Kết luận
Sự giảm sút giá dầu thế giới nhìn chung
giúp cải thiện mức sống thực tế của người
dân Việt Nam tuy rằng lợi ích đó không đồng
đều giữa các nhóm hộ gia đình. Cách tiếp cận
thông qua mô hình CGE cho phép mô phỏng
tác động của việc giảm giá dầu tương ứng
với giai đoạn biến động của giá dầu thô thế
giới năm 2012-2016, từ đó có thể phân tích
và so sánh mức phúc lợi của các nhóm hộ gia
đình thông qua các kênh lan truyền tác động
khác nhau. Kết quả phân tích cho thấy mức
tiêu dùng xăng dầu của các nhóm hộ gia đình
là yếu tố cơ bản quyết định đến mức độ phúc
lợi của các nhóm hộ gia đình. Khoảng cách
mức sống của các nhóm hộ ở khu vực nông
thôn và thành thị có khả năng thu hẹp lại
trong khi khoảng cách giàu nghèo giữa các
nhóm hộ phi nông nghiệp trong cùng một
khu vực có nguy cơ bị nới rộng ra. Đặc biệt,
phần lớn nhóm hộ gia đình nông nghiệp ở
nông thôn nhận được lợi ích đáng kể từ tác
động giá dầu giảm so với các nhóm hộ còn
lại. Riêng nhóm hộ phi nông nghiệp thành thị
với mức thu nhập cao nhất (nhóm HOH_10)
đạt mức phúc lợi cao nhất do tỷ trọng tiêu
dùng cuối cùng các sản phẩm xăng dầu trong
đời sống lớn nhất. Việc phân tích tác động đa
chiều của việc giảm giá dầu đến phân phối
thu nhập của các nhóm hộ gia đình cung cấp
cơ sở khoa học để các nhà hoạch định chính
sách có thể xem xét và xây dựng những
chính sách phát huy những tác động tích cực
và giảm thiểu những tác động tiêu cực do cú
sốc này có thể gây ra đối với việc phân hóa
giàu nghèo và giảm thiểu rủi ro cho các
nhóm hộ bị bất lợi.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 255 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của việc giảm giá dầu đến phúc lợi của các nhóm hộ gia đình Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(03) - 2018
1
TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC GIẢM GIÁ DẦU ĐẾN PHÚC LỢI CỦA CÁC
NHÓM HỘ GIA ĐÌNH VIỆT NAM
THE IMPACTS OF FALLING OIL PRICES ON VIETNAMESE HOUSEHOLD WELFARE
Ngày nhận bài: 29/06/2018
Ngày chấp nhận đăng: 21/09/2018
Nguyễn Mạnh Toàn, Nguyễn Hữu Nguyên Xuân
TÓM TẮT
Biến động giá dầu do sự chênh lệch cung - cầu cũng như các điều kiện kinh tế- chính trị luôn gây
nên tình trạng bất ổn cho nền kinh tế ở quy mô toàn cầu. Sau khi đạt mức cao kỷ lục với 109,45
USD/ 1 thùng vào năm 2012, giá dầu thô thế giới bắt đầu giảm liên tục đến năm 2016 với mức giá
40,68 USD/ 1thùng. Dưới tác động của việc giảm giá dầu thô quốc tế trong lịch sử giai đoạn 2012-
2016, bài báo đã sử dụng cách tiếp cận của mô hình cân bằng tổng thể dạng tĩnh (CGE) dựa trên
nguồn dữ liệu từ ma trận hạch toán xã hội Việt Nam 2012 (VNSAM 2012) để đánh giá sự thay đổi
phúc lợi của các nhóm hộ gia đình. Kết quả mô phỏng cho thấy phúc lợi của các hộ dân được cải
thiện đáng kể khi giá dầu giảm nhưng sự gia tăng phúc lợi này không đồng đều giữa các nhóm hộ.
Trong đó, các nhóm hộ gia đình nông nghiệp ở nông thôn và nhóm hộ gia đình phi nông nghiệp có
mức thu nhập cao nhất ở thành thị được hưởng lợi lớn nhất từ tác động của sự biến động giá dầu.
Kết quả phân tích cho thấy mức độ ảnh hưởng chủ yếu đến phúc lợi của các nhóm hộ từ kênh tiêu
thụ xăng dầu, là cơ sở để chính phủ có thể xây dựng những chính sách điều tiết hoặc hỗ trợ kịp
thời cho các đối tượng chịu ảnh hưởng từ các biến động này.
Từ khóa: giá dầu, CGE, VNSAM 2012, phúc lợi.
ABSTRACT
The volatility of oil prices caused by supply-demand disparities as well as economic and political
conditions has always triggered economic instability on a global scale. After reaching a record high
of 109.45 USD a barrel by 2012, world crude oil prices have been falling steadily until 2016 at
40.68 USD per barrel. The paper uses the static CGE model based on accounting matrix Viet Nam
2012 (VNSAM 2012) to assess the welfare of the household groups under the impact of
international crude oil price declines during the period from 2012 to 2016. The results show that the
living standards of households have improved significantly in falling oil prices but the increased
welfare is unequal among household groups. In which, the rural farm household groups and the
highest-income non-farm household in urban are benefited most by the impact of oil price
fluctuations. The findings of the analysis highlight the major impact on social welfare through the
fuel consumption channel, that is the basis for the Government to develop policies regulating or
supporting household groups affected by these fluctuations in a timely manner.
Keywords: Oil price, static CGE, VNSAM 2012, welfare.
1. Giới thiệu
Nhu cầu về năng lượng thường gắn liền
với sự phát triển của các nền kinh tế. Trong
đó, xăng dầu được xem là một trong những
yếu tố đầu vào cần thiết trong các hoạt động
sản xuất hàng hóa và dịch vụ như sản xuất
điện, đánh bắt thủy sản, công nghiệp chế
biến, giao thông vận tảiDo dầu thô lại là
nguồn nguyên liệu chủ yếu để sản xuất xăng
dầu, vì vậy, bất kỳ tác động nào đến giá dầu
thế giới cũng gây ảnh hưởng đến giá xăng
dầu, từ đó tác động đến sự phát triển kinh tế
các quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào nguồn
nhiên liệu này.
Sự chênh lệch về cung – cầu và các điều
kiện kinh tế - chính trị khách quan khác gây
nên sự biến động của giá dầu thô thế giới,
Nguyễn Mạnh Toàn, Nguyễn Hữu Nguyên Xuân,
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
2
dẫn đến sự tăng hoặc giảm giá xăng dầu theo
thời gian. Gần đây nhất, trong giai đoạn từ
2012-2016, thế giới một lần nữa chứng kiến
sự lao dốc của giá dầu. Sau khi đạt mức cao
kỷ lục với 109,45 USD/ 1 thùng vào năm
2012, giá dầu thô thế giới bắt đầu giảm liên
tục đến năm 2016 với mức giá 40,68 USD/ 1
thùng. Sự giảm giá dầu đã tác động đến giá
xăng dầu thế giới và Việt Nam.
Theo số liệu thống kê của Tập đoàn dầu
khí Anh Quốc (BP), Việt Nam đứng thứ 28
trên tổng số 52 nước trên thế giới có tài
nguyên dầu khí (Bp statistic, 2014). Xuất
khẩu dầu khí đóng góp quan trọng vào thu
ngân sách của Chính phủ. Chính vì vậy, sự
biến động của thị trường dầu mỏ quốc tế ảnh
hưởng không nhỏ đến nền kinh tế Việt Nam,
từ đó tác động đến phúc lợi và các chương
trình trợ cấp của chính phủ. Bên cạnh đó, giai
đoạn 2012-2016, giá xăng dầu trong nước
luôn trong tình trạng bất ổn và có xu hướng
giảm theo giá dầu thô trên thị trường thế giới.
Mặc dù có độ trễ của sự giảm sút giá dầu
theo thời gian nhưng nhìn chung sự biến
động giá xăng dầu tại Việt Nam và thế giới
có sự tương đồng (Hình 1 và 2).
Hình 1: Biến động giá dầu thô quốc tế giai đoạn
1999 – 2017
Nguồn: OPEC
Hình 2: Biến động giá xăng dầu Việt Nam giai
đoạn 2010 – 2018
Nguồn: Trading economics
Có thể nói, mục tiêu cuối cùng của bất kỳ
chiến lược kinh tế của quốc gia nào cũng
hướng đến việc đạt được mức độ thỏa mãn
của người dân đối với cuộc sống của họ hay
nói cách khác là nâng cao phúc lợi của các
nhóm hộ gia đình. Việt Nam mặc dù có
nguồn lực lao động dồi dào nhưng trình độ
kỹ thuật – công nghệ còn thấp nên năng suất
lao động chưa cao. Chính vì vậy mà mức
lương của một số bộ phận người lao động
khá thấp, ví dụ như nhóm hộ gia đình nghèo
ở thành thị. Điều này tạo nên khoảng cách
thu nhập khá lớn giữa các nhóm hộ gia đình
và dễ bị tổn thương bởi các cú sốc kinh tế.
Do đó, phúc lợi của các nhóm hộ cũng là một
trong những vấn đề thu hút sự quan tâm lớn
của Chính phủ, đặc biệt khi xuất hiện các cú
sốc ngoại sinh tác động đến toàn nền kinh tế.
Sự biến động giá dầu trên thế giới dẫn đến sự
thay đổi giá xăng dầu Việt Nam đã tác động
trực tiếp đến cơ cấu kinh tế, từ đó ảnh hưởng
đến việc làm, thu nhập và cuối cùng là phúc
lợi của các nhóm hộ. Tại Việt Nam hiện chưa
có nghiên cứu nào cụ thể, rõ ràng về phân
tích tác động của việc giảm giá dầu đến thay
đổi phúc lợi của các nhóm hộ gia đình. Chính
vì vậy, việc dự báo và phân tích tác động đa
chiều của cú sốc giá dầu đến thu nhập và
phúc lợi của các nhóm hộ gia đình là hết sức
quan trọng và cần thiết để Chính phủ có thể
xây dựng những chính sách điều tiết hoặc hỗ
trợ kịp thời cho các đối tượng chịu ảnh
hưởng từ các biến động này, đảm bảo công
bằng xã hội.
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(03) - 2018
3
2. Tổng quan nghiên cứu
Bởi vì các cú sốc giá dầu gây nên những
ảnh hưởng mang tính toàn cầu nên sự biến
động thị trường dầu mỏ thế giới đến phúc lợi
của các nhóm hộ gia đình luôn là đề tài được
các nhà nghiên cứu và xây dựng chính sách
quan tâm. Các tác động tăng trưởng và nghèo
đói gây nên bởi sự biến động giá dầu có sự
khác biệt đáng kể giữa các nước tùy thuộc
vào giai đoạn phát triển, sức mạnh tài chính,
cơ cấu kinh tế và quá trình chuyển nhượng.
Bên cạnh đó, sự tồn tại của các kênh khác
nhau trong việc lan truyền tác động giá dầu
đến phúc lợi của các nhóm hộ gia đình làm
cho việc xác định mối liên hệ giữa biến động
giá dầu và mức độ phúc lợi trong thực tế
tương đối phức tạp. Hầu hết trong các nghiên
cứu, phương pháp cân bằng tổng thể khả tính
(CGE) được sử dụng rộng rãi như một khung
phân tích để tìm hiểu tác động tăng trưởng và
nghèo đói của sự biến động giá dầu. Các mô
hình này có thể mô tả chi tiết các kênh truyền
dẫn của các chính sách kinh tế vĩ mô đến các
thành phần trong nền kinh tế. Điều này khó
có thể thực hiện với các mô hình I/O, VAR
hoặc mô hình DSGE, mô hình cân bằng cục
bộ (Partial Equilibrium)
Phần lớn các nghiên cứu cho thấy sự tăng
giá dầu đột ngột và lâu dài thường dẫn đến
các suy thoái kinh tế và lạm phát tài chính
(Brown and Yücel, 2002, tr. 193-208). Trong
thời kỳ giá dầu tăng, giá cả một số loại hàng
hóa sẽ tăng tương đối, dẫn đến thu nhập thực
tế của các hộ gia đình giảm, từ đó tác động
trực tiếp đến phúc lợi của các nhóm hộ gia
đình. Sánchez M. V. (2011, tr. 321-346) kết
hợp mô hình CGE đệ quy – động và tập hợp
dữ liệu đặc trưng của mỗi quốc gia chỉ ra
rằng, trong suốt thời kỳ giá dầu tăng từ 2002-
2006, tăng trưởng kinh tế thấp đã dẫn đến sự
thu hẹp nhu cầu lao động; thất nghiệp gia
tăng song song với việc giá tiêu dùng tăng đã
ảnh hưởng tiêu cực đến phúc lợi của các
nhóm hộ gia đình ở 6 quốc gia: Bangladesh,
El Salvador, Kenya, Nicaragua, Tanzania và
Thái Lan. Sự kết hợp giữa mô hình GTAP và
mô hình CGE trong nghiên cứu biến động
giá dầu năm 2007-2008 ở Sri Lanka của
Naranpanawa A. và Bandara J. S. (2012, tr.
102-111) đã làm rõ các hộ thu nhập thấp ở
thành thị là nhóm bị ảnh hưởng nặng nề nhất
khi giá dầu thế giới tăng, tiếp đến là các hộ
thu nhập thấp ở nông thôn. Riêng đối với các
quốc gia xuất khẩu dầu ròng, như Trung
Đông, Bắc Phi (MENA) và Nga, kinh
nghiệm cho thấy phúc lợi ở các nước này
tăng lên vì họ được hưởng lợi từ việc tăng
giá dầu (Maisonnave H. và các cộng sự,
2012, tr. 172-176). Ganguly A. và Das K.
(2016, tr. 345-360) đã sử dụng mô hình CGE
kết hợp với bộ dữ liệu ma trận hạch toán xã
hội của Ấn Độ năm 2007-2008 để đánh giá
tác động của việc giảm giá dầu đến thu nhập
của các nhóm hộ. Đối với kịch bản giá dầu
giảm và trợ cấp năng lượng không đổi, kết
quả phân tích cho thấy chuyển nhượng của
chính phủ cho các nhóm hộ giảm làm cho thu
nhập của các hộ gia đình ở nông thôn và
thành thị giảm 0,08% và 0,5% tương ứng.
Yaron A. & Hitzemann S. (2016) đã định
lượng các chi phí phúc lợi của những cú sốc
giá dầu đối với nền kinh tế Hoa Kỳ - một
trong những nước nhập khẩu dầu lớn trên thế
giới dựa trên mô hình cân bằng tổng thể. Kết
quả phân tích cho thấy tiêu thụ của các nhóm
hộ gia đình có ảnh hưởng lớn đến phúc lợi
của họ khi các biến động giá dầu xảy ra.
Chính vì vậy việc xem xét giảm cường độ
tiêu thụ dầu của các nhóm gia đình sẽ làm
giảm được những tác động tiêu cực nếu có
được gây ra bởi những cú sốc giá dầu. Tác
động của việc tăng hoặc giảm giá dầu thô đến
phúc lợi của các nhóm hộ gia đình là khác
nhau tùy thuộc vào bối cảnh của từng quốc
gia. Là một quốc gia phụ thuộc nhiều vào
nguồn năng lượng xăng dầu, nền kinh tế Việt
Nam khá nhạy cảm với những biến động từ
giá dầu thô thế giới. Vì vậy, nghiên cứu tác
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
4
động của giảm giá dầu đến phúc lợi của các
nhóm hộ gia đình là cần thiết đối với việc
xem xét sử dụng nguồn năng lượng này một
cách hợp lý để đạt được phúc lợi cao nhất
cho các hộ dân khi cú sốc giá dầu diễn ra.
Tại Việt Nam hiện nay mặc dù có những
nghiên cứu xem xét tác động của thị trường
giá dầu đến hoạt động nền kinh tế như
Nguyễn Đức T., Bùi T., Đào Nguyên T.
(2009, tr. 25-38), Nguyễn Thị Thu H. và
Nguyễn Đức T. (2010)tuy nhiên các
nghiên cứu trên chủ yếu sử dụng mô hình
I/O, mô hình Véc tơ điều chỉnh sai số
(VECM)và chưa có nghiên cứu nào phân
tích tác động của biến động giá dầu đến phúc
lợi của các nhóm hộ gia đình bằng mô hình
CGE.Vì vậy, bài báo cho thấy khả năng ứng
dụng của tiếp cận CGE đối với việc đánh giá
sự thay đổi giá dầu đến phúc lợi của các
nhóm hộ gia đình trong bối cảnh nền kinh tế
Việt Nam.
3. Mô hình, dữ liệu, và kịch bản nghiên
cứu
3.1. Mô hình
Trong bài báo này, tác giả dựa trên cấu
trúc lý thuyết của mô hình trong các nghiên
cứu của Dervis, de Melo, và Robinson S.
(1982), Vargas E., Schreiner F. và cộng sự
(1999), Hosoe N. (2001, tr. 281-321), Chen
M.C. (2004, tr. 127-151), Nguyễn Mạnh T.
(2010, tr. 19-26) để xây dựng một mô hình
CGE chuẩn cho nền kinh tế mở, qui mô nhỏ,
chấp nhận giá và cạnh tranh theo định hướng
thị trường. Mô hình cho phép mô phỏng biến
động của sự thay đổi giá dầu thô và giá xăng
dầu đến nền kinh tế Việt Nam nói chung và
phúc lợi nói riêng.
Trong ứng dụng mô hình CGE, nền kinh
tế ban đầu được giả định đang ở vị trí cân
bằng, nghĩa là với mức giá cả hiện tại, tổng
cung của tất cả các loại hàng hoá được giả
định cân bằng với tổng cầu của nó. Dưới tác
động của một “cú sốc” giá dầu và giá xăng
dầu, toàn bộ nền kinh tế sẽ dịch chuyển từ
điểm cân bằng này sang một điểm cân bằng
khác, từ đó cho phép tính toán sự thay đổi
các biến số của nền kinh tế Việt Nam. Mô
hình trong nghiên cứu này mô phỏng hoạt
động của 25 ngành sản xuất. Trong đó bao
gồm ngành khai thác dầu thô (C6) và sản
xuất xăng dầu (sản xuất sản phẩm từ dầu mỏ
- C13). Mỗi ngành sử dụng các yếu tố đầu
vào trung gian và các nhân tố sản xuất (vốn
và 6 loại lao động) để phục vụ cho hoạt động
sản xuất của mình. Những tiêu chí được sử
dụng để phân loại lao động là: vị trí địa lý
(nông thôn/ thành thị) và kỹ năng làm việc
(lao động phổ thông/ lao động có tay nghề/
lao động có kỹ năng cao). Như vậy 6 loại lao
động trong mô hình sẽ phân chia vào 2 vùng:
khu vực nông thôn: L1, L2, L3 và khu vực
thành thị: L4, L5, L6. Ở mỗi nhóm, ký kiệu
số tăng dần thể hiện trình độ tay nghề tăng
lên của các loại lao động tương ứng ở mỗi
khu vực.
Một trong những đặc trưng cơ bản của mô
hình này là sự phân nhóm hộ gia đình để
nghiên cứu sự phân phối thu nhập đến từng
nhóm hộ trong nền kinh tế. Mô hình bao gồm
20 nhóm hộ gia đình được phân loại theo các
chỉ tiêu vị trí địa lý (nông thôn/thành thị);
lĩnh vực hoạt động của chủ hộ gia đình (nông
nghiệp/ phi nông nghiệp) và theo mức thu
nhập (5 nhóm thu nhập từ cao nhất đến thấp
nhất, mỗi nhóm gồm 20% số hộ). Mỗi nhóm
hộ gia đình được giả định sở hữu vốn cũng
như tất cả các loại lao động, nhận thu nhập từ
vốn và các loại lao động khác nhau, chuyển
nhượng từ chính phủ và nước ngoài.
Cơ chế lan truyền tác động của việc giảm
giá xăng dầu đến phúc lợi của các nhóm hộ
gia đình thông qua nhiều mối quan hệ phức
tạp có thể giải thích theo 2 tác động chủ yếu
sau đây (Hình 3):
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(03) - 2018
5
Hình 3: Các kênh tác động đến mức sống cỉa các nhóm hộ gia đình dưới tác động của giá dầu
giảm
Tác động trực tiếp được lan truyền chủ
yếu thông qua tiêu dùng cuối cùng của các
nhóm hộ gia đình đối với xăng dầu. Các
nhóm hộ gia đình tiêu dùng các sản phẩm
xăng dầu chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tiêu
dùng của họ thì sẽ nhận được sự tác động
tích cực khi giá xăng dầu giảm (Kênh 1).
Tác động gián tiếp được lan truyền theo
một cơ chế phức tạp thông qua 2 kênh:
Giá dầu thô giảm được dự đoán sẽ làm
giảm chi phí đầu vào của các ngành sản xuất
sử dụng dầu thô và xăng dầu như nguồn
nguyên liệu đầu vào trong hoạt động sản xuất
của mình, từ đó dẫn đến hiệu quả kinh tế của
các ngành này biến đổi và tác động đến thu
nhập từ vốn và lao động của các nhóm hộ gia
đình. Ngoài ra, với các ngành nhận được sự
tác động tích cực khi giá xăng dầu giảm được
dự đoán có thể thu hút nhiều vốn đầu tư, mở
rộng quy mô sản xuất hơn so với các ngành
bị bất lợi. Cơ cấu sản xuất của nền kinh tế
thay đổi sẽ ảnh hưởng đến số lượng việc làm,
mức lương và do đó tác động gián tiếp đến
mức sống các nhóm hộ gia đình thông qua
nguồn thu nhập. Mặt khác, những biến đổi
này có thể dẫn đến sự thay đổi trong cung –
cầu về vốn đầu tư, tỷ lệ thu nhập giành cho
tiêu dùng cũng như tỷ lệ tiết kiệm giành cho
đầu tư của mỗi nhóm hộ, từ đó sẽ ảnh hưởng
đến mức sống của các hộ gia đình (Kênh 2)
Do giá dầu giảm tác động đến các ngành
sản xuất trong nền kinh tế và cung – cầu đối
với từng loại hàng hóa nên giá tương đối của
các loại sản phẩm, hàng hóa trong nền kinh
tế thay đổi. Sự thay đổ biến động giá cả của
các mặt hàng tiêu dùng là một trong những
Thay đổi thu nhập
của các nhân tố lao
động và vốn trong
nền kinh tế
Tác động
gián tiếp
Thay đổi giá tương
đối của các sản
phẩm hàng hóa
trong nền kinh tế
Giảm giá
xăng dầu
Tác động
trực tiếp
Mức tiêu dùng cuối
cùng về xăng dầu
của mỗi nhóm hộ
Thay đổi
phúc lợi
của các
nhóm hộ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
6
tác nhân quan trọng làm thay đổi cơ cấu tiêu
dùng của các nhóm hộ. Một số loại hàng hóa
trở nên rẻ hơn, trong lúc một số loại khác đắt
hơn một cách tương đối. Giả sử mức thu
nhập của các nhóm hộ có tăng lên do giá
xăng dầu giảm nhưng những nhóm hộ sử
dụng nhiều những loại sản phẩm, hàng hóa
có giá trở nên đắt hơn tương đối có thể bị
thiệt làm cho thu nhập thực tế của nhóm hộ
này giảm xuống. Trong khi đó những nhóm
hộ gia đình sử dụng nhiều các sản phẩm hàng
hóa có giá trở nên rẻ hơn tương đối sẽ được
lợi (Kênh 3).
Ngoài ra, việc giảm giá dầu ảnh hưởng
đến hoạt động của các ngành kinh tế nên có
thể ảnh hương đến nguồn thu ngân sách của
Chính phủ trong ngắn hạn, do đó sẽ làm thay
đổi khoản chuyển nhượng từ Chính phủ cho
các hộ gia đình.
3.2. Dữ liệu
Số liệu được sử dụng để tính toán dựa trên
bảng SAM của Việt Nam 2012 do CIEM
công bố. Để thuận tiện cho việc tính toán, 63
ngành kinh tế trong SAM được gộp thành 25
ngành.
3.3. Kịch bản nghiên cứu
Giá xăng dầu Việt Nam đã dựa trên cơ sở
giá thế giới và các loại thuế cũng như mức
trích/ xả quỹ bình ổn giá xăng dầu. Đồng
thời, căn cứ vào định mức chi phí kinh doanh
và mức lợi nhuận hợp lý để quyết định giá cơ
sở - căn cứ để điều chỉnh giá bán lẻ theo chu
kỳ 15 ngày theo nghị định số 83/2014/NĐ-
CP cho nên tuy là giá xăng dầu giảm cùng
nhịp điệu với sự giảm của giá dầu thô nhưng
mức giảm vẫn ít hơn với tốc độ chậm hơn.
Do đó, trong giai đoạn 2012-2016 vào thời
điểm giá dầu chạm đáy vào tháng 2/2016
giảm hơn 50% so với thời điểm giá dầu đạt
mức cao nhất vào năm 2012 thì giá xăng chỉ
giảm dưới 40% (Hình 1 và 2). Chính vì vậy
kịch bản nghiên cứu được đề xuất như sau:
Bảng 1: Tỷ trọng sử dụng xăng dầu của các
nhóm hộ gia đình
Nguồn: Bảng cân đối liên ngành của Việt Nam
năm 2012
Giá xuất khẩu dầu thô và nhập khẩu dầu
thô giảm 50% đồng thời giá nhập khẩu và
xuất khẩu xăng dầu sẽ giảm 35%. Các yếu tố
khác trong nền kinh tế không thay đổi.
4. Kết quả
Tác động trực tiếp (Kênh 1):
Tỷ trọng chi tiêu cho xăng dầu của các
nhóm hộ gia đình với các mức thu nhập khác
nhau là không giống nhau. Bảng 1 cho thấy
tỷ trọng sử dụng xăng dầu của các nhóm hộ
gia đình. Trong đó nhóm 10 có tỷ trọng tiêu
dùng cao nhất, chiếm 32,95% tổng số xăng
dầu được sử dụng cho tiêu dùng cuối cùng
của hộ gia đình trong nền kinh tế. Trên cơ sở
này có thể dự đoán rằng giá dầu giảm sẽ tạo
nên ảnh hưởng tích cực đến phúc lợi của
nhóm hộ này. Ngược lại, nhóm 6 có tỷ trọng
tiêu dùng xăng dầu thấp nhất (0,08%) nên
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(03) - 2018
7
mức độ phúc lợi của nhóm hộ này được dự
đoán sẽ ít được cải thiện nhất khi biến động
giá dầu xảy ra.
Tác động gián tiếp:
Kênh 2: Kết quả mô phỏng cho thấy mức
lương tăng lên đối với tất cả các loại lao
động trong nền kinh tế, biểu hiện sự tăng lên
về phía cầu đối với tất cả các loại lao động.
Dưới tác động của kịch bản nghiên cứu, giá
trị sản xuất của các ngành có lợi thế (thủy
sản, vận tải, dầu khí, khai thác than) có cơ
hội tăng trưởng nhanh và mở rộng đầu tư để
phát triển quy mô sản xuất và xuất khẩu.
Điều này dẫn đến nhu cầu lao động tăng cao
gắn liền với sự cải thiện mức lương ở các
loại lao động. Những nhóm hộ gia đình sở
hữu tỷ trọng lớn các loại lao động này sẽ có
khuynh hướng cải thiện mức sống của mình.
Ngược lại các ngành như dệt may, giày
damặc dù ít bị ảnh hưởng trực tiếp từ tác
động giảm giá dầu do ít nhu cầu sử dụng
xăng dầu làm nguyên liệu đầu vào trong hoạt
động sản xuất nhưng bị lấn át bởi sự chuyển
dịch nguồn lực lao động trong nền kinh tế. Vì
vậy các ngành này được dự đoán có thể gặp
áp lực về lực lượng lao động cũng như mức
lương tăng theo mặt bằng chung trong nền
kinh tế. Kết quả mô phỏng ở Hình 4 cho thấy
mức lương của 6 loại lao động đều có xu
hướng tăng theo trình độ lao động từ thấp
đến cao tương ứng ở cả hai khu vực nông
thôn và thành thị. Mức tăng trưởng lương của
các loại lao động với tốc độ khác nhau sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến mức sống của người dân
thông qua nguồn thu nhập. Trong đó, nhóm
lao động trình độ cao ở nông thôn (nhóm L6)
có mức lương tăng nhiều nhất, khoảng 9,3%
so với năm gốc. Tiếp đó là nhóm lao động
cùng trình độ ở khu vực thành thị (nhóm L3),
chiếm tỷ khoảng 8,4%. Vì vậy nhóm hộ gia
đình nào sở hữu tỷ trọng lực lượng lao động
của 2 nhóm này cao sẽ có cơ hội cải thiện thu
nhập của mình.
Hình 4: Thay đổi mức lương của các loại lao động trong nền kinh tế
Nguồn: Tác giả tính toán từ mô phỏng mô hình
Đối với một số ngành thâm dụng lao
động, mặc dù không được hưởng lợi nhiều từ
sự giảm giá dầu nhưng có khả năng sẽ bị ảnh
hưởng tiêu cực khi phải đối mặt với khó khăn
do chi phí nhân công tăng (Bảng 2). Điều này
ảnh hưởng khá lớn đến quyết định mở rộng
sản xuất để tăng sản lượng của các ngành
kinh tế này khi diễn ra cú sốc giá dầu. Xét về
dài hạn, dịch chuyển cơ cấu các ngành kinh
tế sẽ dẫn đến sự biến đổi cung cầu và thu
nhập các nhân tố sản xuất.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
8
Bảng 2: Sử dụng lao động trong các ngành kinh tế của Việt Nam
Đơn vị tính: tỷ đồng
Nguồn: Bảng cân đối liên ngành của Việt Nam năm 2012
Trong mô hình, thu nhập của các nhóm hộ
lao động được phân phối chủ yếu từ các nhân
tố lao động và vốn theo một tỷ lệ sở hữu các
nhân tố cố định. Vì vậy bất kỳ sự thay đổi
nào tác động đến mức lương và thu nhập của
nhân tố sẽ gián tiếp tác động đến thu nhập
của các nhóm hộ. Kết quả mô phỏng ở Bảng
3 cho thấy, dưới tác động của việc giảm giá
Ngành
CP lao động theo
ngành
Giá trị sản xuất
(GTSX)
Tỷ trọng CP lao
động/ GTSX
C1 - Trồng trọt 274,243 590,585 46.44
C2 - Chăn nuôi 55,229 325,525 16.97
C3 - Lâm nghiệp 12,378 26,932 45.96
C4 - Thủy sản 69,920 289,177 24.18
C5 - Khai thác than 8,901 76,086 11.70
C6 - Dầu thô 2,695 273,948 0.98
C7 - Khí tự nhiên 775 105,780 0.73
C8 - Khai khoáng khác 7,949 45,132 17.61
C9 - CN CB thực phẩm 54,095 1,178,572 4.59
C10 - Dệt may 85,274 457,372 18.64
C11 - Giày da 57,038 268,680 21.23
C12 - Gỗ và sp từ gỗ 17,296 221,736 7.80
C13 – SXSP từ dầu mỏ 3,972 242,344 1.64
C14 – SXSP từ hóa chất khác 16,865 226,740 7.44
C15 - Luyện kim 7,788 155,739 5.00
C16 - Máy móc thiệt bị 57,305 779,278 7.35
C17 - Phương tiện tải 7,496 239,734 3.13
C18 - Sản xuất khác 113,069 772,076 14.64
C19 - Xây dựng 137,452 617,413 22.26
C20 - Thương mại 203,171 497,326 40.85
C21 - Khách sạn, nhà hàng 29,255 233,564 12.53
C22 - Vận tải 51,962 334,204 15.55
C23 – B chính, viễn thông 27,454 148,690 18.46
C24 - Tài chính ngân hàng 114,199 515,760 22.14
C25 - Dịch vụ công 216,743 465,103 46.60
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(03) - 2018
9
dầu và xăng dầu, thu nhập từ nhân tố lao
động tăng nhanh trong khi đó thu nhập từ
nhân tố vốn giảm nhẹ. Nhóm hộ gia đình ở
nông thôn có mức tăng về thu nhập cao hơn
so với nhóm hộ ở thành thị, đặc biệt là nhóm
hộ trong lĩnh vực nông nghiệp (bao gồm
nông – lâm – ngư nghiệp). Nhóm hộ này
cũng có mức giảm thu nhập từ vốn cao hơn
so với các nhóm hộ ở thành thị. Nhìn chung,
thu nhập của các nhóm hộ có xu hướng tăng
lên với mức tăng của tổng thu nhập từ các
nhân tố sản xuất trong toàn nền kinh tế đạt
103.008 tỷ đồng.
Bảng 3: Thay đổi thu nhập của các nhóm hộ gia đình từ nhân tố lao động và nhân tố vốn
Đơn vị tính: tỷ đồng
Nguồn: Tác giả tính toán từ mô phỏng mô hình
Kênh 3: Thay đổi giá tương đối của các
loại sản phẩm, hàng hóa trong nền kinh tế là
một nhân tố quan trọng tác động đến thay đổi
tiêu dùng và mức tiêu dùng của các nhóm hộ
gia đình. Kết quả mô phỏng Hình 5 cho thấy
hệ thống giá cả thay đổi đáng kể dưới tác
động của giá dầu giảm. Cụ thể, 5 loại hàng
hóa có mức giá giảm mạnh gồm: dầu mỏ
(C6), xăng dầu (C13), than đá (C5), Vận tải
(C22) và Thủy sản (C4). Trong khi đó những
hàng hóa khác trở nên đắt hơn một cách
tương đối, đáng chú ý là sản phẩm của các
ngành trồng trọt (C1), Chăn nuôi (C2), lâm
nghiệp (C3), CN chế biến thực phẩm (C9),
dệt may (C10), giày da (C11), Thương mại
(C20), Tài chính ngân hàng (C24) và Dịch vụ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
10
công (C25). Có thể dự đoán những nhóm hộ
gia đình sử dụng nhiều các sản phẩm xăng
dầu, vận tải, thủy sản sẽ được lợi trong khi
các hộ gia đình sử đụng nhiều các sản phẩm
khác sẽ bị ảnh hưởng bất lợi của việc tăng
giá tương đối của hầu hết các mặt hàng tiêu
dùng thiết yếu khác.
Hình 5: Thay đổi giá tương đối của các loại hàng hóa
Nguồn: Tác giả tính toán từ mô phỏng mô hình
Kết quả phân tích cho thấy do tác động
tích cực của việc tăng thu nhập lớn hơn các
tác động tiêu cực của việc tăng giá tương đối
của các hàng hóa trong nền kinh tế nên phúc
lợi của tất cả các nhóm hộ gia đình đều tăng
(Bảng 4). Kết quả mô phỏng ở Bảng 1 và
Bảng 4 còn cho thấy mức độ khá tương đồng
giữa thay đổi phúc lợi của các nhóm hộ và tỷ
trọng sử dụng xăng dầu của các nhóm hộ gia
đình. Về mức tăng tuyệt đối, nhóm HOH_10,
HOH_11, HOH_12, HOH_13, HOH_14 và
HOH_15 có mức tăng nhiều nhất và đây
cũng là những nhóm hộ có mức tiêu dùng
xăng dầu lớn nhất trong nền kinh tế. Tuy
nhiên, HOH_9 là nhóm hộ có mức tiêu dùng
xăng dầu khá nhiều nhưng do mức thu nhập
tăng lên không nhiều nên mức phúc lợi được
cải thiện không đáng kể. Trong khi đó nhóm
HOH_11 mặc dù có mức tiêu dùng xăng dầu
có ít hơn so với nhóm HOH_9 nhưng tổng
thu nhập thay đổi từ các nhân tố vốn và lao
động nhiều hơn đã làm cho mức sống của
nhóm hộ gia đình này được cải thiện hơn so
với nhóm HOH_9. Các nhóm hộ nghèo ở
thành thị nhìn chung không được hưởng lợi
nhiều vì tỷ trọng tiêu dùng các sản phẩm liên
quan đến xăng dầu khá thấp.
Bảng 4: Thay đổi phúc lợi của các nhóm hộ gia
đình
Đơn vị tính: tỷ đồng
Nguồn: Tác giả tính toán từ mô phỏng mô hình
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 6(03) - 2018
11
5. Kết luận
Sự giảm sút giá dầu thế giới nhìn chung
giúp cải thiện mức sống thực tế của người
dân Việt Nam tuy rằng lợi ích đó không đồng
đều giữa các nhóm hộ gia đình. Cách tiếp cận
thông qua mô hình CGE cho phép mô phỏng
tác động của việc giảm giá dầu tương ứng
với giai đoạn biến động của giá dầu thô thế
giới năm 2012-2016, từ đó có thể phân tích
và so sánh mức phúc lợi của các nhóm hộ gia
đình thông qua các kênh lan truyền tác động
khác nhau. Kết quả phân tích cho thấy mức
tiêu dùng xăng dầu của các nhóm hộ gia đình
là yếu tố cơ bản quyết định đến mức độ phúc
lợi của các nhóm hộ gia đình. Khoảng cách
mức sống của các nhóm hộ ở khu vực nông
thôn và thành thị có khả năng thu hẹp lại
trong khi khoảng cách giàu nghèo giữa các
nhóm hộ phi nông nghiệp trong cùng một
khu vực có nguy cơ bị nới rộng ra. Đặc biệt,
phần lớn nhóm hộ gia đình nông nghiệp ở
nông thôn nhận được lợi ích đáng kể từ tác
động giá dầu giảm so với các nhóm hộ còn
lại. Riêng nhóm hộ phi nông nghiệp thành thị
với mức thu nhập cao nhất (nhóm HOH_10)
đạt mức phúc lợi cao nhất do tỷ trọng tiêu
dùng cuối cùng các sản phẩm xăng dầu trong
đời sống lớn nhất. Việc phân tích tác động đa
chiều của việc giảm giá dầu đến phân phối
thu nhập của các nhóm hộ gia đình cung cấp
cơ sở khoa học để các nhà hoạch định chính
sách có thể xem xét và xây dựng những
chính sách phát huy những tác động tích cực
và giảm thiểu những tác động tiêu cực do cú
sốc này có thể gây ra đối với việc phân hóa
giàu nghèo và giảm thiểu rủi ro cho các
nhóm hộ bị bất lợi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
BP. BP statistical review of world energy (63rd edition). 2014.
Brown, S.P.A., Yücel, M.K. (2002). Energy prices and aggregate economic activity: an
interpretative survey, Q. Rev. Econ. Finan. 42, 193–208.
Chen, M.C. (2003). The Effects of Tax Incentives on Tax Burden of Profit - Seeking
Enterprises, Management Review, Vol. 22, No. 1, pp. 127-151.
Dervis, Kemal; Jaime de Melo; Robinson S. (1982), General Equilibrium Models for
Development Policy, Cambridge University Press, Cambridge.
EIA. Annual Energy Outlook 2017.
Ganguly A. and Das K. (2016), Impacts of Falling Crude Oil Prices and Reduction of Energy
Subsidies on the Indian Economy: A CGE Modelling Approach, Vis. J. Bus.Perspect., vol.
20, no. 4, pp. 345–360.
Hosoe, N. (2001), Computable General Equilibrium with GAMS, National Graduate Institute
for Policy Studies, Elsevier, vol. 1(3-4) 281-321,
Lê Việt T., Phạm Văn C. (2016), Tổng quan về ngành công nghiệp dầu khí việt nam, Tạp chí
Dầu khí, số 4, trang 56-64, năm 2016.
Maisonnave H., Pycroft J., Saveyn B., and Ciscar J. (2012), Does climate policy make the EU
economy more resilient to oil price rises? A CGE analysis, Energy policy, vol. 47, pp.
172–179, 2012.
Naranpanawa A. and Bandara J. S. (2012). Poverty and growth impacts of high oil prices:
Evidence from Sri Lanka, Energy Policy, vol. 45, pp. 102–111.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
12
Nghị định 83/2014/NĐ-CP ngày 03/09/2014 về kinh doanh xăng dầu.
Nguyễn Đức T., Bùi T., Đào Nguyên T. (2009), Ảnh hưởng của tăng giá xăng dầu: Một số
phân tích định lượng ban đầu, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 25, tr.
25-38.
Nguyễn Mạnh T. (2010), Ứng dụng mô hình cân bằng tổng thể vào phân tích mối quan hệ giữa
ngành công nghiệp chính yếu và các ngành công nghiệp phụ trợ, Tạp chí Kinh tế và Phát
triển, số 159, trang 19-26, năm 2010.
Nguyễn Thị Thu H. và Nguyễn Đức T. (2010), Các nhân tố vĩ mô quyết định lạm phát ở Việt
Nam giai đoạn 2000-2010: các bằng chứng và thảo luận, Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế
và Chính sách VEPR, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Sánchez M.V. (2011), Welfare effects of rising oil prices in oil-importing developing countries,
Dev. Econ., vol. 49, no. 3, pp. 321–346, 2011.
Vargas, E.; Schreiner F. et al. (1999), Computable General Equilibrium Modeling for Regional
Analysis, Web book, Regional Research Institute, West Virginia University.
Yaron A. & Hitzemann S. (2017). Welfare Costs of Oil Shocks, 2017 Meeting Papers 1381,
Society for Economic Dynamics.
https://tradingeconomics.com/vietnam/gasoline-prices
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tac_dong_cua_viec_giam_gia_dau_den_phuc_loi_cua_cac_nhom_ho.pdf