nhất. Bài
viết đã sử dụng hồi quy phân vị để nắm bắt các
tác động khác nhau của bất bình đẳng thu
nhập. Kết quả cho thấy hầu hết các quốc gia
tham nhũng có bất bình đẳng thu nhập thấp
hơn không được hưởng lợi từ thuế GTGT
nhưng họ sẽ đạt được nếu bất bình đẳng thu
thức đánh thuế hiệu quả do sự đóng góp đặc biệt
của nó vào việc tạo doanh thu so với các khoản
thu từ các hình thức đánh thuế khác (Keen &
Mintz, 2004; Keen & Smith, 2006). Ngoài ra,
Metekohy (2015) cho thấy thuế GTGT có thể
phân chia thu nhập hộ gia đình tiêu dùng một
cách đồng đều và qua đó góp phần phân phối
thu nhập hợp lý.
Điều thú vị là các tài liệu trước đây cung
cấp bằng chứng chưa nhất quán về sự tác động
của thuế GTGT đối với bất bình đẳng thu nhập.
Trong khi một số nghiên cứu cho thấy thuế
GTGT mang tính lũy thoái (tác động tiêu cực)
đối với thu nhập, các nghiên cứu khác lại cho
rằng thuế GTGT mang tính lũy tiến (tác động
tích cực) đối với thu nhập. Kết quả nghiên cứu
của Faridy & Sarker (2011) chỉ ra rằng thuế
GTGT là có tính lũy thoái ở Bangladesh bởi vì
thuế GTGT được áp dụng một mức thuế suất
thống nhất không phân biệt quy mô thu nhập
của người tiêu dùng, mỗi hộ gia đình đều được
hưởng mức miễn trừ như nhau bất kể mức thu
nhập của họ là khác nhau. Trước đó, Prasada
& ctg (2005) sử dụng cách tiếp cận mới nhất
để cung cấp dự báo về phân tích mức thuế suất
của thuế gián thu giữa các mặt hàng khác nhau.
Kết quả cho thấy tính lũy tiến hay lũy thoái của
thuế hàng hóa phụ thuộc nhiều vào loại hàng
hóa. Những phát hiện này giúp giải thích việc
sử dụng thuế gián thu với phạm vi rộng có thể
tác động cùng chiều đến bất bình đẳng thu nhập
đã tồn tại ở Sri Lanka. Tương tự, Gemmell &
Morrissey (2005) cũng cho thấy thuế đánh vào
hàng xuất khẩu và hàng hoá tiêu thụ đặc biệt
của người nghèo nhất trong nền kinh tế sẽ gây
ra mức độ lũy thoái cao nhất so với thu nhập.
Mặc dù thuế GTGT được sử dụng phổ biến
ở các nước đang phát triển vì nó dễ dàng thu
được thông qua hàng tiêu dùng và thuế GTGT
5Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 54, 12/2019
3. Mô hình và phương pháp nghiên cứu
3.1. Mô hình
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, bài viết
sử dụng mô hình hồi quy phân vị để nghiên
cứu tác động khác nhau của thuế GTGT đối
với bất bình đẳng về thu nhập. Mô hình hồi
quy được xây dựng dựa vào mô hình được đề
xuất bởi Mustapha (2017). Phương trình hồi
quy như sau:
nhập lớn. Thuế GTGT dường như cải thiện
hiệu quả của việc thu thuế mà Chính phủ có
thể phân bổ các khoản thu thuế cao hơn cho
các chương trình kinh tế và xã hội để mang lại
lợi ích cho người nghèo. Phát hiện của nghiên
cứu này cũng cho thấy mức độ kiểm soát tham
nhũng và cải thiện quản trị thu thuế thông qua
thuế GTGT trong mẫu khảo sát bao gồm các
quốc gia có mức độ tham nhũng cao không đủ
mạnh để giảm bất bình đẳng thu nhập.
GINI
it
= β
0
+ β
1
VAT
it
+ β
2
GDP
it
+ β
3
INF
it
+ β
4
INV
it
+ β
5
TRA
it
+ β
6
Gov_Ex
it
+ ε
it
(1)
Trong đó:
GINI : hệ số GINI, đo lường bất bình đẳng thu nhập của nước
VAT : Thuế giá trị gia tăng so với GDP
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội thực tính theo bình quân đầu người
INF
t
: Tỷ lệ lạm phát
INV : Tổng vốn đầu tư hàng năm của các quốc gia
TRA
: Độ mở thương mại
COR: Chỉ số kiểm soát tham nhũng
Gov_Ex
: Chi tiêu của chính phủ so với GDP
ε
it
: sai số.
Bảng 1. Mô tả các biến và nguồn dữ liệu
Ký hiệu biến Cách tính Nguồn dữ liệu
GINI Hệ số đo chênh lệch về thu nhập WDI
COR Chỉ số kiểm soát tham nhũng của WGI WGI
GDP GDP bình quân đầu người thực hàng năm WDI
VAT Tổng số tiền thu thuế GTGT/GDP WDI
INF Chỉ số giá tiêu dùng WDI
INV Tỷ lệ % tổng đầu tư /GDP thực hàng năm WDI
TRA (giá trị xuất khẩu + nhập khẩu)/GDP WDI
Gov_Ex Chi tiêu của chính phủ đối với GDP WDI
GINI: Hệ số Gini dùng để biểu thị mức độ bất bình đẳng trong thu nhập trên nhiều vùng miền, tầng lớp của
một đất nước. Nó có giá trị từ 0 (mọi người đều có mức thu nhập bình đẳng) đến 1 (bất bình đẳng). Hệ số
này được phát triển bởi nhà thống kê học người Ý Corrado Gini và được chính thức công bố trong bài viết
năm 1912 của ông mang tên “Variabilità e mutabilità”. Chỉ số Gini (Gini Index) là hệ số Gini được thể hiện
dưới dạng tỷ lệ phần trăm, được tính bằng hệ số Gini nhân với 100 (Wikipedia).
6Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 54, 12/2019
thuế GTGT đến bất bình đẳng thu nhập tại các
quốc gia này. Sau đó, để kiểm định giả thuyết
nghiên cứu H1 và H1’, nghĩa là đánh giá sự tác
động của thuế GTGT đến mức độ bất bình đẳng
thu nhập cao và thấp ở các quốc gia khảo sát,
bài viết sử dụng phương pháp hồi quy phân vị.
Bài viết chia mẫu khảo sát theo tứ phân vị bao
gồm: mức 25, mức 50, mức 75 và mức 90. Mức
25 và 50 thể hiện quốc gia có hệ số GINI thấp
(bất bình đẳng thu nhập thấp); mức 75 và 100
thể hiện quốc gia có hệ số GINI cao (bất bình
đẳng thu nhập cao). Hồi quy phân vị đặc biệt
phù hợp khi phân tích trên mô hình hồi quy có
sự hiện diện của phương sai thay đổi hoặc trong
mẫu số liệu mà hàm phân phối của biến phụ
thuộc bất đối xứng quanh giá trị trung bình. Khi
đó, hàm hồi quy phân vị trên các phân vị khác
nhau sẽ có sự khác biệt rõ rệt, cho thấy tác động
không giống nhau của biến độc lập đến biến
phụ thuộc ở những phân vị khác nhau (Bitler &
ctg, 2006).
Bài viết sử dụng hệ số GINI thu được từ các
báo cáo thống kê của các quốc gia khác nhau
như là một đại diện cho bất bình đẳng về thu
nhập. Hệ số GINI đo khoảng cách về thu nhập
với các bậc từ 0 đến 100, theo đó quốc gia nào
có giá trị cao hơn sẽ cho thấy sự bất bình đẳng
về thu nhập cao hơn và ngược lại.
Biến COR là đại diện của kiểm soát tham
nhũng được khai thác từ dữ liệu Chỉ số quản
trị quốc gia của Worldbank và các biến còn lại
trong mô hình đều được khai thác từ Chỉ số phát
triển của Worldbank.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong bài nghiên cứu này, tác giả sử dụng
dữ liệu thu được của các quốc gia ASEAN
Mẫu của khảo sát bao gồm 8 nước ASEAN
giai đoạn 2005-2015, bao gồm: Việt Nam, Thái
Lan, Singapore, Campudia, Indonesia, Lào,
Malaysia, Philippines. Trước tiên, bài viết ước
lượng hệ số hồi quy bằng phương pháp ước
lượng POLS để đánh giá tác động tổng thể của
Bảng 2. Thống kê mô tả biến
Biến Quan sát Trung bình Độ lệch chuẩn Lớn nhất Nhỏ nhất
GINI 88 40,15 3,00 46,3 33,2
VAT 88 14,03 3,16 22,4 7,9
COR 88 -0,279 1,014 2,247 -1,314
GDP 88 8608,67 14650,22 52244,59 613,29
INF 88 4,925 4,300 25 -0,9
INV 88 25,34 4,84 35,1 16
TRA 88 119,62 76,819 345,4 34
Gov_Ex 88 71,39 12,77 91,2 45,7
Nguồn: Tính toán của tác giả
Kết quả thống kê mô tả cho thấy biến GINI
có giá trị trung bình là 40,15 so với giá trị 100.
Điều này cho thấy các quốc gia ASEAN có chỉ
số GINI cao, nghĩa là tình trạng bất bình đẳng
7Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 54, 12/2019
Nguồn thu thuế GTGT ở các quốc gia Đông
Nam Á trung bình trong giai đoạn khảo sát là
14,04%. Các quốc gia có nguồn thu thuế GTGT
thấp là Cambodia, nguồn thu thuế GTGT chiếm
7,9% GDP. Trong khi đó, Việt Nam là quốc gia
có nguồn thu thuế GTGT cao nhất trong khu
vực và chiếm 22,4% của GDP hàng năm.
thu nhập đang tồn tại ở các quốc gia này. Trong
đó, Malaysia là quốc gia có chỉ số GINI cao
nhất khu vực và đạt giá trị 46,3 so với 100. Nói
cách khác, Malaysia thuộc quốc gia đang tồn tại
bất bình đẳng thu nhập cao nhất khu vực Đông
Nam Á.
Bảng 3. Ma trận hệ số tương quan
GINI COR Gov_Ex INFL INV GDP VAT
COR 0,2838**
Gov_Ex -0,2169** -0,7721
INF -0,1786** -0,3166* 0,2432***
INV -0,4149** 0,0419* -0,1992** 0,1047
GDP 0,3747* 0,9482 -0,8952* -0,4086** 0,0497***
VAT -0,34858*** 0,1085** -0,1954 0,1523* 0,2991** 0,0747*
TRA 0,1766* 0,6670 -0,7553 -0,1807** -0,0863*** 0,7425** 0,1969***
Nguồn: Tính toán của tác giả
Kết quả thống kê hệ số tương quan Pearson
giữa các biến trong mô hình thực nghiệm được
thể hiện tại bảng 3. Kết quả cho thấy dấu của
các biến giải thích trong mô hình là phù hợp với
kỳ vọng và đều có ý nghĩa thống kê ở mức 1%,
5% và 10%. Ngoài ra, hệ số tương quan giữa
các cặp biến tương đối nhỏ (0,8) nên khả năng
xuất hiện đa cộng tuyến trong mô hình hồi quy
là thấp.
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Bảng 4 thể hiện kết quả hồi quy POLS và
hồi quy phân vị (Quantile Regression) các biến
trong mô hình (1). Cột 1 thể hiện kết quả ước
lượng bằng phương pháp POLS, cột 2 và cột 3
thể hiện kết quả hồi quy ở mức phân vị 25 và 50
(hệ số GINI thấp, bất bình đẳng thấp), cột 4 và
cột 5 thể hiện kết quả hồi quy ở mức phân vị
75 và 90 (hệ số GINI cao, bất bình đẳng cao).
Bảng 4. Thuế GTGT và bất bình đẳng thu nhập
Biến
(1)
OLS
(2)
Q(25)
(3)
Q(50)
(4)
Q(75)
(5)
Q(90)
VAT
5,0800***
(2,7784)
6,2999***
(0,0015)
2,1652***
(0,0022)
-0,1102**
(0,0093)
-1,3229***
(0,0061)
GDP
2,8153**
(3,4204)
2,0042*
(0,0017)
1,5606**
(0,0634)
0,4294**
(0,6260)
-0,3334**
(0,6689)
8Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 54, 12/2019
cách khác, thuế GTGT làm giảm bất bình đẳng
thu nhập tại các nước có tình trạng bất bình đẳng
ở mức cao. Như đã đề cập ở phần lược khảo,
thuế GTGT có thể giúp cải thiện hiệu quả
trong việc phân phối thu nhập nhờ vào chính
sách miễn giảm cho các đối tượng có thu nhập
thấp, từ đó thuế GTGT giúp gia tăng phúc lợi
cộng đồng nhờ điều hòa thu nhập giữa các
nhóm dân cư. Ngoài ra, kết quả này cũng được
giải thích rằng khi nguồn thu thuế GTGT được
cải thiện, Chính phủ có khả năng tài trợ nhiều
hơn vào chi đầu tư cho tăng trưởng kinh tế,
đầu tư lớn hơn vào các công trình an sinh xã
hội và thực hiện được nhiều chính sách phúc
lợi hơn. Kết quả đã được tìm thấy trong nghiên
cứu của Avi Yonah (2014), người đã nhận thấy
rằng thuế GTGT làm giảm bất bình đẳng thu
nhập khi Chính phủ sử dụng nó để tài trợ các
chương trình phúc lợi xã hội. Tương tự, kết
quả thực nghiệm của Magu (2013) cũng cho
thấy thuế GTGT có lợi cho các quốc gia có
nguồn thu thuế nghèo nàn và khoảng cách bất
bình đẳng thu nhập rất lớn bởi vì gia tăng
nguồn thu thuế GTGT sẽ giúp Chính phủ tăng
Kết quả cho thấy biến VAT có tác động cùng
chiều đến bất bình đẳng thu nhập và có mức ý
nghĩa thống kê 1%. Điều này hàm ý thuế
GTGT gây ra bất bình đẳng thu nhập. Nói cách
khác, các quốc gia ASEAN không thực hiện
được mục đích giảm bất bình đẳng thu nhập
thông qua công cụ thuế GTGT. Đặc biệt, khi
quốc qia có bất bình đẳng thu nhập thấp như
được chỉ ra trong các kết quả của Q25 và Q50
thì thuế GTGT có tác động cùng chiều đến bất
bình đẳng thu nhập. Điều này cho thấy các
quốc gia có bất bình đẳng thấp thì chính sách
thuế GTGT sẽ bỏ qua những chính sách ưu đãi
để hướng đến mục tiêu điều tiết thu nhập giữa
các nhóm dân cư. Kết quả này đã được giải
thích ở nhiều nghiên cứu trước đây của Faridy
& Sarker (2011), Sapiei & Kasipillai (2013).
Tuy nhiên, kết quả tại cột 4 và cột 5 chỉ ra
rằng biến VAT có tác động nghịch chiều với bất
bình đẳng thu nhập. Điều này cho thấy ở những
nước đang tồn tại bất bình đẳng thu nhập cao,
Chính phủ có xu hướng sử dụng thuế GTGT
nhằm kiểm soát bất bình đẳng thu nhập, nói
Biến
(1)
OLS
(2)
Q(25)
(3)
Q(50)
(4)
Q(75)
(5)
Q(90)
INF
0,1485***
(1,3968)
0,1324**
(0,2229)
0,0726***
(0,3494)
-0,0866***
(0,2829)
-0,1384**
(0,0643)
INV
-0,3938
(-4,1313)
-0,428
(0,0004)
-0,3399
(0,0000)
-0,4724
(0,0000)
-0,4686
(0,0000)
Trade
-0,0174
(-1,9971)
-0,020
(0,0082)
-0,0166
(0,0173)
-0,0067
(0,3440)
-0,0005
(0,9388)
Go_Ex
0,0314**
(0,3831)
-0,0438***
(0,6027)
-0,04594**
(0,5473)
-0,1176**
(0,0440)
-0,1396***
(0,0036)
Cons
39,3853
(2,7784)
54,6203
(0,0007)
46,3560
(0,0000)
59,6852
(0,0000)
64,2755
(0,00000
R-squared 0,4389 0,4302 0,3664 0,3497 0,4694
N 88 88 88 88 88
Ghi chú: ***, **, ** thể hiện ý nghĩa ở mức 1%, 5% và 10%.
9Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 54, 12/2019
cơ sở thu thuế đánh vào thu nhập sẽ hiệu quả
hơn.
Thứ hai, Chính phủ các quốc gia có chênh
lệch bất bình đẳng thu nhập thấp hoàn toàn có
thể sử dụng công cụ thuế GTGT để thực thi
công bằng trong thu nhập bằng cách thay đổi
chính sách thuế theo hướng đưa vào các khoản
giảm trừ, miễn thuế cho các đối tượng có thu
nhập thấp. Tuy nhiên, điều này tương đối khó
thực hiện vì vấn đề kiểm soát đối tượng cuối
cùng tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ là phức tạp.
Thay vào đó, Chính phủ các quốc gia này nên
chủ động khai thác nguồn thu thuế từ các khoản
thuế mang tính điều tiết trực tiếp thu nhập hơn
là dựa vào các khoản thu thuế gián thu trong đó
có thuế GTGT.
Thứ ba, các quốc gia có mức độ chênh lệch
bất bình đẳng lớn cũng nên thận trọng và cân
nhắc trong việc gia tăng nguồn thu từ thuế
GTGT. Mặc dù kết quả cho thấy thuế GTGT
tác động giảm chênh lệch bất bình đẳng thu
nhập ở những quốc qua này nhưng điểm
chuyển từ trạng thái âm sang dương (ngưỡng
chênh lệch bất bình đẳng) thì vẫn chưa được
khám phá trong bất kỳ nghiên cứu nào. Trong
khi đó, nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã cho
thấy nguồn thu thuế gián thu là khó kiểm soát
đối tượng trực tiếp tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ
và chính sách miễn giảm của thuế này cũng
khá phức tạp. Vì vậy, các quốc gia này cũng
nên chủ động xây dựng hệ thống thuế dựa vào
nguồn thu thuế trực thu để điều tiết thu nhập sẽ
khả thi hơn.
Thứ tư, Chính phủ Việt Nam nên cân nhắc
khi kỳ vọng gia tăng nguồn thu từ thuế GTGT
đồng thời giảm chênh lệch bất bình đẳng thu
nhập. Bởi vì kết quả cho thấy nguồn thu thuế
GTGT tác động làm tăng bất bình đẳng thu
nhập tại các quốc gia bao gồm Việt Nam. Vì
thu thuế đồng thời không (hoặc ít) ảnh hưởng
đến bất bình đẳng thu nhập.
Số liệu thống kê cho thấy chỉ số GINI của
Việt Nam từ 33,2 đến 39,3 là tương đối thấp
hơn giá trị trung bình mẫu khảo sát. Nghĩa là
mức độ bất bình đẳng thu nhập tại Việt Nam
vẫn còn thấp. Từ kết quả thực nghiệm hồi quy
phân vị tại cột 2 và cột 3, chúng ta có thể thấy
được thuế GTGT tại Việt Nam chưa thực hiện
vai trò điều tiết thu nhập để hướng đến mục tiêu
giảm bất bình đẳng thu nhập, trong khi đó, tăng
thu thuế GTGT sẽ làm gia tăng bất bình đẳng
thu nhập ở Việt Nam.
5. Kết luận và hàm ý chính sách
Kết quả thực nghiệm của bài viết cho thấy
nguồn thu thuế GTGT làm tăng thêm tình trạng
bất bình đẳng thu nhập tại các nước ASEAN
đối với quy mô mẫu chung. Tuy nhiên, khi thực
hiện hồi quy với quy mô mẫu được chia theo tứ
phân vị, kết quả đã cho thấy tác động của thuế
GTGT đến bất bình đẳng thu nhập là khác biệt
giữa quốc gia có bất bình đẳng thu nhập cao
và quốc gia bất bình đẳng thu nhập thấp. Cụ
thể hơn, thuế GTGT tác động cùng chiều với
bất bình đẳng thu nhập tại quốc gia có bất bình
đẳng thu nhập thấp. Tuy nhiên, các quốc gia có
bất bình đẳng thu nhập cao thì thuế GTGT có
tác động giúp giảm bất bình đẳng thu nhập. Dựa
trên phát hiện thú vị này, bài viết đưa ra các
hàm ý chính sách như sau:
Thứ nhất, các quốc gia muốn đạt được mục
tiêu công bằng trong thu nhập thì không nên
dựa vào nguồn thu từ thuế GTGT bởi vì tính
lũy thoái của thuế GTGT sẽ làm cho gánh nặng
thuế trở nên quá lớn đối với người có thu nhập
thấp. Thay vào đó, các quốc gia nên tập trung
vào việc kiểm soát thu nhập tốt hơn để gia tăng
10
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 54, 12/2019
ra tác động phụ làm tăng bất bình đẳng thu nhập
hơn so với hiện tại.
vậy, Chính phủ nên thực hiện chính sách thuế
hướng đến gia tăng nguồn thu từ các loại thuế
trực thu (thuế đánh vào thu nhập) để tránh gây
Tài liệu tham khảo
Adam, A., Kammas, P., & Lapatinas, A. (2015), ‘Income inequality and the tax structure: Evidence
from developed and developing countries’, Journal of Comparative Economics, 43(1), 138-154.
Atkinson, A. (2005). New sources of development finance. Oxford University Press on Demand.
Bird, R. M., & Zolt, E. M. (2004), ‘Redistribution via taxation: The limited role of the personal
income tax in developing countries’, UCLA L. Rev., 52, 1627.
Bitler, M. P., Gelbach, J. B., & Hoynes, H. W. (2006), ‘What mean impacts miss: Distributional
effects of welfare reform experiments’, American Economic Review, 96(4), 988-1012.
Bye, B., Strøm, B., & Åvitsland, T. (2012), ‘Welfare effects of VAT reforms: a general equilibrium
analysis’, International Tax and Public Finance, 19(3), 368-392.
Duncan, D., & Sabirianova Peter, K. (2012), ‘Unequal inequalities: Do progressive taxes reduce
income inequality?’.
Engel, E. M., Galetovic, A., & Raddatz, C. E. (1999), ‘Taxes and income distribution in Chile: some
unpleasant redistributive arithmetic’, Journal of Development Economics, 59(1), 155-192.
Faridy, N., & Sarker, T. (2011), ‘Incidence of Value Added Tax (Vat) in the Developing Countries:
A Case in Bangladesh’, International Journal of Trade, Economics and Finance, 2(5), 437.
Gemmell, N., & Morrissey, O. (2005), ‘Distribution and poverty impacts of tax structure reform in
developing countries: how little we know’, Development Policy Review, 23(2), 131-144.
Heady, C. (2001). Taxation policy in low-income countries: WIDER Discussion Papers//World
Institute for Development Economics (UNU-WIDER).
Keen, M., & Mintz, J. (2004), ‘The optimal threshold for a value-added tax’, Journal of Public
Economics, 88(3-4), 559-576.
Keen, M., & Smith, S. (2006), ‘VAT fraud and evasion: What do we know and what can be done?’,
National Tax Journal, 861-887.
Khalid, N., Ahmed, A., Bhatti, M. S., Randhawa, M. A., Ahmad, A., & Rafaqat, R. (2014), ‘A
question mark on zinc deficiency in 185 million people in Pakistan—possible way out’, Critical
reviews in food science and nutrition, 54(9), 1222-1240.
Leahy, E., Lyons, S., & Tol, R. S. (2011), ‘The distributional effects of value added tax in Ireland’,
The Economic and Social Review, 42(2), 213.
Magu, C. M. (2013). The Relationship between government revenue and economic growth in
Kenya. Nairobi, Kenya: Unpublished Master’s Thesis.
Martinez-Vazquez, J., Moreno-Dodson, B., & Vulovic, V. (2012), ‘The Impact of Tax and
Expenditure Policies on Income Distribution: Evidence from a large panel of countries’, Andrew
Young School of Policy Studies Research Paper Series(12-30).
11
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 54, 12/2019
Metekohy, S. (2015), ‘The Influence of Value Added Tax (Vat) Assessment on Income Distribution
of Consumer of Garment in West Java’, Review of European Studies, 7(7), 69.
Mustapha, M. Z., Koh, E. H., Chan, S. G., & Ramly, Z. (2017), ‘The Role of Corruption Control in
Moderating the Relationship Between Value Added Tax and Income Inequality.’, International
Journal of Economics and Financial Issues, 7 (4).
Obadic, A., Šimurina, N., & Sonora, R. J. (2014). The effects of tax policy and labour market
institutions on income inequality. Paper presented at the Proceedings of Rijeka Faculty of
Economics, Journal of Economics and Business.
Sapiei, N. S., & Kasipillai, J. (2013), ‘Impacts of the self-assessment system for corporate taxpayers’,
American Journal of Economics, 3(2), 75-81.
Shome, P. (2009), ‘Consumption Taxes: Their Ramifications for Income Distribution’, New Delhi,
India: Indian Council for Research on International Economic Relations (ICRIER).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tac_dong_cua_thue_gia_tri_gia_tang_den_bat_binh_dang_thu_nha.pdf