Bài báo đã sử dụng mô hình VAR để
kiểm định tác động của tỷ giá đến vốn FDI
vào Việt Nam giai đoạn 1996-2018. Kết quả
nghiên cứu cho thấy tỷ giá thực tác động đến
vốn FDI vào Việt Nam với ý nghĩa thống kê
10%. Cụ thể, sự mất giá của VND ở độ trễ 3
tác động làm giảm FDI vào Việt Nam. Mặt
khác, nghiên cứu tìm thấy rằng, vốn FDI vào
Việt Nam chịu tác động bởi chính yếu tố FDI
trong quá khứ. Kết quả nghiên cứu cũng
tương đồng với các nghiên cứu trước như:
Campa (1993), Alba, Wang và Park (2010),
Boateng và cộng sự (2015), Djulius (2017)
về tác động của tỷ giá đến FDI. Nghiên cứu
đã đóng góp một bằng chứng thực nghiệm về
tác động của tỷ giá đến vốn FDI ở VIệt Nam
– điển hình cho trường hợp quốc gia đang
phát triển, còn thiếu vắng các nghiên cứu về
vấn đề này. Đồng thời, kết quả nghiên cứu
cung cấp thêm cơ sở cho các nhà quản lý
trong việc quản lý vốn FDI và điều hành tỷ
giá trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, do
hạn chế về số liệu thu thập nên nghiên cứu có
ý nghĩa thống kê chưa cao. Bên cạnh đó, do
hạn chế về thời gian và phạm vi nghiên cứu
nên nghiên cứu này chưa thực hiện đo lường
biến động của tỷ giá cũng như đánh giá được
tác động của biến động tỷ giá đến vốn FDI.
Đồng thời, nghiên cứu cũng chưa xem xét
đánh giá tác động của FDI đến biến động tỷ
giá ở VIệt Nam. Đây cũng là vấn đề mà
nhóm tác giả quan tâm và sẽ tiếp tục bổ sung
các nghiên cứu về vấn đề này trong tương lai.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 313 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của tỷ giá đến vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(03) - 2019
1
TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ ĐẾN VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
THE IMPACT OF EXCHANGE RATE ON FOREIGN DIRECT INVESTMENT
IN VIETNAM
Ngày nhận bài: 19/04/2019
Ngày chấp nhận đăng: 11/07/2019
Nguyễn Thị Mỹ Linh, Nguyễn Thị Kim Liên
TÓM TẮT
Tác động của tỷ giá đến vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã và đang là vấn đề được các nhà
nghiên cứu quan tâm. Trên thế giới đã và đang có nhiều nghiên cứu thực nghiệm về tác động của
nhân tố tỷ giá đến vốn FDI của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, có nhiều kết quả không thống nhất nhau,
điều này còn tùy thuộc vào quốc gia nghiên cứu và giai đoạn nghiên cứu. Bài báo này sử dụng mô
hình tự hồi qui véc tơ (VAR) kiểm định tác động của tỷ giá thực (RER) đến vốn FDI tại Việt Nam
giai đoạn 1996-2018. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ giá (RER) tác động có ý nghĩa thống kê đến
vốn FDI vào Việt Nam. Măt khác, nghiên cứu cũng tìm thấy vốn FDI ở Việt Nam còn bị tác động
bởi các cú sốc của chính yếu tố FDI trong quá khứ.
Từ khóa: Tác động, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tỷ giá thực (RER), VAR, Việt Nam.
ABSTRACT
The impact of exchange rate on foreign direct investment (FDI) flows has long been a subject of
interest. Theoretical and empirical studies show that exchange rate can have significant effects on
foreign direct investment (FDI) of each country or not. But the evidence is ambiguous, with the
impact of exchange rates being heterogeneous across countries and varying over time. This study
has been used vector auto regression model (VAR) to estimate the impact of exchange rate on
Viet Nam FDI (with the periods of 1996 and 2018). The paper finds that the impacts of exchange
rate on FDI into Vietnam are significantly. The results show that the FDI is affected by the ones in
the past.
Keywords: Impact, foreign direct investment (FDI), real exchange rate (RER), VAR, Vietnam.
1. Giới thiệu
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là
nguồn vốn có vai trò quan trọng thúc đẩy gia
tăng năng suất lao động ở cả quốc gia phát
triển và quốc gia đang phát triển (Barrell và
Pain, 1997; Borenzstein và cộng sự, 1998;
Pain, 2001). Trong xu thế toàn cầu hóa ngày
nay, nguồn vốn này ngày càng trở nên quan
trọng đối với các quốc gia đang phát triển,
trong đó có Việt Nam. Theo số liệu thu thập
được từ quỹ tiền tệ quốc tế, tính đến hết năm
2017, vốn FDI vào Việt Nam đã gia tăng gần
6 lần so với thời điểm năm 1996. Đặc biệt,
trong thập niên gần đây, vốn FDI vào Việt
Nam càng gia tăng mạnh mẽ. Đánh dấu bằng
mốc thời gian năm 2007, Việt Nam đã thu
hút lượng vốn tương đương gấp ba lần lượng
vốn FDI đã thu hút trong năm liền kề trước
đó. Số liệu thực tế cho thấy, có xu hướng
diễn biến nghịch chiều giữa tỷ giá thực so với
vốn FDI vào Việt Nam (hình 1).
Hình 1. Diễn biến tỷ giá và vốn FDI và tại Việt
Nam giai đoạn 1996-2017
Nguyễn Thị Mỹ Linh, Nguyễn Thị Kim Liên,
Trường Đại học Tài chính- Marketing, Trường
Đại học Công Nghiệp Tp.Hồ Chí Minh.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
2
Trong nhiều thập kỷ qua, đã có nhiều
nghiên cứu tiến hành đánh giá tác động của
tỷ giá đến vốn FDI. Nhìn chung, các nghiên
cứu hiện có đã cho thấy tỷ giá tác động có ý
nghĩa thống kê đến vốn FDI vào một quốc
gia (Froot và Stein, 1991; Campa, 1993;
Klein và Rosengren, 1994; Blonigen, 1997).
Tuy nhiên, trong số các nghiên cứu thừa
nhận tồn tại tác động của tỷ giá đến vốn FDI
vẫn còn có những quan điểm trái ngược
nhau. Một số nhà nghiên cứu tìm thấy bằng
chứng tỷ giá tác động ngược chiều đến vốn
FDI (Froot và Stein, 1991; Klein và
Rosengren, 1994; Blonigen, 1997 Takagi và
Shi, 2011). Trong khi đó, một số nghiên cứu
khác lại có kết luận tỷ giá tác động cùng
chiều đến vốn FDI (Campa, 1993; Alba,
Wang và Park, 2010; Boateng và cộng sự,
2015; Djulius, 2017). Ngoài ra, vẫn có một
số nghiên cứu chưa tìm thấy tác động có ý
nghĩa thống kê của tỷ giá đến vốn FDI
(Itagaki, 1981; Yang và cộng sự, 2000; Pozo,
2001; Bouoiyour và Rey, 2005).
Điều này đã đặt ra các câu hỏi liệu yếu tố
tỷ giá có tác động đến vốn FDI vào Việt Nam
hay không? Nếu có thì tỷ giá sẽ tác động đến
vốn FDI theo chiều hướng nào? Đây là vấn
đề được các nhà nghiên cứu quan tâm và do
đó, tiếp tục nghiên cứu tác động của tỷ giá
đối với vốn FDI vào Việt nam trong giai
đoạn hiện nay là rất cần thiết. Nghiên cứu sẽ
cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm về
tác động của tỷ giá đến vốn FDI vào Việt
Nam –một trường hợp đại diện cho quốc gia
đang phát triển, đang nỗ lực cải cách để thu
hút vốn đầu tư nước ngoài. Câu trả lời có
được sẽ là một cơ sở quan trọng góp phần
đưa ra giải pháp phù hợp, thúc đẩy thu hút
vốn FDI vào Việt Nam.
2. Cơ sở lý thuyết
2.1. Mô hình OLI (lý thuyết Chiết trung)
của Dunning (1988)
Dunning (1988) nghiên cứu các yếu tố
quyết định đến FDI thông qua mô hình OLI
(Ownership, Location, Internalization). Mô
hình này cung cấp một khung lý thuyết liên
quan để phân tích tác động của các yếu tố vi
mô và vĩ mô đến động cơ đầu tư và lựa chọn
địa điểm đầu tư của các công ty đa quốc gia ra
nước ngoài. Theo quan điểm của Dunning,
các công ty đa quốc gia chắc chắn phải sở hữu
một số lợi thế nhất định để có thể cạnh tranh
với các hãng nội địa tại thị trường các nước
nhận đầu tư. Các lợi thế đó bao gồm: lợi thế
về quyền sở hữu, lợi thế về vị trí và lợi thế về
nội hóa. Mô hình OLI của Dunning (1988)
nhấn mạnh vai trò trực tiếp của tỷ giá thực tác
động đến vốn FDI bởi lập luận rằng, một động
lực thúc đẩy FDI là các công ty đa quốc gia
mong muốn chuyển đến các địa điểm có chi
phí sản xuất thấp hơn, trong đó có các chi phí
liên quan đến tỷ giá. Đồng thời, Dunning
(1993) cũng cho rằng, quyết định đầu tư của
các công ty muốn sở hữu tài sản tạo thu nhập
ở nước ngoài có xu hướng bị ảnh hưởng bởi
các biến số tài chính và tỷ giá.
2.2. Bằng chứng thực nghiệm về tác động
của tỷ giá đến vốn FDI
Tác động của tỷ giá đến quyết định chọn
địa điểm đầu tư của các công ty đa quốc gia
từ lâu đã là vấn đề được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm. Bắt đầu từ thập niên 80, trên
thế giới đã có nhiều nghiên cứu đánh giá tác
động của tỷ giá đối với FDI. Rất nhiều
nghiên cứu đánh giá tác động của tỷ giá song
phương đối với vốn FDI vào một quốc gia
(Froot và Stein, 1991; Swenson (1994), Klein
và Rosengren (1994), Kogut và Chang
(1996), Blonigen, (1997), Yang và cộng sự
(2000), Pozo (2001), Takagi và Shi (2011),
Boateng và cộng sự (2015), Djulius (2017).
Các kết quả nghiên cứu tập trung vào các nội
dung chính như sau:
2.2.1. Ttỷ giá tác động ngược chiều đến vốn FDI
Froot và Stein (1991) cho rằng, có mối
quan hệ giữa tỷ giá và FDI là do sự không
hoàn hảo của thị trường. Thay đổi tỷ giá sẽ
làm tăng giá trị tài chính của các công ty nắm
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(03) - 2019
3
giữ tài sản định danh bằng đồng tiền tăng giá
trị so với các công ty nắm giữ tài sản định
danh bằng đồng tiền sụt giảm giá trị. Như vậy,
sự sụt giảm giá trị của đồng nội tệ làm gia
tăng của cải của nhà đầu tư nước ngoài, tạo
cho họ chi phí đầu tư thấp hơn tương đối so
với các công ty đối tác ở các nước có đồng
tiền mất giá trị. Khi những điều kiện khác
không đổi, giá trị đồng tiền nước nhận đầu tư
sẽ tỷ lệ nghịch với FDI vào quốc gia đó. Kết
quả thực nghiệm của Froot và Stein (1991)
cho thấy, giai đoạn 1973-1988, tỷ giá thay đổi,
đồng USD giảm giá có tác động mạnh đến của
cải quốc tế, làm cho các nhà đầu tư nước
ngoài trở nên giàu có hơn, do đó khuyến khích
dòng vốn FDI vào Hoa Kỳ. Tuy nhiên, có nhà
nghiên cứu nhận định rằng số liệu và mô hình
cho nghiên cứu này khá yếu về mặt kỹ thuật,
cần có nghiên cứu tiếp theo để phát triển giả
thiết này (Stevens, 1998).
Blonigen (1997) sử dụng dữ liệu về việc
sáp nhập và mua lại FDI của Nhật Bản vào
Hoa Kỳ giai đoạn 1975-1992 để kiểm tra giả
thuyết về vấn đề tỷ giá tác động đến vốn FDI
vào các nước tiếp nhận. Theo Blonigen
(1997), tỷ giá tác động rõ nhất đối với hoạt
động FDI mua lại các ngành công nghệ cao
(ngành nghề mà các tài sản đặc biệt của doanh
nghiệp có tầm quan trọng đáng kể). Kết quả
cho thấy, các công ty Nhật Bản gia tăng mua
lại doanh nghiệp FDI tại Hoa Kỳ khi có sự
mất giá đồng USD so với đồng Yên. Kết quả
này cũng thống nhất với Froot và Stein (1991)
là giá trị đồng tiền nước nhận đầu tư sẽ tỉ lệ
nghịch với FDI vào quốc gia đó.
Ngoài ra, còn có một số nghiên cứu khác
có bằng chứng thống nhất rằng tỷ giá có tác
động đến vốn FDI, bao gồm Swenson (1994),
Klein và Rosengren (1994), Kogut và Chang
(1996). Phần lớn các nghiên cứu cho kết luận
phù hợp với các giả thuyết của Froot và Stein
(1991) hay Blonigen (1997). Tuy nhiên, điều
hạn chế là đa số các nghiên cứu giai đoạn
này thường được kiểm chứng thực nghiệm
với dữ liệu liên quan trường hợp của Hoa Kỳ
- một quốc gia có nền kinh tế phát triển: đầu
tư FDI của Hoa Kỳ ra nước ngoài hay đầu tư
FDI vào Hoa Kỳ, mà chưa có sự phong phú
về thực nghiệm tại các nền kinh tế các đặc
trưng khác nhau.
Thời gian sau này, có một số nghiên cứu
tác động của tỷ giá đến FDI ở các quốc gia
khác đã củng cố các nghiên cứu trước đây về
giả định rằng tỷ giá tác động nghịch chiều
đến FDI. Takagi và Shi (2011) nghiên cứu
ảnh hưởng của tỷ giá cùng các biến số vĩ mô
khác đến vốn FDI của Nhật Bản vào một số
quốc gia Châu Á như Trung Quốc, Indonesia,
Malaysia, Philippines, Hàn Quốc và Thái
Lan giai đoạn 1987-2008. Kết quả nghiên
cứu cho thấy tỷ giá tác động ngược chiều đến
vốn FDI;
2.2.2. Tỷ giá có tác động cùng chiều đến vốn FDI
Theo Campa (1993), sự giảm giá đồng
tiền nước nhận đầu tư sẽ làm giảm lợi nhuận
kỳ vọng của các công ty nước ngoài. Điều
này khiến các công ty nước ngoài giảm mức
độ đầu tư, và do đó, lượng vốn FDI vào quốc
gia đó sẽ giảm.
Alba, Wang và Park (2010) đo lường tác
động của tỷ giá đối với FDI vào Hoa Kỳ giai
đoạn 1982-1994. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, trong điều kiện có triển vọng tốt về
ngành nghề đầu tư FDI, tỷ giá tác động tích
cực có ý nghĩa thống kê đến tỷ lệ trung bình
của vốn FDI vào Hoa Kỳ. Cụ thể là, khi USD
mạnh hơn có thể có lợi hơn cho các nhà đầu
tư nước ngoài và do đó khuyến khích họ tăng
đầu tư FDI vào Hoa Kỳ.
Boateng và cộng sự (2015) sử dụng dữ
liệu quý để đánh giá tác động của các yếu tố
kinh tế vĩ mô đến vốn FDI vào Na Uy trong
giai đoạn 1986-2009. Bên cạnh các yếu tố vĩ
mô như: lạm phát, cung tiền, tỉ lệ thất nghiệp,
lãi suất, thì tỷ giá tác động cùng chiều có ý
nghĩa thống kê đến dòng vốn FDI vào Na
Uy. Sự tăng giá trị của đồng nội tệ (NOK) đã
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
4
khuyến khích dòng vốn FDI vào ở Na Uy
giai đoạn này.
Gần đây hơn, Djulius (2017) nghiên cứu
về các nhân tố ngắn hạn và dài hạn tác động
đến vốn FDI vào Indonesia giai đoạn 1981-
2015. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong
ngắn hạn, tỷ giá có mối quan hệ không đáng
kể với FDI, nhưng xét dài hạn thì tỷ giá tác
động có ý nghĩa thống kê đến FDI, cụ thể là
khi đồng nội tệ trở nên có giá trị cao hơn
ngoại tệ, các nhà đầu tư nước ngoài định
hướng thị trường sẽ gia tăng đầu tư FDI.
Thực tế là, với sự tăng giá của đồng tiền
nước nhận đầu tư, các công ty sau khi bán
sản phẩm tại chỗ thu tiền và chuyển lợi
nhuận ra nước ngoài sẽ có lợi nhuận kỳ vọng
cao hơn. Điều này đã thúc đẩy các công ty
đẩy mạnh đầu tư FDI.
2.2.3. Tác động của tỷ giá đến FDI chưa có ý
nghĩa thống kê
Itagaki (1981) đưa ra kết luận tỷ giá
không ảnh hưởng đến quyết định đầu tư
nước ngoài. Quan điểm của Itagaki (1981)
dựa trên cơ sở lý thuyết ngang giá sức mua
của Gustav Cassel (1920). Theo Itagaki
(1981), nếu lý thuyết PPP thật sự tồn tại, các
công ty nước ngoài sẽ không có bất kỳ rủi ro
nào liên quan đến tỷ giá thay đổi bởi vì sự
thay đổi của tỷ giá sẽ được bù trừ bởi thay
đổi trong mức giá tương đối giữa các quốc
gia. Tuy nhiên, kết luận này của Itagaki
(1981) gây nhiều tranh cãi bởi vì không ai
có thể chắc rằng PPP có tồn tại được trong
thời gian dài hay không, tồn tại mọi thời
điểm và mọi mức giá liên quan của tất cả
các ngành nghề hay không?
Yang và cộng sự (2000) đã nghiên cứu
mối quan hệ giữa tỷ giá và vốn FDI tại Úc
giai đoạn 1985-2000. Kết quả cho thấy,
không có ý nghĩa thống kê về giả thiết tỷ giá
tác động đến vốn FDI ở Úc trong ngắn hạn.
Tương tự, Pozo (2001), sau khi đánh giá mối
liên hệ giữa tỷ giá và FDI ở Hoa Kỳ giai
đoạn 1976-1998 đã kết luận rằng, không có
liên hệ có ý nghĩa thống kê giữa tỷ giá và vốn
đầu tư nước ngoài trong ngắn hạn.
Bouoiyour và Rey (2005) dùng mô hình
NATREX (Natural Real Exchange) của Stein
(1994) để đo lường chênh lệch giữa tỷ giá
thực đa phương thực tế và tỷ giá thực đa
phương cân bằng, sau đó kiểm định tác động
của chỉ số này đến vốn FDI. Kết quả thực
nghiệm về tác động của chỉ số này đến FDI
vào Morocco giai đoạn 1960-2000 không có
ý nghĩa thống kê.
Bảng 1. Tổng hợp kết quả nghiên cứu trước liên
quan
Stt
Kết
quả
nghiên
cứu
Quốc
gia
nghiên
cứu
Giai
đoạn
nghiên
cứu
Tác giả
1 Tỷ giá
tác
động
ngược
chiều
đến
FDI
Hoa Kỳ 1970s-
1980s
Froot và Stein
(1991)
Hoa Kỳ 1975-
1992
Blonigen (1997)
Hoa Kỳ 1970s-
1990s
Swenson (1994),
Klein và
Rosengren (1994),
Kogut và Chang
(1996), Campa và
cộng sự (1998).
Châu Á 1987-
2008
Takagi và Shi
(2011)
2 Tỷ giá
tác
động
cùng
chiều
đến
FDI
Hoa Kỳ 1980s Campa (1993)
Hoa Kỳ 1982-
1994
Alba, Wang và
Park (2010)
Na Uy 1986-
2009
Boateng và cộng
sự (2015)
Indone
sia
1981-
2015
Djulius (2017)
3 Chưa
tìm
thấy tỷ
giá tác
động có
ý nghĩa
thống
kê đến
FDI
Hoa Kỳ 1970s-
1980s
Itagaki (1981)
Úc 1985-
2000
Yang và cộng sự
(2000)
Hoa Kỳ 1976-
1998
Pozo (2001)
Ma-rốc 1996-
2000
Bouoiyour và Rey
(2005)
Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(03) - 2019
5
Nhìn chung, vấn đề tác động của tỷ giá
đến vốn FDI là đề tài được rất nhiều nhà
nghiên cứu kinh tế trên thế giới quan tâm và
phân tích. Các nghiên cứu này đã cung cấp
các bằng chứng thực nghiệm quan trọng và
thú vị về tác động của tỷ giá đến dòng chảy
FDI. Hầu hết các nhà nghiên cứu đều thừa
nhận có tồn tại tác động của tỷ giá đến vốn
FDI. Tuy nhiên, các kết quả thực nghiệm cho
thấy, các tác động này có chiều hướng khác
nhau tùy thuộc vào định hướng đầu tư của
chủ đầu tư, đặc điểm của công ty và cả đặc
điểm nền tảng của quốc gia tiếp nhận vốn.
Mặt khác, cũng có một số nghiên cứu chưa
tìm thấy tác động của tỷ giá đến FDI có ý
nghĩa thống kê. Như vậy, vấn đề tác động
của tỷ giá đối với FDI là một lĩnh vực phong
phú và rất cần thêm các nghiên cứu trong
tương lai. Do đó, tiếp tục nghiên cứu về mối
quan hệ giữa tỷ giá và vốn FDI ở các trường
hợp quốc gia khác là điều rất cần thiết để bổ
sung vào khung lý thuyết cũng như bằng
chứng thực nghiệm vào lĩnh vực này.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Phương pháp phân tích
Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân
tích mô hình tự hồi quy véctơ (VAR) nhằm
kiểm định tác động của tỷ giá đến vốn FDI
tại Việt Nam giai đoạn 1996-2018. Việc sử
dụng mô hình VAR được nhóm tác giả căn
cứ các nghiên cứu trước như Morande
(1998); Kodongo và Ojah (2013); Boateng và
cộng sự (2015) và căn cứ kết quả kiểm định
đồng liên kết cho thấy các chuỗi dữ liệu
không tồn tại đồng liên kết trong dài hạn.
Nghiên cứu thực hiện các bước cơ bản
sau: thống kê mô tả, kiểm định tính dừng,
xác định độ trễ tối ưu và cuối cùng là phân
tích mô hình VAR về tác động của RER đến
FDI và kiểm tra sự ổn định của mô hình.
3.2. Mô hình nghiên cứu
Mục đích của nghiên cứu này là đo lường
tác động của tỷ giá và vốn FDI ở Việt Nam
giai đoạn 1996-2018. Căn cứ các nghiên cứu
trước như Morande (1998); Kodongo và
Ojah (2013); Boateng và cộng sự (2015), mô
hình nghiên cứu có dạng như sau:
Trong đó:
RER : tỷ giá thực
FDI : vốn FDI vào Việt Nam
Các biến đo lường cụ thể như sau:
Biến phụ thuộc (FDI): vốn FDI vào
Việt Nam
Biến độc lập: tỷ giá thực (RER), là tỷ
giá thực song phương giữa VND với
USD.
3.3. Dữ liệu nghiên cứu
Bảng 2. Các biến sử dụng trong mô hình nghiên cứu
Tên
biến
Ký
hiệu
biến
Định
nghĩa
biến
Nguồn
dữ liệu
Nghiên cứu trước
Vốn
FDI
FDI
Vốn
FDI
vào
Việt
Nam,
tính
theo
quý
Thống
kê tài
chính
quốc tế
(IFS)
Froot và Stein
(1991), Klein và
Rosengren (1994),
Blonigen (1997),
Yang và cộng sự
(2000),
Pozo (2001), Takagi
và Shi (2011), Alba,
Wang và Park
(2010), Boateng và
cộng sự (2015),
Djulius (2017)
Tỷ
giá
thực
RER
Tỷ giá
thực
song
phươn
g giữa
VND
với
USD
Thống
kê tài
chính
quốc tế
(IFS)
Klein và Rosengren
(1994),Kogut và
Chang (1996),
Blonigen (1997),
Pozo (2001), Takagi
và Shi (2011),
Boateng và cộng sự
(2015), Djulius
(2017)
Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
6
Dữ liệu nghiên cứu sử dụng trong mô
hình nghiên cứu được thu thập theo quý. Do
hạn chế về dữ liệu, bài nghiên cứu thực hiện
nghiên cứu trong giai đoạn từ Q1-1996 đến
Q1-2018. Biến số FDI được thu thập từ
nguồn thống kê tài chính quốc tế, IFS. Biến
RER được nhóm tác giả tự tính toán dựa trên
giá trị tỷ giá danh nghĩa cuối kỳ của mỗi quý
và chỉ số lạm phát của hai quốc gia là Hoa
Kỳ và Việt Nam. Theo Eun và Resnick
(1988); Tsen (2011); Pham (2017) công thức
tính tỷ giá thực được xác định như sau:
Trong đó:
RER : tỷ giá thực
NER : tỷ giá danh nghĩa (yết giá trực
tiếp VND/USD)
USCPI : Chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ
VNCPI : Chỉ số giá tiêu dùng của Việt
Nam
Các dữ liệu dùng tính toán được thu thậptheo
quý từ nguồn thống kê tài chính quốc tế, IFS.
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
4.1. Thống kê mô tả
Dữ liệu nghiên cứu được thu thập theo quý,
từ quý 1 năm 1996 đến quý 1 năm 2018 với các
biến số được mô tả trong bảng 3 dưới đây.
Bảng 3. Thống kê mô tả
Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm tác giả
Kết quả thống kê mô tả cho thấy, hai biến
trong mô hình ước lượng đều có 89 quan sát
trong giai đoạn nghiên cứu. Trong đó, vốn
FDI đạt giá trị cao nhất vào quý 4 năm 2005
(4650 triệu đồng), giá trị thấp nhất vào quý 2
năm 2002 (150 triệu đồng), đạt bình quân
1412,2 triệu đồng/quý. Tỷ giá thực đạt giá trị
cao nhất vào quý 4 năm 2003 (25744,9
VND/USD) và thấp nhất là 15798,4
VND/USD) vào quý 4 năm 2014 với mức tỷ
giá trung bình là 20238,6 VND/USD.
4.2. Kiểm định tính dừng
Nghiên cứu dùng kiểm định Dickey-
Fuller (Dickey và Fuller, 1979) để kiểm định
tính dừng của các chuỗi dữ liệu. Với giả thiết
H0 là chuỗi dữ liệu không có tính dừng.
Bảng 4. Kiểm định tính dừng
Biến
Chuỗi
dữ liệu gốc
Chuỗi dữ liệu
sai phân bậc 1
fdi 0,3011 0.0000***
rer 0,9500 0.0000***
Ghi chú: *, ** và *** có ý nghĩa tương
ứng ở mức 10%, 5% và 1%
Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm tác giả
Kết quả kiểm định tính dừng cho thấy cả
hai chuỗi dữ liệu đều không có tính dừng ở
chuỗi dữ liệu gốc, nhưng có tính dừng ở sai
phân bậc 1 với mức ý nghĩa 1%.
4.3. Kết quả mô hình VAR và thảo luận
Sau khi tiến hành kiểm định độ trễ tối ưu
của mô hình, nhóm tác giả xác định sử dụng
mô hình ước lượng VAR ở độ trễ 3.
Bảng 5: Kết quả đánh giá tác động của RER đến
FDI
Biến
Δ FDI
Hệ số hồi qui Mức ý nghĩa
Hằng số 0,5509 0,131
ΔFDI (-1) - 0,8469 0,000***
ΔFDI (-2) - 0,5283 0,000***
ΔFDI (-3) - 0,4024 0,000***
ΔRER(-1) 0,7400 0,688
ΔRER(-2) - 1,4747 0,413
ΔRER(-3) - 3,3103 0,061**
Ghi chú: *, ** và *** có ý nghĩa tương
ứng ở mức 10%, 5% và 1%
Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm tác giả
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(03) - 2019
7
Song song đó, nhóm tác giả thực hiện
kiểm tra sự ổn định của mô hình. Kết quả
kiểm định cho thấy các nghiệm đều nằm
trong vòng tròn đơn vị nên mô hình VAR với
độ trễ 3 có tính ổn định và phù hợp.
-1
-.
5
0
.5
1
Im
a
g
in
a
ry
-1 -.5 0 .5 1
Real
Roots of the companion matrix
Hình 2: Vòng tròn đơn vị
Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm tác giả
Kết quả ước lượng mô hình VAR:
Về tác động của cú sốc FDI trong quá khứ
đến FDI hiện tại, kết quả mô hình VAR cho
thấy, FDI bị tác động tiêu cực bởi những biến
động của FDI trong quá khứ (với độ trễ từ 1
quý đến 3 quý ở mức ý nghĩa 1%). Mức độ tác
động giảm dần từ độ trễ 1 quý đến độ trễ 3 quý.
Sau đó, FDI dần phục hồi và ổn định. Kết quả
này cho thấy lượng vốn FDI trong những năm
trước có tác động đến lượng vốn FDI vào Việt
Nam trong năm hiện tại. Đồng thời, lượng vốn
FDI huy động được trong hiện tại cũng sẽ là
nhận tố quyết định đến vốn FDI trong những
năm sau này. (hình 3).
-1
-.5
0
.5
1
0 2 4 6 8 0 2 4 6 8
irf, dlnfdi, dlnfdi irf1, dlnfdi, dlnfdi
95% CI impulse response function (irf)
step
Graphs by irfname, impulse variable, and response variable
Hình 3. Phản ứng đẩy của FDI trong quá khứ
đến FDI hiện tại
Về tác động của tỷ giá thực đến FDI hiện
tại, nghiên cứu chưa tìm thấy tác động có ý
nghĩa thống kê của biến ΔRER(-1), ΔRER(-
2) đến vốn FDI vào Việt Nam. Tuy nhiên, kết
quả nghiên cứu cho thấy biến ΔRER(-3) có
tác động ngược chiều đến vốn FDI vào Việt
Nam. FDI bị tác động tiêu cực bởi RER sau 3
quý với mức ý nghĩa 10%. Sau đó, FDI dần
phục hồi và ổn định..
-5
0
5
0 2 4 6 8 0 2 4 6 8
irf, dlnrer, dlnfdi irf1, dlnrer, dlnfdi
95% CI impulse response function (irf)
step
Graphs by irfname, impulse variable, and response variable
Hình 4. Phản ứng đẩy của RER đến FDI
4.4. Thảo luận
Nghiên cứu này sử dụng biến tỷ giá tính
theo phương pháp yết giá trực tiếp, do đó, khi
tỷ giá tăng có nghĩa là VND đang có khuynh
hướng mất giá so với USD. Kết quả nghiên
cứu cho thấy, biến ΔRER(-3) có tác động
ngược chiều đến biến ΔFDI có ý nghĩa thống
kê là 10%. Cụ thể, sự mất giá của VND ở độ
trễ 3 làm giảm FDI vào Việt Nam. Kết quả
này tuy trái ngược với quan điểm của Froot
và Stein (1991) nhưng lại phù hợp với kết
luận của Campa (1993), Alba, Wang và Park
(2010), Boateng và cộng sự (2015), Djulius
(2017) về tác động của tỷ giá đến FDI. Sự
giảm giá trị đồng nội tệ sẽ khiến các nhà đầu
tư lo lắng về giảm lợi nhuận trong tương lai,
do đó họ giảm đầu tư FDI vào quốc gia đó
(Cushman, 1985). Trong trường hợp này, sự
mất giá của VND làm giảm động cơ đầu tư
FDI của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam trong tương lai.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
8
5. Kết luận
Bài báo đã sử dụng mô hình VAR để
kiểm định tác động của tỷ giá đến vốn FDI
vào Việt Nam giai đoạn 1996-2018. Kết quả
nghiên cứu cho thấy tỷ giá thực tác động đến
vốn FDI vào Việt Nam với ý nghĩa thống kê
10%. Cụ thể, sự mất giá của VND ở độ trễ 3
tác động làm giảm FDI vào Việt Nam. Mặt
khác, nghiên cứu tìm thấy rằng, vốn FDI vào
Việt Nam chịu tác động bởi chính yếu tố FDI
trong quá khứ. Kết quả nghiên cứu cũng
tương đồng với các nghiên cứu trước như:
Campa (1993), Alba, Wang và Park (2010),
Boateng và cộng sự (2015), Djulius (2017)
về tác động của tỷ giá đến FDI. Nghiên cứu
đã đóng góp một bằng chứng thực nghiệm về
tác động của tỷ giá đến vốn FDI ở VIệt Nam
– điển hình cho trường hợp quốc gia đang
phát triển, còn thiếu vắng các nghiên cứu về
vấn đề này. Đồng thời, kết quả nghiên cứu
cung cấp thêm cơ sở cho các nhà quản lý
trong việc quản lý vốn FDI và điều hành tỷ
giá trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, do
hạn chế về số liệu thu thập nên nghiên cứu có
ý nghĩa thống kê chưa cao. Bên cạnh đó, do
hạn chế về thời gian và phạm vi nghiên cứu
nên nghiên cứu này chưa thực hiện đo lường
biến động của tỷ giá cũng như đánh giá được
tác động của biến động tỷ giá đến vốn FDI.
Đồng thời, nghiên cứu cũng chưa xem xét
đánh giá tác động của FDI đến biến động tỷ
giá ở VIệt Nam. Đây cũng là vấn đề mà
nhóm tác giả quan tâm và sẽ tiếp tục bổ sung
các nghiên cứu về vấn đề này trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Alba, J. D., Wang, P., & Park, D. (2010). The impact of exchange rate on FDI and the
interdependence of FDI over time. The Singapore Economic Review, 55(04), 733-747.
Barrell, R., & Pain, N. (1996). An econometric analysis of US foreign direct
investment. The review of economics and statistics, 200-207.
Blonigen, Bruce A. (1997) “Firm-Specific Assets and the Link between Exchange Rates and
Foreign Direct Investment”. American Economic Review, 87(3): 447-465.
Boateng, A., Hua, X., Nisar, S., & Wu, J. (2015). Examining the determinants of inward
FDI: Evidence from Norway. Economic Modelling, 47, 118-127.
Bouoiyour, J., & Rey, S. (2005). Exchange rate regime, real exchange rate, trade flows and
foreign direct investments: the case of Morocco. African Development Review, 17(2),
302-334.
Barrell, R., & Pain, N. (1996). An econometric analysis of US foreign direct
investment. The review of economics and statistics, 200-207. Campa, J. M. (1993).
Entry by foreign firms in the United States under exchange rate uncertainty. The
Review of Economics and Statistics, 614-622.
Campa, J. M. (1993). Entry by foreign firms in the United States under exchange rate
uncertainty. The Review of Economics and Statistics, 614-622.
Djulius, H. (2017). Energy use, trade openness, and exchange rate impact on foreign direct
investment in Indonesia. International Journal of Energy Economics and Policy, 7(5),
166-170.
Froot, K. A., & Stein, J. C. (1991). Exchange rates and foreign direct investment: an
imperfect capital markets approach. The Quarterly Journal of Economics, 106(4),
1191-1217.
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(03) - 2019
9
Itagaki, T. (1981). The theory of the multinational firm under exchange rate
uncertainty. Canadian Journal of Economics, 276-297.
Kodongo, O., & Ojah, K. (2013). Real exchange rates, trade balance and capital flows in
Africa. Journal of Economics and Business, 66, 22-46.
Kogut, B., & Chang, S. J. (1996). Platform investments and volatile exchange rates: Direct
investment in the US by Japanese electronic companies. The Review of Economics and
Statistics, 221-231
Pozo, C. A. D. S. (2001). Foreign exchange rates and foreign direct investment in the United
States. The International Trade Journal, 15(3), 323-343.
Takagi, S., & Shi, Z. (2011). Exchange rate movements and foreign direct investment (FDI):
Japanese investment in Asia, 1987–2008. Japan and the World Economy, 23(4), 265-
272.
Yang, J. Y. Y., Groenewold, N., & Tcha, M. (2000). The determinants of foreign direct
investment in Australia. Economic Record, 76(232), 45-54.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tac_dong_cua_ty_gia_den_von_dau_tu_truc_tiep_nuoc_ngoai_tai.pdf