Tác động của vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong thời kỳ CNH – HĐHMỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1. Khái niệm chung về đầu tư nước ngoài
1.1. Đặc điểm của vốn đầu tư nước ngoài
1.2. Ưu điểm của hình thức đầu tư nước ngoài
1.3. Một số hạn chế của đầu tư nước ngoài
2. Vị trí và tác động kinh tế của vốn đầu tư nước ngoài
II. LÝ LUẬN VỀ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1. Vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng cho phát triển kinh tế ở Việt Nam
2. Vai trò và ý nghĩa của vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
CHƯƠNG II.
TÁC ĐỘNG CỦA VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ CNH - HĐH
I. TÁC ĐỘNG CỦA VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1. Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tăng cường xuất khẩu tăng thu cho ngân sách
2. Tăng thêm việc làm và thu nhập cho người lao động
3. Tác động tích cực tới chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá
4. Tác động đến chuyển giao công nghệ
II. MỘT SỐ HẠN CHẾ CỦA HOẠT ĐỘNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM
1. Những hạn chế của hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
2. Những hạn chế của quá trình thực hiện
2.1. Hạn chế về quy mô và tốc độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài
2.2. Về cơ cấu đầu tư
2.3. Về đối tác đầu tư
2.4. Về kỹ thuật công nghệ và kinh nghiệm quản lý
CHƯƠNG III.
MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP ĐỂ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM HIỆN NAY
I. MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ NHU CẦU VỐN ĐẦU TƯ CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM THỜI KỲ CNH - HĐH
1. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội thời kỳ CNH - HĐH
2. Dự báo nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển kinh tế Việt Nam
II. PHƯƠNG HƯỚNG ĐỂ THU HÚT FDI CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM THỜI KỲ 2001-2010
1. Mở rộng quan hệ với các đối tác đầu tư nước ngoài
2. Nhà nước cần hướng vốn đầu tư nước ngoài vào những lĩnh vực sản xuất hàng hoá dịch vụ có công nghệ tiên tiến, có tỷ lệ xuất khẩu cao
3. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoàI bỏ vốn vào các khu vực, địa bàn còn gặp khó khăn về kết cấu hạ tầng, điều kiện tự nhiên không thuận lợi
III. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM THỜI KỲ CNH - HĐH
1. Tiếp tục đổi mới chính sách tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
2. Tiếp tục đổi mới về tổ chức và thủ tục hành chính để tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
3. Quy hoạch thu hút vốn
4. Nâng cấp và xây mới kết cấu hạ tầng để thu hút nhiều hơn vốn
IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
1. Những kiến nghị cụ thể ở tầm vĩ mô
2. Những kiến nghị ở tầm vi mô
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
33 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1858 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tác động của vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa - Hiện đại hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ư trực tiếp người có vốn bỏ ra có thể là người trong nước mà cũng có thể là người nước ngoài. Trong trường hợp vốn và người có vốn là người nước ngoài thì hoạt động đầu tư trực tiếp đó là đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Như vậy đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư trực tiếp do nguồn vốn từ nước ngoài mà chủ thể của nó là tư nhân hay nhà nước hoặc các tổ chức quốc tế được nước chủ nhà cho phép đầu tư vào những ngành hoặc những lĩnh vực nào đó của một nước nhằm thực hiện mục tiêu nhất định.
Ở Việt Nam, văn bản pháp luật đầu tiên về đầu tư trực tiếp nước ngoài là điều lệ về đầu tư nước ngoài kèm theo nghị định số 115/CP ngày 18/4/1977. Điều lệ này không nêu định nghĩa cụ thể về đầu tư trực tiếp nước ngoài nhưng trong tư tưởng của các quy phạm thì khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng giống như khái niệm được ghi nhận sau này trong luật đầu tư nước ngoài năm 1987: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, nhân nước ngoàI trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bằng bất kỳ tài sản được Chính Phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc xí nghiệp 100% vn nước ngoài”.
1.1. Đặc điểm của vốn đầu tư nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có một số đặc điểm sau:
- Hoạt động vốn đầu tư nước ngoài không chỉ đưa vốn vào nước tiếp nhận đầu tư mà còn có cả công nghệ kỹ thuật, bí quyết kinh doanh, sản xuất, trình độ quản lý …
- Chủ đầu tư nước ngoài phải đóng một lượng vốn tối thiểu vào vốn pháp định tuỳ theo quy định của luật đầu tư nước ngoài ở từng nước, để họ có quyền trực tiếp tham gia điều hành, quản lý. Ví dụ luật đầu tư của Việt Nam quy định: “Số vốn góp tối thiểu của phía nước ngoài phải bằng 30%vốn pháp định của dự án .
- Quyền quản lý, điều hành doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào vốn góp, nếu đóng góp 100% thì xí nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành.
- Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quyết định mức lợi nhuận của nhà đầu tư. Lời và lỗ được chia theo tỉ lệ góp vốn sau khi đã nộp thuế lợi tức cho nước chủ nhà.
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài được sử dụng theo mục đích của chủ thể đầu tư nước ngoài trong khuôn khổ luất đầu tư nước ngoài của nước sở tại. Nước tiếp nhận đầu tư chỉ có thể định hướng một cách gián tiếp việc sử dụng vốn đó vào những mục đích mong muốn thông qua các công cụ: thuế, giá thuê đất, chính sách để khuyến khích hay hạn chế đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một ngành nào đó.
- Việc tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài không gây nên tình trạng nợ nước ngoài cho nước chủ thể, bởi nhà đầu tư nước ngoài chịu trách nhiệm trực tiếp trước hoạt động sản xuất kinh doanh của họ.
1.2. Ưu điểm của hình thức đầu tư nước ngoài
* Về giá đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Cho phép chủ đầu tư nước ngoài ở một mức độ nhất định (phụ thuộc vào tỉ lệ góp vốn) tham đầu tư trực tiếp nước ngoàiự vào điều hành quá trình kinh doanh của xí nghiệp nên họ trực tiếp kiểm soát sự hoạt động và đưa ra quyết định có lợi nhất cho vốn đầu tư mà họ bỏ ra. Nếu môi trường đầu tư ổn định các chủ đầu tư nước ngoài thích bỏ 100% vốn đầu tư.
- Giúp cho nhà đầu tư nước ngoài dễ chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ và nguồn cung cấp nguyên liệu của nước chủ nhà.
- Tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch vì thông qua đâù tư trực tiếp mà họ tạo được các xí nghiệp nằm bên “ trong lòng” các nước thi hành chính sách bảo hộ mậu dịch.
* Về phía nước tiếp nhận đầu tư.
- Giúp tăng cường khai thác vốn của từng chủ đầu tư nước ngoài. Nhiều nước thiếu vốn trầm trọng nên đối với hình thức đầu tư trực tiếp không quy định mức đóng góp tối đa của mỗi chủ đầu tư, thậm chí đóng góp càng nhiều càng được hưởng các chính sách ưu đãi về thuế của nước chủ nhà .
- Giúp tiếp thu được công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý kinh doanh của các chủ đầu tư nước ngoài.
- Nhờ có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phép nước chủ nhà có điều kiện khai thác tốt nhất những lợi thế của mình về taì nguyên, vị trí, mặt nước…
1.3. Một số hạn chế của đầu tư nước ngoài
Bên cạnh những ưu điểm thì hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng có những hạn chế nhất định:
- Nếu đầu tư vào môi trường bất ổn định về kinh tế và chính trị thì chủ đầu tư dễ bị mất vốn.
- Nếu nước chủ nhà không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học dẫn tới sự đầu tư tràn lan kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Vì hiện nay ở các nước tư bản phát triển thực hiện sự kiểm soát gắt gao những dự án gây ô nhiễm môi trường, nên xu thế nhiều nhà tư bản nước ngoài đã và đang chuyển giao những công nghệ độc hại sang các nuức kém phát triển.
- Mục đích của nhà đầu tư là lợi nhuận nên họ chỉ đầu tư vào nơi có lợi nhất. Vì thế nhiều khi lượng vốn nước ngoài đã làm gia tăng thêm sự mất cân đối giữa các vùng nông thôn và thành thị. Sự mất cân đối này sẽ gây nên sự bất ổn định về chính trị.
- Nước chủ nhà có nguy cơ trở thành nơI tiếp nhận những công nghệ cũ, lạc hậu của nước ngoài.
2. Vị trí và tác động kinh tế của vốn đầu tư nước ngoài
* Đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động kinh tế quốc tế, cùng với quá trình phát triển đầu tư trực tiếp nước ngoài không ngừng mở rộng và chiếm một vị trí ngày càng quan trọng trong quan hệ kinh tế- quốc tế. Đến nay vốn đầu tư nước ngoài đã trở thành xu hướng của thời đại và nhân tố quy định bản chất các quan hệ kinh tế quốc tế.
Thập kỷ 80 vừa qua đã chứng kiến bước phát triển của vốn đầu tư nước ngoài trên thế giới. Khối lượng vốn tăng với tốc độ nhanh hơn nhiều so với sự gia tăng của sản xuất và buôn bán quốc tế. Những năm 70 lượng vốn đầu tư trực tiếp toàn thế giới bình quân hàng năm là 25 tỷ USD, con số này đã tăng lên gấp đôi trong thời kỳ 1980-1985. Năm 1986 lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn thế giới là 78 tỷ USD, năm 1987 là 133 tỷ USD, 1990 là 185 tỷ USD. Tính bình quân hàng năm trong thời kỳ 1985-1990 đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng khoảng 24% tốc độ này tăng hơn 4 lần so với tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cũng trong thời kỳ này là 6.1%.Tình hình trên đây cho phép khẳng định rằng FDI đang trở thành xu hướng phát triển quan hệ kinh tế quốc tế.
Đầu năm 1989 tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn thế giới lên tới 200 tỷ USD, chiếm hơn 13% tổng vốn đầu tư trên toàn thế giới là 1500 tỷ USD. Bước sang thập kỷ 90 này đầu tư nước ngoài đã tăng nhanh trở thành một nhân tố gây ảnh hưởng to lớn đến sự tăng trưởng kinh tế của nhiều quốc gia. Hiện nay khối lượng vốn đầu tư ra nước ngoài của các công ty xuyên quốc gia chiếm khoảng 80% tổng vốn đầu tư nước ngoài trên toàn thê giới. Đây là sự thay đổi trong chiến lược phát triển của các công ty xuyên quốc gia. Trước xu thế xu thế hoá nền kinh tế thế giới trong những năm gần đây các công ty xuyên quốc gia đă đặc biệt tập trung vào chiến lược cắm rễ ở nước ngoài nhằm phát triển các mạng lưới khu vực trên qui mô lớn.
Tình hình trên đây có những lí do chủ yếu sau:
- Sự phát triển các phương tiện giao thông liên lạc, kỹ thuật bán dẫn đã đạt tới trình độ cho phép các chủ đầu tư có thể nắm bắt kịp thời chuẩn xác các thông tin cần thiết để có thể ra các quyết định hợp lý, hạn chế được các tổn thất cho phép và rủi ro trong kinh doanh. Điều này cho phép các chủ thể đầu tư có thể điều hành hoạt động kinh doanh của họ ở khắp mọi nơi trên thế giới một cách nhanh chóng và chính xác. Sự phát triển cho phép các chủ đầu tư cung cấp hàng hoá, dịch vụ đúng hạn, đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường.
- Thể chế chính trị, kinh tế, xã hội của nhiều quốc gia trong những thập kỷ qua đã có những thay đổi phù hợp với nền kinh tế thị trường mở cửa, với các thông lệ quốc tế bảo đảm được các lợi ích của chủ đầu tư nước ngoài.
- Tình hình an ninh quốc tế ngày càng có xu hướng ổn định hơn nhất là sau chiến tranh lạnh. Thế giới đã chuyển từ trạng thái đối đầu sang đối thoại hoà bình hợp tác, xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá ngày càng phát triển
* Tác động kinh tế của vốn đầu tư nước ngoài:
- Tạo nguồn vốn bổ xung quan trọng
- Chuyển giao công nghệ
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
- Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
II. LÝ LUẬN VỀ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1. Vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng cho phát triển kinh tế ở Việt Nam
Việt Nam cũng như hầu hết các nước đang phát triển, trong giai đoạn đầu của sự phát triển kinh tế, do mức thu nhập thấp nên khả năng tiêu dùng và tích luỹ vốn đều rất hạn chế dẫn tới việc thu hút đầu tư trong nước không đáng kể. Trong khi đó nhu cầu của nền kinh tế lại cần những khoản vốn lớn để đầu tư cho cơ sở hạ tầng, xây dựng các công trình làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế. để bù đắp cho sự thiếu hụt nguồn vốn đầu tư phát triển đất nước thì cần phải thu hút vốn đầu tư nước ngoài nói chung và FDI nói riêng nhằm tăng dần khả năng đáp ứng vốn cho quá trình phát triển kinh tế. Do đó việc huy động vốn đầu tư trực tiếp tạo ra những lợi ích quan trọng trong giai đoạn hiện nay:
Một là: Nó góp phần quan trọng trong việc khắc phục thiếu hụt về vốn ở nước ta.
Đặc diểm của nền kinh tế nước ta ở vào thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80 là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung với nhiều nhược điểm.Trong đó tỉ lệ đầu tư và tiết kiệm rất thấp thậm chí còn âm.Từ sau đổi mới, tỉ lệ này đã được tăng lên đáng kể, tuy nhiên nó vẫn còn rất thấp so với nhu cầu đầu tư. Hơn nữa, chúng ta còn phảI trả khá nhiều nợ nước ngoài trong khi thâm hụt ngân sách còn ở mức cao. Vì vậy vốn đầu tư nước ngoài trở thành một nguồn vốn cần thiết cho sự nghiệp đổi mới của nước nhà. Trong suốt thời kỳ 1990-1995 vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp 30% vốn đầu tư trong nước.
Hai là: Thông qua việc chuyển giao công nghệ và kỹ thuật, vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp phần tăng năng suất lao động, khả năng sản xuất, kinh nghiệm quản lý trong một số ngành.
Việt Nam bước vào công cuộc hồi phục và phát triển kinh tế với xuất phát điểm rất thấp về mặt công nghệ, do đó chất lượng sản phẩm thấp, khó có thể tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, mặt khác trình độ công nghệ thấp còn dẫn đến ô nhiễm môi trường. Sau khi thực hiện luật đầu tư nước ngòai, việc đổi mới công nghệ ở nước ta đã thực hiện so với qui mô và tốc độ nhanh hơn nhiều so với trưóc đó. Nước ta đã tiếp nhận một số kỹ thuật và công nghệ tiến bộ của nhiều ngành kinh tế như: Thông tin viễn thông, thăm dò dầu khí, công nghiệp điện tử, sản xuất lắp ráp ô tô, xe máy, hoá chất… Phần lớn thiết bị đưa vào nước ta thuộc loại trung bình thế giới nhưng vẫn tiên tiến hơn những thiết bị hiện có của ta. Một số công nghệ chuyển giao trong lĩnh vực dầu khí, viễn thông thuộc loại hiện đại của thế giới. Đây là sự đóng góp khá quan trọng của vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm đa dạng mẫu mã, từ đó nâng cao kim ngạch xuất khẩu, cải thiện môi trường lao động.
Ba là: Bước đầu tạo ra một số công ăn việc làm, góp phần giải quyết khó khăn về việc làm cho người lao động. Tính đến năm 1997,các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo việc làm trực tiếp cho hơn 13 vạn lao động và hơn 10 vạn lao động gián tiếp phục vụ cho hợp tác đầu tư. Đồng thời đã thu hút hơn 4000 cán bộ Việt Nam làm việc trong các xí nghiệp này. Nhiều cán bộ đã phát huy được năng lực, vươn lên đảm nhiệm được những công việc quan trong, có uy tín đối với các đối tác bên ngoài. Sự đóng góp này tuy còn nhỏ bé song lại đáng quý trong điều kiện đang thiếu nhiều việc làm ở nước ta.
Bốn là: Tăng thêm nguồn thu từ xuất khẩu, dịch vụ thu ngoại tệ và đóng góp vào thu ngân sách nhà nước. Trong suốt thời kỳ 1988-1996 đã tạo ra hơn 2 tỷ USD giá tri sản lượng hàng hoá và dịch vụ đóng góp hơn 2tỷ đồng cho ngân sách. Tuy nhiên con số trên còn nhỏ bởi vì trong giai đoạn này khoảng 30% các dự án đầu tư đang trong thời gian được miễn thuế.
2. Vai trò và ý nghĩa của vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Thực hiện hoạt động đầu tư trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã cho thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò hết sức to lớn đối với nước tiếp nhận đầu tư đặc biệt là ở những nước đang phát triển.
Ngày nay do vai trò quan trọng của FDI nên các nước đang phát triển và cả những nước phát triển đều ra sưc cạnh tranh để thu hút FDI.
Trước hết FDI đóng vai trò là nguồn cung cấp vốn lớn, góp phần giải quyết tình trạng thiếu vốn đầu tư- một căn bệnh kinh niên và phổ biến của bất kỳ một quốc gia chậm phát triển nào, ở Indonesia sau khi ban hành luật đầu tư nước ngoài đã cung cấp một lượng vốn bình quân trong 27 năm (1967-1994) là 1.15 tỷ USD/năm.
Những năm gần đây, Philipin đang trên đà tăng trưởng kinh tế ở mức cao và họ cho rằng nếu sử dụng nguồn vốn nước ngoài hợp lý thì có thể khuyến khích được tính hiệu quả của nền kinh tế. Ở Trung Quốc, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã cung cấp cho đất nước rộng lớn này 87 tỷ USD/năm trong 15 năm (1979-1994).
Ở Việt Nam tính đến hết năm 1995, vốn FDI đã thu hút là 19,353 tỷ USD với mức thực hiện khoảng 30%. Tốc độ thu hút vốn FDI ở Việt Nam từ 1988 -1995 bình quân 50%/năm.
Bên cạnh vai trò cung cấp vốn, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn mang lại cho nước tiếp nhận đầu tư công nghệ kỹ thuật tiên tiến góp phần phát triển lực lượng sản xuất, cơ cấu lại nền kinh tế. Thực tế cho thấy rằng kỹ thuật và công nghệ nước ngoài đã giúp cho Malaysia từ chỗ là một nước cơ cấu lạc hậu, kỹ thuật thủ công, phân tán lực lượng sản xuất kém phát triển, đến giữa năm 1980 đã trở thành nước xuất khẩu lớn nhất thế giới về găng tay, cao su, thứ hai trên thế giới về chất bán dẫn và tinh thể sơ đồ tích phân và thứ ba trên thế giới về máy điều hoà nhiệt độ. Rõ ràng chỉ có đầu tư nước ngoài với trình độ kỹ thuật cao phương pháp sản xuất tiên tiến và khả năng thâm nhập thị trường thế giới của các công ty xuyên quốc gia mới tạo ra được thành công nói trên.
Một thực tế cần đề cập là các nước phát triển muốn lợi dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài để chuyển giao những thiết bị, kỹ thuật lạc hậu cho các nước chậm phát triển, biến các nước này thành “bãi rác” của mình như một số báo đã viết, hay như các nhà kinh tế đã phân tích coi đó là “kết cấu hai tầng” của người Nhật hay thuyết về “quan hệ giữa trung tâm và ngoại vi” của Bắc Mĩ và Tây Âu nhằm khai thác và sử dụng tối đa các tiềm năng công nghệ của mình. Tuy nhiên quan hệ về đầu tư trực tiếp nước ngoài là “quan hệ tự nguyện” hoàn toàn theo cơ chế thị trường nên việc chấp nhận hay không chấp nhận là quyền của nước tiếp nhận đầu tư. ở Việt Nam để hạn chế tiếp nhận các thiết bị lạc hậu nhà nước đã quy định nhiều biện pháp để kiểm tra giám sát như định giá đấu thầu chỉ định tiêu chuẩn kỹ thuật. Ở Trung Quốc có luật quy định về giới hạn khoảng chênh lệch giữa thời gian sản xuất máy móc với thời gian nhập máy móc đó vào Trung Quốc.
Cũng phải kể đến một xu hướng nữa trong đầu tư trực tiếp nước ngoài là trong nhiều trường hợp các nước phát triển cần mang vaò nước chậm phát triển những công nghệ tiên tiến hơn cả nước mình. Ví dụ ở Nhật Bản, do đồng yên tăng giá nên ngày càng nhiều các công ty Nhật Bản mang nhiều công nghệ tiên tiến ra nước ngoài để sản xuất hàng hoá rồi nhập khẩu trở lại Nhật Bản nhằm thu lợi nhuận cao.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng có vai trò là một hình thức đào tạo giúp các nước tiếp nhận đầu tư kiến thức sử dụng công nghệ hiện đại và học tập kinh nghiệm quản lý của nước ngoài trong sản xuất kinh doanh, nâng cao trình độ sản xuất kinh doanh của đất nước, hoà nhập vào sự phân công lao động quốc tế.
Hơn thế nữa, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn góp phần đào tạo một đội ngũ công nhân có trình độ kỹ thuật cao. Bên cạnh đó đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra công ăn việc làm, hạn chế tình trạng thất nghiệp, nâng cao mức thu nhập cho người lao động.
Ở Việt Nam, số lao động người Việt Nam làm việc trong các xí nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng từ 65000 năm 1994 lên 90000 vào cuối năm 1995. Ngoài ra đầu tư trực tiếp nước ngoài còn gián tiếp tạo việc làm và thu nhập cho hàng chục vạn lao động làm các công ty dịch vụ có liên quan. Về cơ bản, tiền lương được giải quyết phù hợp với quy định, cao hơn mức lương của các doanh nghiệp cùng loại thuộc các thành phần kinh tế khác.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển kịnh tế của các nước tiếp nhận đầu tư. Người Malayxia nhận xét rằng: Trong một chừng mực nhất định đầu tư trực tiếp nước ngoài từ chỗ là “nhân tố bên ngoài”chuyển thành “ nhân tố bên trong”quyết định phần lớn thị trường kinh tế, cơ cấu kinh tế. Theo tạp chí kinh tế Viễn Đông thì sau khi có chính sách mở cửa và luật đầu tư nước ngoài, nền kinh tế của Inđonesia được coi như “người khổng lồ” của Đông nam á đang ngủ đã tỉnh dậy trở thành một quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế nhanh.
Ở Việt Nam hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vừa qua đã góp phần làm chuyển biến nền kinh tế Việt Nam theo hướng của một nền kinh tế công nghiệp hoá. Đối với Việt Nam vốn FDI đống vai trò như lực khởi động, như
một trong những điều kiện đảm bảo cho sự thành công của công cuộc CNH-HĐH. Một số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần làm vực dậy một số doanh nghiệp Việt Nam đang trong điều kiện khó khăn, sản xuất đình đốn có nguy cơ phá sản. Không những thế, nó còn góp phần hình thành nhiều ngành nghề sản xuất mới, cũng như nhiều sản phẩm mới. Vì khả năng thu hồi vốn và có lãi phụ thuộc hoàn toàn vào kết quả sản xuất kinh doanh nên các nhà đầu tư nước ngoài thường tính toán cân nhắc kỹ lưỡng khi đưa vào Việt Nam những thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại hoặc ở mức thấp nhất cũng còn có khả năng phát huy được hiệu quả nhất định. FDI là một trong những kênh đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập thế giới tương đối có hiệu quả. Là khu vực hấp dẫn, tạo ra nhiều việc làm và nâng cao năng lực cho người lao động Việt Nam. Là môi trường lý tưởng để chúng ta học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm quản lý, khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh của nền kinh tế thị trường hiện đại. Là điều kiện tốt để Việt Nam mở rộng thị trường cả trong và ngoài nước.
Tóm lại hoạt động FDI đã góp phần thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước, khai thác tài nguyên, tạo việc làm góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sản xuất nhiều hàng hoá và dịch vụ có hàm lượng kỹ thuật cao, đẩy mạnh xuất khẩu đưa nước ta vào phân công lao động quốc tế, tạo hình ảnh và vị thế mới uy tín ngày càng tăng của Việt Nam trên trường quốc tế, đặc biệt là trong xu thế hội nhập khu vực và toàn cầu, yếu tố quyết định để Việt Nam rút ngắn con đường hội nhập khu vực và thế giới đó là mở rộng và thu hút FDI.
CHƯƠNG II.
TÁC ĐỘNG CỦA VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ CNH - HĐH
I. TÁC ĐỘNG CỦA VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1. Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tăng cường xuất khẩu tăng thu cho ngân sách
Kể từ khi Việt Nam bắt đầu thu hút vốn, cán cân thanh toán có những cải thiện đáng kể. Điều này phần nào được thể hiện ở lợi ích tài chính đem lại về doanh thu của các xí nghiệp có vốn FDI, kể từ ngày 26/3/97 là 4838 tr USD trong đó kim ngạch xuất khẩu chiếm 1/3. Còn nếu cộng cả dầu khí, tỷ trọng xuất khẩu của FDI khoảng 60-65% điều này có ý nghĩa rất to lớn đến sự phát
triển kinh tế của Việt Nam. FDI còn có tác động tích cực tới đẩy mạnh sản xuất, tạo ra những năng lực sản xuất mới, đã làm nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu như hàng may mặc, thực phẩm…
2. Tăng thêm việc làm và thu nhập cho người lao động
Thất nghiệp là hiện tượng KT-XH được coi như một tệ nạn đáng lo ngại, là mối quan tâm của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Từ khi thực hiện luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, chúng ta đã khắc phục phần nào tỷ lệ thất nghiệp, bước đầu đã tạo thêm việc làm cho người lao động. Làm việc trong khu vực có vốn FDI người lao động Việt Nam có mức thu nhập khá cao, tuy thu nhập đó chưa thật đáng kể so với thu nhập của các nước trong khu vực nhưng đó là kết quả bước đầu cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của FDI đối với việc giải quyết việc làm trong thời gian qua. Tuy vậy vấn đề giải quyết là vốn trí được giữa đầu tư xây dựng mới và đầu tư chiều sâu, giữa các ngành có trình độ kỹ thuật cao và vừa phải kết hợp hài hoà giữa hai lợi ích. GiảI quyết việc làm cho người lao động và nâng cao trình độ kỹ thuật trong nước, đem lại hiệu quả KT-XH cao.
3. Tác động tích cực tới chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá
Cơ cấu kinh tế trước đây xác định là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ nhằm nhanh chóng xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH ở nước ta trong thời trước đây có sự viện trợ của Liên Xô và các nước Đông Âu. Sau khi thống nhất đất nước chúng ta không có sự viện trợ mà chủ yếu dựa vào mình để giải quyêt mọi yêu cầu phát triển kinh tế và cải thiện đời sống đất nước. Từ đó tiến hành điều chỉnh cơ cấu kinh tế hạn chế bớt sự phát triển của công nghiệp nặng bằng cách thu hẹp để tập trung nhiều hơn vào phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ nhằm giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Từ đó tạo tiền đề để thực hiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Ngoài ra cơ cấu lãnh thổ cũng được kết cấu lại theo hướng ưu tiên đối với các vùng trọng điểm để phát triển mạnh hơn tạo nên những mũi nhọn về kinh tế thúc đẩy sự tiến bộ của các vùng khác.
FDI có tác động đáng kể đến chuyển dịch cơ cấu ngành lãnh thổ theo hướng CNH, đặc biệt khuyến khích đầu tư vào các ngành công nghiệp trọng điểm có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn. Qua các năm đầu tư theo ngành có sự chuyển dịch ngày càng phù hợp với yêu cầu xây dựng cơ cấu cuả thập kỷ 90.
Trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng cũng nhờ có FDI mà tổng công ty bưu chính viễn thông mới có được hệ thống thông tin liên lạc viễn thông qua vệ tinh thuộc loại hiện đại trên thế giới, các tuyến đường quốc lộ, hạ tầng các khu chế xuất ngày nay hiện đại
4. Tác động đến chuyển giao công nghệ
Một trong những mục tiêu chủ yếu của thu hút FDI là thực hiện việc chuyển giao công nghệ mới vào Việt Nam.
Phải thừa nhận rằng trang thiết bị về khoa học công nghệ của nước ta quá lạc hậu so với thế giới. Trong công nghiệp đa số máy móc thiết bị thuộc loại cũ của những năm trước năm 50, 60, nhiều máy móc đã khấu hao xong tới vài lần, trang bị không đồng bộ nên năng suất thấp. Chính vì vậy việc thực hiện một số chính sách đa dạng hoá các nguồn tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào, đặc biệt là thông qua FDI tất yếu sẽ có vị trí quan trọng.
Đứng về lâu dài đây chính là lợi ích căn bản nhất đối với các nước tiếp nhận đầu tư. FDI có thể thúc đẩy sự đổi mới kỹ thuật, góp phần tăng năng suất của các yếu tố sản xuất, thay đổi cấu thành của sản phẩm và xuất khẩu thúc đẩy phát triển các nghề mới đặc biệt là những nghề đòi hòi hàm lượng công nghệ cao. Vì thế nó tác dụng lớn đối với quá trình công nghiệp hoá chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng trưởng nhanh ở nước ta.
Như vậy, ngoài sự tác động của FDI tới các lĩnh vực nêu trên còn một số lĩnh vực khác như: Giao lưu buôn bán với các nước trên thế giới, tăng thu cho ngân sách nhà nước, tạo thế cạnh tranh cho các công ty cạnh tranh trong nước. Song thực tế để có thể nhanh chóng vực dậy một nền kinh tế chậm phát triển đầu tư trực tiếp nước ngoài là một nhân tố quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng nó có vai trò to lớn trong công cuốc khôi phục đổi mới. Nhưng bên cạnh đó vấn đề này còn có một số khó khăn mà chúng ta cần phải khắc phục
II. MỘT SỐ HẠN CHẾ CỦA HOẠT ĐỘNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM
1. Những hạn chế của hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Luật đầu nước ngoài hiện hành còn chung chung, chưa cụ thể. LĐTNN về cơ bản chỉ là đạo luật chung quy định những vấn đề có tính nguyên tắc. Có nhiều đạo luật chưa hoặc mới chỉ ban hành gần đây. Do nhiều trường hợp chưa có cơ sở pháp lý để vận dụng nên đã vận dụng xử lý một cách tuỳ tiện thiếu nhất quán. Theo đánh giá một cách tổng thể thì cơ cấu luật pháp cho ĐTNN vẫn chưa thực sự là môi trường thuận lợi có khả năng hấp dẫn các nhà đầu tư. Vấn đề là ở chỗ trong lĩnh vực còn tồn đọng nhiều trở ngại của cơ chế hành chính quan liêu. Mặc dù các cấp quản lý có thẩm quyền đã nỗ lực rất nhiều để giảI toả vấn đề này, song đến nay nhiều trở ngại chưa được loại bỏ. Về đại thể có thể quy cách trở ngại này về một số điểm sau:
- Vấn đề đất đai cho đầu tư nước ngoài: Tình trạng chưa rõ ràng về các quyền sở hữu và sử dụng đất đai- vấn đề chung về môi trường pháp lý đang còn tồn tại cho tất cả mọi chủ thể đang hoạt động trong nền kinh tế, những quy định về thủ tục thuê nhượng mua bán đất và mức giá đất( gồm các khoản thuế) cao.
- Thủ tục phê duyệt dự án rườm rà phải qua nhiều cấp hành chính, nhiều cơ quan chức năng. Ngoài ra như đã nói trên việc thiếu chiến lược cơ cấu và quy hoạch đầu tư tổng thể được luận chứng rõ ràng cũng làm chậm trễ hơn nữa quy trình phê duyệt và thẩm định tính hiệu quả của dự án đề xuất.
- Các tiêu chuẩn đối xử (ưu đãi hoặc không ưu đãi) cho các đối tắc nước ngoài trong các quan hệ vơí các nhà kinh doanh bản địa trong nhiều trường hợp có sự phân biệt đối xử không dựa theo nguyên tác thị trường. Nói chung các đối tác nước ngoài có nhiều ưu đãi theo luật so với nhà đầu tư trong nước đặc biệt là về thuế. Song bên cạnh đó họ cũng phải đối đầu với nhiều quy chế mang tính phân biệt (giá các dịch vụ, lương công nhân) trong khi đó, nguyên tắc cần thiết là không nên có những ưu đãi đặc biệt cùng sự phân biệt đối xử với các chủ đầu tư.
Nhìn chung lại thể chế pháp lý đối với ĐTNN ở nước ta chưa cấu thành hệ thống đồng bộ. Nghĩa là môi trường pháp lý chưa thuần nhất và thuận lợi. Nhận thấy của tình trạng này là cơ cấu pháp luật hành chính của Việt Nam chưa hoàn toàn tương thích với cơ cấu của nền kinh tế. Vì thế nó gây ra những trở ngại cho tất cả các nhà đầu tư trong đó có cả nhà đầu tư nước ngoài.
2. Những hạn chế của quá trình thực hiện
Mặc dù tầm quan trọng thiết yếu của ĐTNN đã được thừa nhận và những chuyển động mới của ĐTNN ở Việt Nam đã thể hiện đường lối mở rộng nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, nhưng cũng có nhiều vấn đề nảy sinh làm người ta lo ngại . Những cái gọi là “ mặt tráI” của FDI thường bị lên án là sự cạnh tranh mạnh mẽ của các nhà FDI với các nhà sản xuất trong nước.
Những gian lận của các nhà đầu tư trong quá trình thực hiện hợp đồng sản xuất kinh doanh, nhập khẩu máy móc thiết bị những, căng thẳng trong quan hệ lao động ở các xí nghiệp có vốn FDI… một số nhà FDI chưa hết than phiền về tình trạng yếu kém của cơ sở hạ tầng, môI trường đầu tư kém dần tính cạnh tranh so với các nước khác trong khu vực.
2.1. Hạn chế về quy mô và tốc độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Nhìn chung trong thời gian qua lượng vốn đầu tư vào nước ta còn ít, tốc độ luân chuyển diễn ra chậm kém hiệu quả, quy mô bình quân mọi dự án còn nhỏ, hiện các dự án dưới 5 triệu USD còn chiếm tỷ trọng rất lớn, trong các tháng gần đây tốc độ FDI vào nước ta có xu hướng chững lại so với các nước khác do rất nhiều nguyên nhân như trong chính sách thu hút vốn FDI của nước ta có sự định hướng đầu tư nghiêm ngặt hơn theo mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phù hợp với CNH- HĐH nền kinh tế, lĩnh vực chúng ta cần đầu tư lại không hấp dẫn nhà đầu tư và ngược lại. Chúng ta muốn nhà đầu tư nước ngoài tận dụng lợi thế so sánh về các yếu tố sản xuất của Việt Nam để sản xuất hàng xuất hàng xuất khẩu, chứ không phải để cạnh tranh bất lợi đối với các nhà doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra còn có một số nguyên nhân khác như việc triển khai các dự án đầu tư, có những dự án thuận lợi béo bở, lợi nhuận cao nhưng độ rủi cũng rất lớn dẫn đến các nhà đầu tư nước ngoài còn ngần ngại khi tiến hành đầu tư. Trong thực hiện chúng ta chưa thật sự chú trọng vào công việc còn lệ thuộc rất nhiều vào chủ đầu tư
2.2. Về cơ cấu đầu tư
Tuy có sự tiến bộ đạt được song qua phân tích cơ cấu từng ngành, từng vùng cuả ta còn chưa hợp lý. Chúng ta có thể thấy các dự án chủ yếu tập trung vào các ngành công nghiệp nhẹ, sản xuất gia công, lắp giáp, khách sạn du lịch, dịch vụ. Còn các ngành kinh tế then chốt, các vùng kinh tế trọng điểm đặc biệt là các ngành quan trọng nhưng lợi nhuận ít, thu hồi vốn chậm như cơ sở hạ tầng, cơ khí chế tạo… có tỷ lệ vốn đầu tư còn thấp. Cơ cấu vùng chưa được cân đối, các dự án chủ yếu tập chung vào 3 vùng kinh lớn đó là :TPHCM, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Hà Nội, HảI Phòng, Đà Nẵng, Quảng Ngãi. Còn miền núi, các vùng Tây Nguyên tuy có nhiều tiềm năng nhưng dự án đâù tư vào đây còn ít.
2.3. Về đối tác đầu tư
Nhìn một cách tổng quát thì các đối tác đầu tư nước ngoài chủ yếu là các đối tác đầu tư nhỏ, các nước trong khu vực có khả năng tài cũng như trình độ khoa học công nghệ còn yếu kém. Chính vì thế còn có nhiều dự án do thiếu vốn và khoa học công nghệ không đồng bộ đã bị giải thể.
2.4. Về kỹ thuật công nghệ và kinh nghiệm quản lý
Đây là mục tiêu ta đưa ra khi tiến hành đầu tư. Tuy đã có nhiều chuyển biến, song do thiếu hiểu biết chưa có sự hướng dẫn của các cơ quan quản lý vĩ mô nên việc chuyển giao công nghệcòn tồn tại những vấn đề tiêu cực, có nhiều trường hợp nhập thiết bị cũ kĩ thiếu đồng bộ giá cả bị đẩy lên ít nhấtlà 20%. Khi khảo sát việc chuyển giao công nghệ của 726 xí nghiệp liên doanh thuộc công nghiệp nhẹ ở Việt Nam thì có khoảng 80% công nghệ đã bị hao mòn vô hình được tân trang lại. Như đã đề cập mục tiêu thu hút vốn đầu tư là tranh thủ kỹ thuật công nghệ mới, nâng cao trình độ, trang thiết bị của nền kinh tế đất nước, nhưng trong quá trình thực hiện thì về mặt công nghệ hiện đại chưa có tiến bộ rõ rệt với nền kinh tế quốc dân .
Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số vấn đề làm chậm quá trình thực hiện như về bộ máy quản lý đầu tư nước ngoài và đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đầu tư về vấn đề môi trường, hệ thống ngân hàng và đặc biệt là thủ tục đầu tư nước ngoài còn rườm rà gây rất nhiều phiền toái cho các nhà đầu tư.
Tất cả các vấn đề trên đòi hỏi một mặt phải sửa đổi, bổ xung hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài, đồng thời phải giảm tới mức tối thiểu những hạn chế ảnh hưởng đến thực hiện luật đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn, thuận lợi thu hút có hiệu quả FDI vào nước ta .
CHƯƠNG III.
MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP ĐỂ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM HIỆN NAY
I. MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ NHU CẦU VỐN ĐẦU TƯ CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM THỜI KỲ CNH - HĐH
1. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội thời kỳ CNH - HĐH
Hội nghị toàn quốc lần thứ 9 ban hành Trung Ương Đảng khoá VIII đã cho ý kiến dự thảo phương hưoứng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế 10 năm 2001-2010. Kế hoạch 10 năm có vị trí rất quan trọng là kế hoạch mở đầu của thế kỷ 21, thế kỷ phát triển toàn diện và mạnh mẽ của nhiều quốc gia trên toàn cầu là kế hoạch 10 năm đầu tiên thực hiện chiến lược phát triển kinh tế 10 năm (2001-2010) tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới và sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Mục tiêu tổng quát của kế hoạch 10 năm tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng CNH- HĐH, nâng cao rõ rệt hiệu quả và nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại…
Phấn đấu đạt nhịp độ tăng trưởng kinh tế hàng năm không thấp hơn mức bình quân hàng năm 1006-2000. ở 1 số vùng thuận lợi và vùng kinh tế trọng điểm, động lực phấn đấu với mức tăng trưởng bằng 1,4 lần so với mức bình quân của cả nước.
Tổng GDP trong 5 năm tới vào khoảng 2650-2660 nghìn tỷ đồng (tính theo giá năm 2000), tương đương 190 tỷ USD , tổng quỹ tiêu dùng dự báo tăng khoảng 5,5%/năm, tỷ lệ tích luỹ nội địa sẽ có khả năng nâng lên 27% GDP.
2. Dự báo nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển kinh tế Việt Nam
Theo tính toán và dự báo đầu tư khả năng huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển trong 5 năm tới vào khoảng 830.000-850.000 tỷ đông ( theo giá năm 2000) tương dương 59-61 tỷ USD tăng khoảng từ 11-12%/năm trong đó nguồn vốn trong đó nguồn vốn trong nó chiếm khoảng 2/3. tỷ lệ đầu tư so với GDP chiếm khoảng 31-32% đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế 7,5%/năm. đầu tư từ ngân sách nhà nước chiếm 20-21%, đầu tư bằng tín dụng nhà nước chiếm 17-18%. Khu vực doanh nghiệp nhà nước đầu tư chiếm 19-20%, khu vực dân cư, doanh nghiệp tư nhân đầu tư chiếm 24-25%, FDI theo tính toán và dự báo dự kiến đưa vào thực hiện chiếm 16-17%.
Toàn bộ nguồn vốn bên ngoàI có thể thu hút cho đầu tư là18-20 tỷ USD trong đó:
- Dự báo về ODA: TRong 5 năm tới, khả năng thực hiện nguồn vốn ODA khoảng 10-11 tỷ USD, bao gồm cả các dự án có vốn ODA được hợp thức hoá bằng việc các hiệp định vay vốn nhưng chưa giaỉ ngân và các khoản có thể cam kết trong thời gian tới.
- Dự báo về FDI: Dự kiến vốn FDI được thực hiện trong 5 năm tới khoảng 9-10 tỷ USD, bao gồm vốn các dự án đã được cấp phép chưa được thực hiện của các năm trước; vốn thực hiện các dự án cấp phép mới và vốn bổ xung các dự án đã thực hiện.
Ngoài ra còn có khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài khác khoảng 1-2 tỷ USD thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu ra nước ngoài, mở thị trường chứng khoán và tìm thêm các nguồn vay khác để đầu tư trung và dài hạn.
II. PHƯƠNG HƯỚNG ĐỂ THU HÚT FDI CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM THỜI KỲ 2001-2010
Để đáp ứng nhu cầu FDI đã nêu ở trên chúng ta phải tăng cường khai thác nguồn vốn này theo các phương hướng sau:
1. Mở rộng quan hệ với các đối tác đầu tư nước ngoài
Hiện nay vốn FDI vào Việt Nam chủ yếu từ các nước NICs và Đông Á, các nước ASEAN và Nhật Bản. Các nước này cung cấp khoảng 3/4 tổng số vốn FDI vào Việt Nam, các nước Châu Âu đặc biệt là Mỹ còn có luồng vốn FDI vào Việt Nam quá nhỏ bé. Vì vậy trong thời gian tới cần tiếp tục duy trì quan hệ với các nước truyền thống, đồng thời mở rộng quan hệ với các đối tác mới ở Châu Âu và Mỹ, các công ty đa quốc gia, các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới để thu hút nhiều hơn nữa vốn FDI vào Việt Nam. Có làm như vậy chúng ta mới có thể tranh thủ được công nghệ “gốc” của các nước phát triển, tiếp cận cách quản lý hiện đại, tạo điều kiện cho VIệt Nam hoà nhập vào thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh quan hệ với các công ty lớn, chúng ta vẫn phảI chú trọng thu hút các doanh nghiệp vừa và nhỏ của các nước ngoài vì đó là những doanh nghiệp năng động, thích ứng nhanh với sự biến động của thị trường, phù hợp với các đối tác Việt Nam về khả năng góp vốn, năng lực để thu hút công nghệ, kinh nghiệm quản lý và tạo nhiều việc làm.
2. Nhà nước cần hướng vốn đầu tư nước ngoài vào những lĩnh vực sản xuất hàng hoá dịch vụ có công nghệ tiên tiến, có tỷ lệ xuất khẩu cao
Còn những ngành ít vốn công nghệ thấp thì huy động chủ yếu từ nguồn vốn trong nước. Nếu có liên doanh thì phía Việt Nam phải là đối tác chính. Muốn vậy nhà nước phải là đối tác chính. Muốn vậy nhà nước phải có quy hoạch cụ thể các lĩnh vực thu hút FDI từ nay tới năm 2005.
3. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoàI bỏ vốn vào các khu vực, địa bàn còn gặp khó khăn về kết cấu hạ tầng, điều kiện tự nhiên không thuận lợi
Muốn vậy nhà nước phải phân loại các vùng khó khăn và nêu rõ mức độ ưu đãI vào các vùng nào càng khó khăn thì mức độ ưu đãi càng cao. Khi cần thiết, Nhà nước phải huy động thêm cả vốn trong nước, chấp nhận thu hồi vốn chậm, lãI suất thấp để xây dựng một số điểm kinh tế cho các vùng khó khăn, làm cơ sở thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra còn có một số định hướng để mở rộng thu hút vốn FDI vào Việt Nam trong thời gian trước mắt như:
- Mở rộng nguồn vốn đối ứng với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tranh thủ và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA. Đẩy mạnh huy động nguồn vốn trong dân.
- Đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá các doanh ngiệp nhà nước. Cổ phần hoá sẽ cho phép các doanh nghiệp mở rộng nguồn tài chính để góp phần liên doanh với các công ty nước ngoài thay vì chủ yếu dựa vào giá trị quyền sử dụng đất như hiện nay. Cổ phần hoá cũng tạo điều kiện nâng cao trình độ của đội ngũ quản lý giúp họ sẵn sàng tham gia vào bộ máy quản lý của xí nghiệp liên doanh.
- Nâng cao hiệu quả của các khu công nghiệp. Cần chú trọng công tác qyu hoạch, đặt các khu công nghiệp ở những nơi có cơ sở hạ tầng và môi trường kinh doanh thuận lợi có khả năng hấp dẫn chủ đầu tư nước ngoài.
III. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM THỜI KỲ CNH - HĐH
1. Tiếp tục đổi mới chính sách tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
Về chính sách đất đai: Cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đất đai,phục vụ cho dự án có vốn đầu tư nước ngoài đặc biệt là tiếp tục ban hành các văn bản dưới luật, cụ thể hoá ba quyền của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt nam về đất đai: Quyền chuyển nhượng, quyền cho thuê và quyền thế chấp. Đây là ba quyền cần thiết cần được tiếp tục nghiên cứu và thể chế hoá để hoạch định chính sách về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Thực hiện chính sách đất đai đối với đầu tư nước ngoài cần chú trọng các giảI pháp sau:
- Phát huy vai trò của các cơ quan hoạch định chính sách như Quốc hội, Chính phủ trong việc xây dựng các đạo luật, chính sách quy định về đất đai áp dụng cho các hoạt động đầu tư nước ngoài .
- Tập hợp ý kiến của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam về chính sách đất đai cũng như chính sách đất đai áp dụng đối với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài của các nước, thông lệ quốc tế để hình thành chính sách đất đai ổn định dành cho các nhà đầu tư nước ngoài
Thực hiện quy hoạch vùng dành cho hoạt động đầu tư nước ngoài đối với khu vực dành cho đầu tư nước ngoài, cần thống nhất áp dụng cách thức cấp đất để giải phóng mặt bằng giống như việc cho thuê đất trong các khu vực công nghiệp và khu chế xuất.
Tích cực tham khảo kinh nghiệm của các nước thuộc về việc áp dụng chính sách đất đai đối với đầu tư nước ngoài như Trung Quốc, Thái Lan, Malaixia.
Về chính sách thuế và ưu đãi tài chính : Chính sách thuế và ưu đãi tài chính gắn với hoạt động đầu tư nước ngoàI là một trong những yếu tố chính góp phần tạo ra sự hấp dẫn cho hoạt động FDI . Chính sách thuế và ưu đãI tàI chính sẽ tiếp tục được hoàn thiện theo xu hướng có hệ thống, ổn định và tương thích với các nước trong khu vực. Phát huy tác dụng tích cực và loại bỏ những hạn chế của chính sách thuế và ưu đãI tàI chính . Muốn vậy cần thực hiện những giải pháp sau:
- Thực hiện nghiêm chỉnh luật thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm bảo đảm hoạt động thu thuế đối với các dự án có vốn đầu tư nước ngoài dần dần đi
- Vào ổn định
- Nâng cao hiệu lực và hiệu quả của các biện pháp ưu đãI tàI chính như: giảI quyết nhanh vấn đề hoàn thuế cho các nhà đầu tư nước ngoàI, việc chuyển lợi nhuận về nước được thuận tiện, không hạn chế hoặc quy định bắt buộc phảI góp vốn bằng tiền mặt…
- Hỗ trợ các dự án FDI được hưởng ưu đãI về thuế lợi tức, về giá thuê đất, miễn giảm thuế VAT đối với các doanh nghiệp thực sự thua lỗ.
- Cho phép chuyển một số có lựa chọn các liên doanh thô lỗ nặng mà phía Việt Nam không có khả năng cùng gánh chịu thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
- Ban hành chính sách thu phí thống nhất để tránh tình trạng thu phí bất hợp lý và không quản lý được như hiện nay
Về chính sách thị trường và tiêu thụ sản phẩm : Vấn đề định hướng thị trường và tiêu thụ sản phẩm cho các dự án FDI có vai trò cực kỳ quan trọng. Thị trường cho các dự án này cần nhìn nhận cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra. Đối với thị trường đầu vào cần chú trọng đảm bảo các loại máy móc thiết bị, công nghệ đưa vào dự án thuộc thế hệ mới hiện đại không gây ô nhiễm môI trường. Đối với thị trường đầu ra, cần chú trọng đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm cả thị trường trong nước lẫn thị trường nước ngoài. Mở rộng thị trường cho các dự án FDI thông qua khuyến khích thúc đẩy xuất khẩu và xúc tiến thương mại. Các giảI pháp cần thực hiện là:
- Khuyến khích thúc đẩy xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu các sản phẩm đã qua chế biến sâu, chế biến tinh, các sản phẩm chất lượng cao mang thương hiệu Việt Nam.
- Định hướng tiêu thụ sản phẩm theo khuôn khổ pháp lý thích hợp để tránh tình trạng cạnh tranh về giá cả, dẫn tới tình trạng bán phá giá, bán hàng kém chất lượng ra thị trường. Cần nhanh chóng xây dựng và thông qua luật cạnh tranh, luật chống đầu cơ,…
- Bảo hộ có chọn lọc thị trường trong nước để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thông qua:
+ Định hướng các ngành nghề , lĩnh vực ưu tiên nhất là các ngành nghề tạo ra tiềm lực công nghệ cho đất nước. Giảm bớt nhập khẩu những hàng hoá có thể sản xuất trong nước hoặc sản xuất trong nước.
+ Sử dụng có chọn lọc thị trường trong nước bằng hàng rào thuế quan và phi thuế quan.
+ Đảm bảo đối xử công bằng thoả đáng và bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài.
2. Tiếp tục đổi mới về tổ chức và thủ tục hành chính để tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
Mở rộng hình thức và phương thức thu hút vốn FDI. Ngoài những hình thức như hiện nay để tăng cường thu hút vốn FDI đề nghị những hình thức sau:
- Công ty cổ phần trong nước có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là loại hình công ty phổ biến trên thế giới áp dụng thành công ở nhiều nước Đông Nam Ă. So với công ty trách nhiệm hữu hạn, loại hình công ty này có lợi thế về huy động vốn và rủi ro. Đề nghị nhà nước có văn bản pháp qui qui định về loại hình thu hút FDI này.
- Cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Theo ý kiến của nhiều nhà đầu tư, luật đầu tư qui định doanh nghiệp liên doanh không được huy động vốn bằng cách phát cổ phiếu, chứng khoán là quá cứng nhắc và gây bất lợi cho tổ Việt Nam. Vì vậy đề nghị nhà nước có quy định cụ thể về loại hình này nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam mua cổ phần nâng cao tỉ lệ góp vốn của phía Việt Nam.
- Nhà đầu tư tự do lựa chọn hình thức dầu tư phù hợp với yêu cầu của mình.
- Cải chế qui chế dầu tư vào các doanh nghiệp và khu chế xuất để thu hút mạnh hơn nữa các dự án FDI vào các khu công nghiệp và khu chế xuất.Cụ thể Nhà nước nên giảm thuế đất trong các khu công nghiệp và khu chế xuất, Nhà nước càn đầu tư đồng bộ xây dựng kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp và khu chế xuất, qui hoạch các khu này phải đảm bảo phát triển lâu dài của doanh nghiệp.Nhà đầu tư được tự do lựa chọn dịa điểm bố trí các dự án trong khu công nghiệp và khu chế xuất.
Cải tiến các thủ tục hành chính liên quan dến vốn FDI . Đi sâu vào các thủ tục hành chính có thể thấy:
- Cải tiến các thủ tục cấp giấy phép đầu tư : cần đơn giản hoá các thủ tục hành chính theo nguyên tắc “một cửa”, “một đầu mối”, các cơ quan phụ trách hợp tác về đầu tư là cơ quan duy nhất tiếp nhận hồ sơ và giải quyết các công việc tiếp theo, đồng thời thay mặt nhà đầu tư để liên hệ với các cơ quan hữu quan rồi trả lời cho nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho họ khi đăng kí .
Về hồ sơ và đăng ký giấy phép đầu tư, các cơ quan chức năng phải thông báo công khai các loại giấy tờ cần thiết. Nhà đầu tư phải đăng ký theo mẫu của Bộ Kế Hoạch và Đầu tư .
Cơ quan cấp giấy phép đăng kí phải có quyết định trong thời hạn nhanh nhất từ 16 đến 60 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ hợp lệ. Để thực hiện được điều đó, Bộ Khoa học công nghệ và Môi trường cần sửa đổi, điều chỉnh một số nội dung theo hướng giảm bớt các danh mục phải báo cáo đánh giá tác động môitrường. Với các phải lập báo cáo này, cơ quan thẩm định phải tiến hành khẩn trương và đảm bảo chính xác để vừa rút ngắn thời gian thẩm định vừa hạn chế được công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường .
- Để đơn giản hoá thủ tục hải quan : Các quy định, thủ tục hải quan phải được sửa đổi theo hướng đơn giản hoá và được công bố công khai, khắc phục các hiện tượng phiền hà, tiêu cực. Muốn vậy phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ ban,ngành có liên quan.
- Cải tiến thủ tục cấp đất và thủ tục xây dựng cơ bản : Sở địa chính ở các tỉnh, thành phố chỉ tiến hành đo đạc, lập bản đồ địa chính một lần và đơn giản hoá mọi thủ tục khác về đất đai. Đồng thời đề nghị với Tổng cục địa chính và các cơ quan hữu quan soạn thảo ngay các quy định về giaỉ phóng mặt bằng, đền bù đất đai cho các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, cũng như quy định về chuyển quyền sử dụng đất.
Thủ tục quản lý xây dựng cơ bản theo thiết kế đã đăng kí cần được tổ chức chặt chẽ, nhưng không được can thiệp quá sâu. Cơ quan nhà nước quản lý xây dựng cơ bản cần thực hiện đúng chức năng, thẩm quyền của mình, đồng thời cảI tiến các thủ tục theo hướng gọn nhẹ và hiệu quả.
3. Quy hoạch thu hút vốn
Bộ KH và ĐT cần nhanh chóng xây dựng và thông qua các quy hoạch ngành và lãnh thổ. Trước hết, cần khẩn trương quy hoạch các khu công nghiệp, khu chế suất, quy hoạch sản xuất các sản phẩm quan trọng thuộc các ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp hoá dầu, công nghiệp luyện kim, công nghiệp thông tin.Trên cơ sở đó, xác định các dự án trong nước có thể tự đầu tư và các dự án cần thu hút FDI.
Các ngành cần hoàn chỉnh thêm một bước công tác quy hoạch. Ngành cần phối hợp với các địa phương để xây dựng quy hoạch phát triển ngành trên từng vùng lãnh thổ. Trừ một số dự án khai thác chế biến gắn lion với các vùng nguyên liệu, tài nguyên được bố trí tại nơI thuận lợi nhất, các dự án còn lại cần được bố trí vào các khu công nghiệp, khu chế suất để sử dụng hiệu quả kết cấu hạ tầng, tránh đầu tư phân tán, dàn trải .
4. Nâng cấp và xây mới kết cấu hạ tầng để thu hút nhiều hơn vốn
Kết cấu hạ tầng giữ vai trò quan trọng, tạo điều kiện để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra sự chuyển biến căn bản về cơ cấu kinh tế, đảm bảo sự phát triển đồng đều giữa các vùng. Vì vậy trong thời gian tới, chúng ta phải tập trung vốn cho việc tu bổ và xây dựng cơ sở hạ tầng. Chúng ta phải đầu tư tập trung vào các vùng trọng điểm quyết định tới tăng trưởng kinh tế .
Chúng ta phải có những quy chế ưu đãi rõ ràng và cụ thể đối với các hình
thức đầu tư BOT, BTO, BT vào các địa bàn trọng điểm về phương thức này nhanh chóng được các nhà đầu tư triển khai thực hiện, góp phần hỗ trợ vốn đầu tư cho ngân sách. Bên cạnh đó, cần khuyến khích đầu tư xây dựng cơ bản vào các khu công nghiệp, khu chế xuất và đặc biết trong tương lai không xa, phải nghĩ tới viêc thành lập các đặc khu kinh tế để cải điều kiện kết cấu hạ tầng.
IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
1. Những kiến nghị cụ thể ở tầm vĩ mô
- Nghiên cứu cho phép thành lập công ty có nhiều mục tiêu hoạt động trên cơ sở từng dự án cụ thể, cho phép thành lập công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoàI và cổ phần hoá các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Miễn giảm hơn nữa các loại thuế như thuế doanh thu, thuế lợi tức, tiền thuê đất đối với những dự án được khuyến khích.
- Tham gia những công ước quốc tế và các nghị quyết của khối ASEAN.
- Nâng cao năng lực quản lý,điều hành các dự án có vốn FDI của các cơ quan quản lý nhà nước.
- Xét duyệt công khai các chính sách thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam khi buôn bán với các nước và với các nước ASEAN từ đây đến năm 2006 khi Việt Nam thực hiện xong chương trình cắt giảm thuế CEPT. Việc này giúp cho các nhà đầu tư hoạch định chính sách xuất khẩu sản phẩm của mình trong tương lai.
- Xây dựng một luật đầu tư chung, một khung giá chung cho các nhà đầu tư nước ngoài, tạo “sân chơi” bình đẳng cho các nhà đầu tư, đồng thời xây dựng hệ thống luật thống nhất hoàn chỉnh, sớm ban hành những luật còn thiếu tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- CảI tổ nền kinh tế để có điều kiện ra nhập WTO và APEC.
- Đầu tư thoả đáng vào giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực để duy trì và phát huy được lợi thế của Việt Nam.
2. Những kiến nghị ở tầm vi mô
- Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngay cho những dự án mà bên Việt Nam hiện đang có quyền sử dụng đất hợp tác, nay lại hợp tác đầu tư với nước ngoàI theo quy hoạch. Sau đó hoàn chỉnh các thủ tục khác.
- Cho phép các doanh nghiệp tư nhân được thuê đất của nhà nước và được quyền sử dụng đất để tham gia góp vốn vào liên doanh với đối tác đầu tư nước ngoài.
- Ban hành quy chế giám định máy móc, thiết bị nhập khẩu và quyết toán công trình để tránh bị nhập những công nghệ lạc hậu, cũ vào trong nước.
- Hoàn thiện quy trình thẩm định dự án và tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của các dự án có vốn FDI khi đã được cấp giấy phép đầu tư
- Đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đầu tư một cách nhanh chóng để khuyến khích đầu tư nước ngoài.
KẾT LUẬN
Hoạt động đầu tư nước ngoài đã góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt Nam. ý nghiã của vốn đầu tư nước ngoài không chỉ dừng lại ở kết quả đã đạt được mà điều quan trọng là từ một “cú hích” ban đầu của vốn đầu tư đã thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam để có thể rút ra khỏi cái vòng luẩn quẩn và từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tránh nguy cơ tụt hậu so với các nước khác.
Vốn đầu tư nước ngoài đã mang lại cho Việt Nam những thành tựu mà từ trước ta chưa đạt được. Đó là sự đóng góp quan trọng vào công cuộc đổi mới, chuyển dịch cơ cấu theo hướng CNH-HĐH đất nước. Vốn đầu tư nước ngoài làm chuyển dịch, thay đổi nền kinh tế Việt Nam để theo kịp các nước khác trong khu vực và hội nhập với thế giới.
Nhưng để đạt được nó thì không phải lúc nào cũng thuận lợi vì khi thực hiện hợp tác đầu tư với nưóc ngoài , chúng ta không tránh khỏi mất mát, thiệt thòi. Cái giá phải trả cho “mượn sức người” có thể rất lớn nếu chúng ta non kém về trình độ, hay mắc phải những sai lầm nghiêm trọng trong quản lý và điều hành vĩ mô. Ngược lại chúng ta có thể hạn chế tác hại nếu chúng ta khôn khéo sử lý tốt các tình huống và khả năng để thực hiện hợp tác với nước ngoài.
Để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục cao và để biến nước ta trở thành nước công nghiệp hoá vào năm 2020 thì việc thu hút và sử dụng vốn nước ngoài trong giai đoạn CNH - HĐH có vai trò và ý nghĩa quan trọng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đại hội toàn quốc ĐCSVN lần thứ IX-2001
2. Giáo trình Kinh tế phát triển
3.Vốn nước ngoài và chiến lược phát triển kinh tế ở Việt Nam
Lê Văn Châu- Nhà xuất bản chính trị quốc gia
4. Đầu tư nước ngoài ở Việt Nam tháng 9-1997
Trung tâm thông tin TECHCOMBANK
5. Tạp chí Kinh Tế và Dự Báo các số:
4/1997, 8/1998, 1/2000, 10+11/2000, 1;3;6/2001.
6. Tạp chí Kinh Tế Thế Giới các số:
3;4/1997, 6/1998, 4/2001.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KTCT (99).doc