Kết luận và hàm ý chính sách
Trong nghiên cứu này, tác giả thực hiện
kiểm định tác động của FDI đến tăng trưởng
kinh tế tại Việt Nam. Sử dụng dữ liệu trong
giai đoạn 1988-2017 với mô hình VAR, kết
quả của nghiên cứu cho thấy FDI tác động
tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Từ kết quả
nghiên cứu, tác giả đưa ra một số khuyến
nghị nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài hỗ trợ tăng trưởng kinh tế:
Thứ nhất, nhóm giải pháp về công tác
phối hợp trong quản lý nhà nước đối với hoạt
động đầu tư nước ngoài: Trung ương và địa
phương phối hợp chặt chẽ trong việc cấp
phép và quản lý các dự án đầu tư nước ngoài.
Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ công
chức nhằm đảm bảo thực hiện theo quy định
tại Luật Đầu tư và quy định mới về phân cấp
quản lý đầu tư FDI.
Thứ hai, nhóm giải pháp liên quan tới
chính sách thu hút đầu tư: Tiếp tục rà soát,
sửa đổi, bổ sung chính sách về đầu tư, kinh
doanh, ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu
tư vào một số lĩnh vực, thực hiện các biện
pháp thúc đẩy giải ngân. tập trung hoàn
thiện hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách
phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
đã cam kết, góp phần tạo môi trường kinh
doanh thuận lợi, để thu hút nguồn lực của các
thành phần kinh tế, cả trong và ngoài nước
cho đầu tư phát triển. Đặc biệt, trong thời đại
cách mạng công nghiệp 4.0, có thể khai thác
tối đa và tận dụng hiệu quả các lợi thế của
đầu tư nước ngoài trong giai đoạn chuyển đổi
theo hướng chất lượng và hiệu quả. Chính
sách thu hút đầu tư nước ngoài cần cải cách
theo hướng ưu tiên cao nhất cho công nghệ
cao, công nghệ nguồn hướng tới cách mạng
công nghiệp 4.0, xây dựng môi trường kinh
doanh phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp
trong kỷ nguyên số, cần phải đem lại môi
trường đầu tư ưu việt cùng các trải nghiệm
vận hành với các giải pháp số, trực tuyến
cạnh tranh được với các đối thủ khác trong
khu vực. Tiếp tục cải cách hành chính hơn
nữa trong giải quyết thủ tục đầu tư.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 432 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
18
TÁC ĐỘNG CỦA VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐẾN
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM
THE AFFECT OF FOREIGN DIRECT INVESTMENT ON ECONOMIC GROWTH
IN VIET NAM
Ngày nhận bài: 21/12/2018
Ngày chấp nhận đăng: 12/02/2019
Nguyễn Thị Mỹ Linh, Nguyễn Thị Hoa
TÓM TẮT
Tại Việt Nam, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư
toàn xã hội và góp phần quan trọng tạo động lực tăng trưởng kinh tế. Trong nghiên cứu này,
chúng tôi sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian và ứng dụng mô hình tự hồi quy dạng vector (VAR) để
phân tích tác động của FDI đến tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam trong giai đoạn từ 1988 đến 2017,
nguồn dữ liệu được thu thập từ Ngân hàng thế giới, Tổng Cục Thống kê Việt Nam. Kết quả nghiên
cứu cho thấy dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế
trong giai đoạn nghiên cứu. Ngoài ra, GDP và FDI trong quá khứ có ảnh hưởng đến GDP ở thời
điểm hiện tại với độ trễ tối đa là 3 năm, đây cũng chính là điểm mới của nghiên cứu này so với các
nghiên cứu trước đó. Từ kết quả nêu trên, bài viết đưa ra một số hàm ý chính sách trong việc thu
hút FDI ở Việt Nam trong thời gian tới.
Từ khóa: FDI, tác động, tăng trưởng kinh tế, VAR, Việt Nam.
ABSTRACT
In Vietnam, foreign direct investment always accounts for a large proportion of the total investment
capital of the society and plays an important role in promoting economic growth. In this study, we
have used time series data and applied the vector autoregression model (VAR) to analyze the
effect of FDI on economic growth in Vietnam in the period from 1988 to 2017. Data sources are
collected from the World Bank, General Statistics Office of Vietnam. The results of the study show
that foreign direct investment inflows positively impacted economic growth during the studied
period. In addition, past GDP and FDI have affected present GDP with a maximum time lag of 3
years, which is also a new finding of this study compared to previous studies. From the above
results, the paper presents some policy implications for attracting FDI in Vietnam in coming time.
Keywords: FDI, affect, economic growth, VAR, Vietnam.
1. Giới thiệu
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức
đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư tiến hành đầu
tư vào một nền kinh tế khác nhằm mục đích
thu được lợi ích lâu dài và có khả năng thực
hiện quản lý doanh nghiệp nhận đầu tư hiệu
quả ( IMF, 2009). Mối quan hệ giữa FDI và
tăng trưởng kinh tế từ lâu đã là một chủ đề
quan tâm lớn trong lĩnh vực phát triển kinh tế
quốc tế. FDI thường được coi là chất xúc tác
quan trọng cho tăng trưởng kinh tế ở các
nước đang phát triển. Trong xu thế hội nhập
ngày càng sâu rộng và dòng vốn tự do di
chuyển qua biên giới các quốc gia, sự ổn
định của dòng vốn FDI được xem như một
kênh hiệu quả để đạt được tốc độ tăng trưởng
nhanh hơn ở các nước đang phát triển (Makki
và Somwaru, 2004). Các mô hình tăng
trưởng tân cổ điển cũng như các mô hình
tăng trưởng nội sinh cung cấp cơ sở lý thuyết
cho hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm về
mối liên kết giữa tăng trưởng kinh tế và FDI.
Mặc dù kết quả cuối cùng còn hỗn hợp,
hầu hết các nghiên cứu kinh tế vĩ mô đều ủng
Nguyễn Thị Mỹ Linh, Nguyễn Thị Hoa, Trường
Đại học Tài chính- Marketing
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(01) - 2019
19
hộ mối quan hệ tích cực giữa FDI và tăng
trưởng trong các điều kiện kinh tế đặc biệt
(Lean và Tan, 2011; Alshehry, 2015;
Adhikary, 2015). FDI có thể góp phần thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là tại các
quốc gia đang phát triển thể hiện trên các
khía cạnh sau: Đầu tiên là FDI là ngoại lực
quan trọng bù đắp mức độ tiết kiệm thấp ở
các quốc gia đang phát triển, giúp thoát khỏi
vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói nhờ nâng
cao công nghệ và năng suất, tạo thêm việc
làm từ đó gia tăng thu nhập và điều kiện phát
triển. Thứ hai, FDI là nguồn dẫn chính mà
qua đó công nghệ được chuyển giao giữa các
quốc gia, nhất là từ các quốc gia phát triển
đến các quốc gia đang phát triển, dẫn đến
tăng năng suất và hiệu quả của nhân tố trong
việc sử dụng các nguồn lực, dẫn đến tăng
trưởng. Thứ ba, FDI dẫn đến tăng xuất khẩu
do tăng năng lực và khả năng cạnh tranh
trong sản xuất trong nước. Mối quan hệ này
thường được cho là phụ thuộc vào yếu tố
khác, được gọi là “năng lực hấp thụ”, bao
gồm mức phát triển nguồn nhân lực, loại chế
độ thương mại và độ mở của nền kinh tế nội
địa (Umoh và cộng sự, 2012; Strauss, 2015).
Dòng vốn FDI vào Việt Nam từ năm 1988
được coi là một hiện tượng rất ấn tượng của
quá trình chuyển đổi kinh tế từ nền kinh tế kế
hoạch tập trung sang nền kinh tế định hướng
thị trường (Nguyễn Ngọc Anh và Nguyễn
Thắng, 2007; Ohno và Le, 2014). Điều đáng
ngạc nhiên là cuộc khủng hoảng tồi tệ năm
2008, kinh tế thế giới gặp khó khăn nhưng
lượng vốn FDI vào Việt Nam vẫn khá ổn
định. Bài nghiên cứu này được thực hiện
nhằm mục đích kiểm định sự ảnh hưởng của
FDI đến tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh
Việt Nam giai đoạn 1988-2017 bằng cách sử
dụng các kỹ thuật phân tích chuỗi thời gian
với mô hình VAR. Kết quả nghiên cứu là
bằng chứng thực nghiệm về vai trò của FDI
đối với tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam, trên
cơ sở đó, tác giả đề xuất một số khuyến nghị
cho Việt Nam trong thời gian tới.
2. Cơ sở lý thuyết và nghiên cứu thực
nghiệm
2.1. Cơ sở lý thuyết
Mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng
kinh tế được khẳng định trong các mô hình
tăng trưởng tân cổ điển. Mô hình tân cổ điển
cho rằng lao động và công nghệ là các yếu tố
ngoại sinh trong khi vốn là nhân tố nội sinh.
Theo đó, vốn có tác động quan trọng đến
tăng trưởng kinh tế. Bởi vì là nhân tố nội
sinh, FDI chỉ tác động đến tăng trưởng trong
ngắn hạn, nhưng tăng trưởng kinh tế trong
dài hạn bị ảnh hưởng bởi sự tăng trưởng
trong lao động và tiến bộ công nghệ.
Ra đời vào những năm 1980, lý thuyết
tăng trưởng nội sinh phê phán một số thiếu
sót của mô hình tăng trưởng tân cổ điển về
các giả định rằng tốc độ cải tiến công nghệ là
không đổi và tỷ suất lợi nhuận biên của vốn
giảm dần, giả thuyết tăng trưởng nội sinh cho
rằng công nghệ là yếu tố nội sinh. Trong
khung phân tích này, FDI có tác động lớn
hơn đến đầu tư trong nước. Cụ thể, lý thuyết
này nhấn mạnh vào một số yếu tố thúc đẩy
tăng trưởng như vốn nhân lực, các yếu tố
ngoại tác và tác động lan tỏa công nghệ. Điều
này cung cấp một số cơ sở giải thích về ảnh
hưởng của FDI đến tăng trưởng kinh tế
(Grossman, Helpman, 1991; Loungani,
Razin, 2001). Ngoài ra, theo lý thuyết tăng
trưởng nội sinh, FDI được hấp thụ thông qua
chuyển giao công nghệ sẽ tạo ra các ngoại tác
tăng năng suất và do đó thúc đẩy tăng trưởng.
2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm
2.2.1. Các nghiên cứu tìm thấy FDI tác động
cùng chiều đến GDP
Roman và Padureanu (2012) đề xuất mô
hình cho mối quan hệ giữa FDI và tăng
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
20
trưởng kinh tế trong quá trình chuyển đổi ở
Romania, tác giả sử dụng mô hình tân cổ
điển với chức năng sản xuất CobbDouglas để
phân tích tác động của FDI tới tăng trưởng
kinh tế. Kết quả, kinh tế Romania tăng
trưởng từ ảnh hưởng tích cực của chính sách
tài khóa, FDI và từ mức độ hòa nhập vào EU.
Shaari và cộng sự (2012), kiểm tra mối quan
hệ giữa FDI và GDP tại Malaysia bằng cách
sử dụng dữ liệu hàng năm từ năm 1971 đến
năm 2010, áp dụng mô hình VAR. Kết quả
cho thấy sự gia tăng của FDI có tác động tốt
đến tăng trưởng kinh tế ở Malaysia. Cụ thể,
1% tăng trưởng FDI tạo ra mức tăng
49,135% GDP của Malaysia. Iqbal1 và cộng
sự (2013) sử dụng dữ liệu 30 năm từ năm
1983 đến năm 2012, kiểm định với hàm
Cobb-Douglas Production, kết quả cho thấy
có mối quan hệ tích cực giữa FDI và GDP ở
Pakistan. Adamu và cộng sự (2015) đã kiểm
tra tác động của FDI đối với tăng trưởng kinh
tế của Nigeria, sử dụng dữ liệu chuỗi thời
gian giữa năm 1970 đến 2012 bằng cách
phương pháp OLS, thử nghiệm gốc đơn vị
ADF và kiểm tra quan hệ nhân quả Pairwise
Granger cho thấy một mối quan hệ một chiều
tích cực, có ý nghĩa giữa FDI và tăng trưởng
kinh tế Nigeria.
Gần đây nhất, Hemed và Suleiman (2017)
áp dụng kỹ thuật FMOLS (Fully Modified
Ordinary Least Square) cho dữ liệu từ 4 nước
thành viên Đông Phi (Kenya, Rwanda,
Uganda và Cộng hòa Tanzania) trong giai
đoạn 1990-2015, cho thấy FDI tác động tích
cực đến tăng trưởng kinh tế ở hầu hết các
nước Đông Phi với kết quả đáng kể ở mức ý
nghĩa 10%.
Trong bối cảnh Việt Nam, một số các
nghiên cứu cũng tìm thấy tác động tích cực
của FDI đến tăng trưởng kinh tế ở những giai
đoạn nghiên cứu khác nhau. Nguyễn Mại
(2003) cho thấy FDI có tác động dương đến
tăng trưởng kinh tế ở mức độ quốc gia và đưa
ra nhận định rằng để thu hút vốn FDI vào
Việt Nam cần mở rộng thị trường và tìm đối
tác mới. Nguyễn Thị Phương Hoa (2004) kết
luận FDI có tác động dương tới tăng trưởng
kinh tế của các địa phương thông qua hình
thành, tích lũy tài sản vốn và có sự tương tác
cùng chiều giữa FDI với nguồn nhân lực.
Nguyễn Thị Tuệ Anh và cộng sự (2006) sử
dụng dữ liệu chuỗi thời gian giai đoạn 1988-
2003, cho thấy tác động của FDI tới tăng
trưởng kinh tế qua kênh đầu tư. Vũ Băng
Tâm (2008) với dữ liệu giai đoạn 1990-2002,
sử dụng phương pháp OLS, GLS và kiểm
định quan hệ nhân quả cho thấy FDI có tác
động tích cực đến tăng trưởng kinh tế thông
qua năng suất lao động. Lê Việt Anh (2009),
nghiên cứu về mối quan hệ giữa FDI và tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam cho thấy đóng góp
tích cực của dòng vốn FDI đối với tăng
trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1988-
2002, ước tính khoảng 7% trong 37% tổng số
vốn đóng góp cho sự tăng trưởng trong giai
đoạn này. Kết quả hồi quy thấy rằng FDI có
mối quan hệ dương với đầu tư trong nước và
tăng trưởng kinh tế cũng như FDI tạo ra
những tác động dương đáng kể trong ngắn
hạn và dài hạn lên tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam. Chien và Zhang (2012) cũng khẳng
định FDI có tác động dương lên tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn 2000-
2010.
2.2.2. Các nghiên cứu tìm thấy FDI tác động
ngược chiều đến GDP
Tuy không phổ biến, một số các nghiên
cứu lại tìm thấy tác động ngược chiều của
FDI đến tăng trưởng kinh tế.
Damijan và cộng sự (2001) nghiên cứu dữ
liệu của 8 nước Estonia, Slovenia, Hungari,
Slovakia, Bulgari, the Czech republic,
Romania, Poland trong giai đoạn 1994–1998,
kết quả cho thấy FDI tác động ngược chiều
với GDP.
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(01) - 2019
21
Tương tự, Ang (2009) đánh giá tác động
của FDI đến kinh tế Thái Lan trong giai đoạn
1970 – 2004 bằng cách sử dụng mô hình hiệu
chỉnh sai số. Kết quả cho thấy FDI tác động
ngược chiều đến kinh tế Thái Lan.
2.2.3. Các nghiên cứu tìm thấy FDI không có
ý nghĩa thống kê đến GDP
Ở một hướng nghiên cứu khác, bằng các
mô hình kinh tế lượng khác nhau, với các
giai đoạn nghiên cứu khác nhau, các tác giả
không tìm thấy bằng chứng có ý nghĩa thống
kê về tác động của FDI đến tăng trưởng kinh
tế của các quốc gia tiếp nhận.
Ericsson và Irandoust (2001) không phát
hiện bất kỳ mối quan hệ nhân quả giữa FDI
và tăng trưởng đối với Đan Mạch và Phần
Lan khi kiểm tra tác động nhân quả giữa FDI
và sản lượng cho bốn quốc gia OECD gồm
Đan Mạch, Phần Lan, Na Uy và Thụy Điển.
Carkovic và Levine (2002) dùng dữ liệu giai
đoạn 1960-1995 từ 72 quốc gia phát triển và
đang phát triển, với phương pháp OLS và
GMM đã không tìm thấy mối quan hệ có ý
nghĩa thống kê giữa FDI và tăng trưởng ở
những nước nhận đầu tư. Karimi và cộng sự
(2009) xem xét mối quan hệ nhân quả giữa
đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng trưởng
kinh tế với phương pháp luận dựa trên thử
nghiệm Toda-Yamamoto cho mối quan hệ
nhân quả và thử nghiệm giới hạn (ARDL),
dữ liệu chuỗi thời gian giai đoạn 1970-2005
cho Malaysia cũng nhận thấy không có ảnh
hưởng có ý nghĩa thống kê giữa FDI và tăng
trưởng. Temiz, Dilek và Gökmen, Aytaç
(2014) kiểm tra quan hệ giữa dòng vốn FDI
và tăng trưởng kinh tế ở Thổ Nhĩ Kỳ. Bằng
cách áp dụng chuỗi dữ liệu thời gian theo
quý từ quý 1/1992 đến quý 3/2007, sử dụng
Johansen và phân tích nhân quả Granger. Kết
quả phân tích khẳng định không tồn tại mối
quan hệ có ý nghĩa nào giữa FDI và tăng
trưởng kinh tế ở Thổ Nhĩ Kỳ cả trong ngắn
hạn lẫn dài hạn. Nghiên cứu của Curwin và
Mahutga (2014), sử dụng phương pháp hồi
quy dữ liệu bảng trong giai đoạn 2009 – 2010
của 25 quốc gia. Kết quả nghiên cứu của các
tác giả cho thấy FDI chưa đủ ý nghĩa thống
kê để kết luận ảnh hưởng tới tăng trưởng
kinh tế cả trong ngắn hạn và dài hạn.
3. Mô hình và phương pháp nghiên cứu
3.1. Mô hình nghiên cứu
Dựa trên các mô hình lý thuyết tăng
trưởng tân cổ điển và nội sinh cũng như các
mô hình phân tích thực nghiệm khác nhau
như Borensztein và cộng sự (1998), Hoàng
Thị Thu, Paitoon Wiboonchutikula and
Bangorn Tubtimtong (2010), tác giả xây
dựng mô hình nghiên cứu để đánh giá tác
động của FDI đến tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam như sau:
Trong đó:
GDPt: Giá trị tổng sản phẩm quốc nội
năm t.
FDIt: Giá trị vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài năm t
ɛt: Sai số
Độ trễ j và i của các biến hồi quy trong
mô hình được lựa chọn theo tiêu chuẩn
Likelihood.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Dữ liệu nghiên cứu
Số liệu cho nghiên cứu được thu thập theo
tần suất hàng năm cho khoảng thời gian từ
năm 1988 đến năm 2017. Các dữ liệu thứ cấp
được thu thập từ Ngân hàng thế giới, Tổng
Cục Thống kê Việt Nam bao gồm: GDP
thực, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
FDI.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
22
STT Dữ liệu Nguồn
1 GDP thực Ngân hàng thế giới
2 FDI ròng Ngân hàng thế giới
FDI đăng ký Tổng cục thống kê
FDI thực hiện Tổng cục thống kê
3.2.2. Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu áp dụng kiểm định tính
dừng ADF để kiểm tra tính dừng của các
biến trước khi thực hiện phân tích thực
nghiệm mối quan hệ giữa chúng. Đối với
chuỗi gốc không dừng sẽ được loại bỏ xu
hướng hoặc lấy sai phân đến khi có được
chuỗi dừng trước khi đưa vào mô hình. Sau
khi kiểm định tính dừng, nghiên cứu tiếp tục
xem xét mối quan hệ cân bằng trong dài hạn
giữa hai biến bằng kiểm định đồng liên kết
Johansen, việc kiểm định đồng liên kết nhằm
xem xét liệu các chuỗi dữ liệu theo thời gian
không dừng có bất kỳ mối quan hệ cân bằng
nào trong dài hạn hay không, hay nói cách
khác chúng có bất ổn đồng nhịp hay không.
Nếu các chuỗi dữ liệu là không dừng nhưng
chúng có mối quan hệ đồng liên kết, yếu tố
hiệu chỉnh sai số cần được thêm vào phương
trình hồi quy để phản ánh đúng mối quan hệ
của các biến trong ngắn hạn, đồng thời có thể
nắm bắt được mối quan hệ của chúng trong
dài hạn. Cuối cùng nghiên cứu sử dụng mô
hình VAR để mô hình hóa mối quan hệ giữa
FDI và tăng trưởng kinh tế.
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
4.1. Thực trạng nguồn vốn FDI và tăng
trưởng kinh tế tại Việt Nam
4.1.1. Tình hình thu hút và thực hiện FDI tại
Việt Nam giai đoạn 1988 - 2017
Dòng vốn FDI đã tăng đáng kể kể từ khi
Luật Đầu tư nước ngoài đầu tiên của Việt
Nam được thông qua vào năm 1987. Để đáp
ứng tốt hơn các yêu cầu kinh doanh và phản
hồi từ các nhà đầu tư nước ngoài, Luật này
đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần. Hình 1
thể hiện FDI đã đăng ký và thực hiện ở Việt
Nam từ năm 1988 đến năm 2017.
Kể từ khi Việt Nam tổ chức thành công
Hội nghị APEC 14, Hoa Kỳ trao Quy chế
Quan hệ Thương mại Bình thường Vĩnh viễn
(PNTR) cho Việt Nam và ngày 11/01/2007,
Việt Nam chính thức trở thành thành viên
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã
đánh dấu những thành quả đổi mới của Việt
Nam, tạo được sức hấp dẫn của Việt Nam
trong việc thu hút các nhà đầu tư quốc tế.
FDI đã tăng rất nhanh chóng cả về số dự án,
số vốn đăng ký và số vốn thực hiện, năm sau
đều tăng hơn so với năm trước. Trong giai
đoạn từ 2007 đến 2016, vốn FDI có sự gia
tăng rất mạnh, số dự án bằng 250% so với
giai đoạn từ 1997-2006, số vốn đăng ký bằng
540,8% so với giai đoạn 1997-2006, số vốn
thực hiện bằng 406% so với giai đoạn 1997-
2006. Đặc biệt, ngày 11/01/2007, Việt Nam
chính thức trở thành thành viên của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO) đã đánh dấu
những thành quả đổi mới, tạo được sự hấp
dẫn của Việt Nam trong việc thu hút các nhà
đầu tư quốc tế, FDI đăng ký đã tăng rất
nhanh.
Hình 1 : Đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt Nam
Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(01) - 2019
23
Nhìn chung, lượng vốn FDI đăng ký tăng
qua các năm nhưng có sự chênh lệch lớn giữa
vốn đăng ký và vốn thực hiện. Nguyên nhân
của sự chênh lệch này là do một số địa
phương có xu hướng đua nhau thu hút FDI,
khai báo quá lượng FDI thu hút được; do
việc thực hiện các dự án FDI gặp khó khăn
so với dự kiến ban đầu; do tác động ảnh
hưởng của các cuộc khủng hoảng tài chính,
kinh tế và do động thái đăng ký dự án của
nhiều nhà đầu tư chỉ để giữ chỗ hoặc lấy đất,
sau đó bán lại dự án để thu lời. Sự chênh lệch
giữa vốn thực hiện và vốn đăng ký cao chứng
tỏ hiệu quả khai thác còn yếu, vì vậy cần có
chính sách hỗ trợ cũng như quản lý chặt chẽ
hơn nhằm tăng cường khả năng hấp thụ dòng
vốn quan trọng này tại Việt Nam trong thời
gian tới.
4.1.2. Vai trò của Đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam
a) Vai trò của FDI đối với tổng vốn
đầu tư phát triển toàn xã hội tại Việt Nam
Hình 2 thể hiện vai trò của FDI đối với
tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tại Việt
Nam.
Hình 2 : Đóng góp của các thành phần kinh tế
trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tại
Việt Nam từ năm 1988 đến năm 2017
Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam
Với Việt Nam, đang trong quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nên nhu
cầu về vốn của nền kinh tế quốc dân là rất
lớn, FDI đã bổ sung phần nào đáng kể nhu
cầu đó. Thực tế ở Việt Nam cho thấy, nguồn
vốn FDI giữ một vai trò quan trọng, thể hiện
qua tổng nguồn vốn đầu tư phát triển của khu
vực này ngày càng tăng lên. Nếu như năm
2004, số vốn FDI chiếm 14,2% trong tổng
vốn đầu tư toàn xã hội, năm 2015 chiếm
14,9% thì năm 2008 lên đến 30,9% và các
năm sau đó đều trên 21% tổng vốn đầu tư
toàn xã hội. Dòng vốn FDI không chỉ có ý
nghĩa đóng góp vào tổng vốn, mà còn giúp
định hướng lĩnh vực đầu tư cho Việt Nam.
b) Vai trò của FDI với tăng trưởng
kinh tế Việt Nam
Hình 3 thể hiện vai trò của FDI với tăng
trưởng kinh tế tại Việt Nam.
Hình 3 : Đóng góp của các thành phần kinh tế
trong GDP theo giá thực tế tại Việt Nam
Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam
Xét theo tỷ trọng đóng góp vào tăng
trưởng kinh tế, khu vực kinh tế ngoài nhà
nước (khu vực kinh tế tư nhân) có mức đóng
góp cao nhất. Khu vực có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài mặc dù mức đóng góp còn
thấp khi so về tỷ trọng với các khu vực khác,
song tỷ trọng đóng góp của khu vực này ngày
càng tăng trong GDP. Năm 2007, FDI đóng
góp 16,96% GDP theo giá thực tế thì năm
2017 đạt 19,63%, cho thấy hiệu quả của dòng
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
24
vốn này đã gia tăng và góp phần tích cực
trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Mặc dù FDI có nhiều đóng góp lớn cho
phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam nhưng
chất lượng nguồn vốn này vẫn chưa đáp ứng
được kỳ vọng. Chất lượng nguồn vốn FDI
thấp có thể do một số nguyên nhân. Thứ
nhất, việc phân cấp cấp giấy phép dự án FDI
được thực hiện phân cấp mạnh nhưng cơ chế
phân cấp nảy sinh nhiều bất cập, công tác
thẩm định, cấp giấy chứng nhận đầu tư, công
tác quản lý, giám sát các dự án FDI còn lỏng
lẻo, chất lượng chưa cao, một số dự án có
quy mô lớn được cấp phép nhưng không triển
khai hoặc triển khai chậm. Thứ hai, môi
trường đầu tư chưa thông thoáng minh bạch
liên quan đến thủ tục hành chính, đất đai, cơ
sở hạ tầng là những yếu tố hạn chế sự đầu tư
vào Việt Nam của các công ty đa quốc gia
trên thế giới.
4.2. Kết quả nghiên cứu
4.2.1. Thống kê mô tả các biến nghiên cứu
Bảng 1: Thống kê mô tả
Biến
Số quan
sát
Trung bình Độ lệch chuẩn
Giá trị nhỏ
nhất
Giá trị lớn
nhất
GDP (nghìn USD) 30 73.094.428 68.400.000 6.293.305 223.863.996
FDI (nghìn USD) 30 4.302.637 4.283.810 4.070 14.100.000
Thống kê mô tả các biến nghiên cứu cho
thấy, GDP trung bình trong giai đoạn nghiên
cứu là 73.094.428 nghìn USD mỗi năm.
Trong khi nguồn vốn FDI trung bình thu hút
4.302.637 nghìn USD mỗi năm. Biến động
GDP cao hơn FDI, thể hiện ở độ lệch chuẩn
cao hơn.
4.2.2. Kết quả kiểm định tính dừng
Bảng 2: Kết quả kiểm định tính dừng
Biến Test Statistic P-value
GDP -0,031 0,9559
ΔGDP -16,241 0,000
FDI -3,178 0,0213
ΔFDI -5,366 0,000
Các kết quả thử nghiệm ADF cho các
biến nghiên cứu được thể hiện trong Bảng 2.
Kết quả cho thấy rằng giả thiết không có sự
hiện diện của nghiệm đơn vị hay các biến là
dừng bị bác bỏ ở chuỗi biến gốc Ln(GDP),
trong khi biến Ln(FDI) dừng ở mức ý nghĩa
5%. Tuy nhiên, sai phân của biến Ln(GDP)
dừng ở mức ý nghĩa 1%, điều này cho thấy
rằng ln(GDP) là biến tích hợp bậc một hoặc I
(1).
4.2.3. Kiểm định đồng liên kết
Bước tiếp theo tác giả thực hiện kiểm
định Johansen để kiểm tra sự tồn tại của các
mối quan hệ dài hạn giữa các biến quan tâm.
Kết quả của các thử nghiệm này được trình
bày trong Bảng 3, cung cấp số lượng các vec-
tơ đồng liên kết.
Bảng 3: Kết quả kiểm định đồng liên kết
Như thể hiện trong Bảng 3, giá trị thống
kê Trace và giá trị riêng tối đa cho thấy
không tồn tại vectơ đồng liên kết. Do đó,
không tồn tại mối quan hệ dài hạn giữa hai
biến, và mô hình phù hợp cho nghiên cứu là
mô hình VAR.
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(01) - 2019
25
4.2.4. Phân tích mô hình VAR
Bảng 4 thể hiện phân tích mô hình VAR
Bảng 4: Kết quả ước lượng mô hình VAR
Biến
DGDP
Hệ số
hồi quy
Mức ý
nghĩa
Hằng số 0,0647491 0,006***
DGDP(-1) 0, 3285184 0,068*
DGDP(-2) 0, 0558903 0,693
DGDP(-3) -0, 0588312 0,427
DFDI(-1) 0, 1058101 0,004***
DFDI(-2) -0, 0746204 0,037**
DFDI(-3) 0, 0564103 0,001***
Ghi chú: *, ** và *** có ý nghĩa tương ứng ở
mức 10%, 5% và 1%
Mô hình VAR được ước lượng với độ trễ
3, được lựa chọn theo tiêu chuẩn Likelihood.
Kết quả mô hình VAR được trình bày ở bảng
4 cho thấy, FDI tác động cùng chiều đến
GDP. FDI tăng sẽ kích thích tăng trưởng
kinh tế, điều này thể hiện rõ nhất sau 1 và 3
kỳ. Tuy nhiên, nếu FDI không được sử dụng
hiệu quả thì có thể kìm hãm tăng trưởng kinh
tế, điều này thể hiện rõ sau 2 kỳ. Điều này
khá phù hợp với thực tế, vì khi FDI tăng sẽ
kích thích tăng trưởng kinh tế trong thời gian
ngắn. Tuy nhiên, nếu không có kế hoạch sử
dụng FDI một cách hiệu quả thì sẽ không
kích tích được tăng trưởng kinh tế (sau 2 kỳ).
Nhận thấy được điều đó, VN sẽ có các biện
pháp cải thiện và sử dụng FDI hiệu quả hơn,
điều này sẽ kích thích được tăng trưởng kinh
tế sau 3 kỳ. Hàm ý nguồn vốn FDI càng gia
tăng càng tạo điều kiện phát triển nền kinh tế.
Tác động tổng hợp sau 3 kỳ là 0,0876 và có ý
nghĩa thống kê ở mức 1%. Điều này cho thấy
rằng sự gia tăng 1% FDI trong nước có xu
hướng tăng 0,11% trong tốc độ tăng trưởng
GDP trong năm đầu tiên, và tăng 0,08% sau
3 năm. Kết quả nghiên cứu phù hợp với lý
thuyết tăng trưởng cổ điển và mô hình
Harrod- Domar. Kết quả này cũng phù hợp
với kết quả của các nghiên cứu trước đây như
Borensztein và cộng sự (1998), Lean và Tan
(2011), Insah (2013) và Iqbal và Abbas
(2015). Vốn đầu tư là nhân tố quan trong đối
với sự phát triển kinh tế của một quốc gia.
Vốn gia tăng là điều kiện tích lũy tư bản, gia
tăng đầu tư, tăng năng lực sản xuất và tái sản
xuất của nền kinh tế. Vốn cũng là điều kiện
để gia tăng cơ sở vật chất và cơ sở hạ tầng
của nền kinh tế, tạo môi trường hoạt động tốt
hơn cho các doanh nghiệp trong nước, do đó
đóng góp cho sự phát triển của nền kinh tế.
FDI là một nguồn thiết yếu hỗ trợ trực tiếp
cho việc tạo ra các ngành công nghiệp khác
nhau ở Việt Nam với nhu cầu cao về công
nghệ và các sản phẩm giá trị như sản xuất
máy móc, năng lượng, máy tính và điện
thoại. Ngoài ra, FDI đã đóng một vai trò
ngày càng quan trọng trong hoạt động xuất
nhập khẩu của đất nước cũng như đảm bảo
cung cấp ngoại hối và cán cân thanh toán
quốc gia trong những năm qua.
Hiểu rõ tầm quan trọng của nguồn vốn
FDI, Việt Nam đã thực hiện chính sách thu
hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ngay từ
khi tiến hành cải cách kinh tế và được Quốc
hội thông qua Luật đầu tư nước ngoài đầu
tiên vào tháng 12/1987. Tháng 6/1990, Quốc
hội bổ sung một số điều của Luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam. Tháng 12/1992,
Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam. Tháng 11/1996, Quốc hội thông
qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam lần
thứ 2. Tháng 6/2000, Quốc hội thông qua
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tháng
12/2005, Quốc hội thông qua Luật đầu tư
(thống nhất). Tháng 11/2014, Quốc hội ban
hành Luật đầu tư 2014.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
26
Như vậy có thể thấy, hệ thống pháp luật
trong quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài
của Việt Nam đã có sự cập nhật theo hướng
ngày càng phù hợp với các cam kết và thông
lệ quốc tế. Tuy nhiên, vẫn còn một số bất
cập: Các chính sách ưu đãi của Việt Nam vẫn
còn chưa hấp dẫn so với các nước trong khu
vực như Thái lan, Philippin, Indonesia; các
vấn đề đất đai, giải phóng mặt bằng gây
chậm trễ tiến độ thực hiện dự án, làm mất
thời cơ của nhà đầu tư; hệ thống luật pháp,
chính sách vẫn còn thiếu tính đồng bộ và hay
thay đổi, thiếu tính minh bạch và khó dự
đoán trước tạo ra những rào cản bất hợp lý,
gây khó khăn cho nhà đầu tư.
Để khẳng định tính vững chắc của mô
hình ước tính, tác giả thực hiện kiểm định
chẩn đoán trên phần dư của mô hình. Tất cả
các số liệu thống kê được tính toán là không
có ý nghĩa thống kê, chỉ ra rằng mô hình
không tồn tại hiện tượng tự tương quan.
Ngoài ra, với mô hình VAR, sự ổn định của
mô hình là điều kiện để đảm bảo kết quả hồi
quy là đáng tin cậy. Tác giả báo cáo sự ổn
định của mô hình ở hình 4. Tất cả các giá trị
nghiệm ước lượng đều nằm trong vòng tròn
đơn vị, cho thấy mô hình VAR với độ trễ 3 là
ổn định.
-1
-.
5
0
.5
1
Im
a
g
in
a
ry
-1 -.5 0 .5 1
Real
Roots of the companion matrix
Hình 4: Kết quả kiểm định sự ổn định của mô
hình VAR
5. Kết luận và hàm ý chính sách
Trong nghiên cứu này, tác giả thực hiện
kiểm định tác động của FDI đến tăng trưởng
kinh tế tại Việt Nam. Sử dụng dữ liệu trong
giai đoạn 1988-2017 với mô hình VAR, kết
quả của nghiên cứu cho thấy FDI tác động
tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Từ kết quả
nghiên cứu, tác giả đưa ra một số khuyến
nghị nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài hỗ trợ tăng trưởng kinh tế:
Thứ nhất, nhóm giải pháp về công tác
phối hợp trong quản lý nhà nước đối với hoạt
động đầu tư nước ngoài: Trung ương và địa
phương phối hợp chặt chẽ trong việc cấp
phép và quản lý các dự án đầu tư nước ngoài.
Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ công
chức nhằm đảm bảo thực hiện theo quy định
tại Luật Đầu tư và quy định mới về phân cấp
quản lý đầu tư FDI.
Thứ hai, nhóm giải pháp liên quan tới
chính sách thu hút đầu tư: Tiếp tục rà soát,
sửa đổi, bổ sung chính sách về đầu tư, kinh
doanh, ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu
tư vào một số lĩnh vực, thực hiện các biện
pháp thúc đẩy giải ngân... tập trung hoàn
thiện hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách
phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
đã cam kết, góp phần tạo môi trường kinh
doanh thuận lợi, để thu hút nguồn lực của các
thành phần kinh tế, cả trong và ngoài nước
cho đầu tư phát triển. Đặc biệt, trong thời đại
cách mạng công nghiệp 4.0, có thể khai thác
tối đa và tận dụng hiệu quả các lợi thế của
đầu tư nước ngoài trong giai đoạn chuyển đổi
theo hướng chất lượng và hiệu quả. Chính
sách thu hút đầu tư nước ngoài cần cải cách
theo hướng ưu tiên cao nhất cho công nghệ
cao, công nghệ nguồn hướng tới cách mạng
công nghiệp 4.0, xây dựng môi trường kinh
doanh phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp
trong kỷ nguyên số, cần phải đem lại môi
trường đầu tư ưu việt cùng các trải nghiệm
vận hành với các giải pháp số, trực tuyến
cạnh tranh được với các đối thủ khác trong
khu vực. Tiếp tục cải cách hành chính hơn
nữa trong giải quyết thủ tục đầu tư. Xử lý kịp
thời vướng mắc trong vấn đề cấp phép điều
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(01) - 2019
27
chỉnh giấy chứng nhận đầu tư. Đồng thời,
tăng cường hoạt động kiểm tra giám sát đối
với các doanh nghiệp có vốn FDI nhằm đảm
bảo sự công bằng cho các doanh nghiệp
trong nước và giữ vững mối quan hệ thân
thiện với các nước đầu tư.Thứ ba, nhóm các
giải pháp hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ổn định:
Tập trung giải quyết hiệu quả bài toán phân
bổ hợp lý nguồn lực trên phạm vi cả nước,
từng ngành, vùng, địa phương. Kinh nghiệm
một số quốc gia cho thấy trong giai đoạn đầu
của quá trình phát triển có thể xem xét, tập
trung nguồn lực cho những vùng, khu vực,
đối tượng có hiệu quả sử dụng cao nhất , sau
một thời gian sẽ có nguồn lực lớn hơn để
phát triển cân bằng, bền vững cho các vùng,
khu vực, đối tượng còn lại. Tăng cường liên
kết theo chuỗi giá trị, nâng cao giá trị gia
tăng, kết nối khu vực kinh tế trong nước với
khu vực FDI, giữa thị trường trong nước và
thị trường quốc tế. Thúc đẩy phát triển sản
xuất kinh doanh, tạo nền tảng vi mô vững
chắc cho ổn định vĩ mô. Xác định rõ những
ngành, lĩnh vực, sản phẩm có lợi thế cạnh
tranh chủ đạo để có những chính sách hỗ trợ
phát triển phù hợp theo cơ chế thị trường, đặc
biệt chú trọng khâu tiêu thụ sản phẩm, đầu ra.
Các ngành chế biến chế tạo, nông nghiệp,
dịch vụ, du lịch đang trong xu thế phục hồi
tốt; tuy nhiên cần chú trọng việc các nước,
đối tác lớn có thể áp dụng các biện pháp
phòng vệ thương mại và xu hướng của khu
vực FDI để có đối sách phù hợp, kịp thời.
Tập trung nâng cao năng suất lao động, hiệu
quả, năng lực cạnh tranh và khả năng chống
chịu của nền kinh tế, của các ngành, lĩnh vực,
doanh nghiệp thông qua thúc đẩy ứng dụng
công nghệ cao, tận dụng cơ hội của cách
mạng công nghiệp 4.0. Củng cố ổn định kinh
tế vĩ mô cần được thực hiện đồng thời với cơ
cấu lại nền kinh tế trên các ngành, lĩnh vực.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Adamu, J., Idi, A., & Hajara, B. (2015). FDI and Economic Growth Nexus: Empirical
Evidence from Nigeria (1970-2012). Journal of Economics and Sustainable
Development, 6(6), 87-89.
Adhikary, B. K. (2015). Dynamic Effects of FDI, Trade Openness, Capital Formation and
Human Capital on the Economic Growth Rate in the Least Developed Economies:
Evidence from Nepal. International Journal of Trade, Economics and Finance, 6(1), 1-7.
Alshehry, A. S. (2015). Foreign Direct Investments and Economic Growth in Saudi Arabia:
A Cointegration Analysis. Developing Country Studies, 5(6), 69-76.
Ang, J., (2009). Foreign direct investment and its impact on the Thai economy: the role of
financial development. Journal of Economics and Finance, 33(3): 316-323.
Basu, P. and Guariglia, A., (2007). Foreign direct investment, inequality, and growth.
Journal of Macroeconomics, 29(4): 824-839.
Borensztein, E., De Gregorio, J., & Lee, J-W. (1998). How does Foreign Direct Investment
Affect Economic Growth. Journal of International Economics, 45(1), 115-135.
Carkovic, M. và Levine R.(2002). Does Foreign Direct Investment Accelerate Economic
Growth?. Washington DC: Institute for International Economics, 195-220.
Chien N.D, and Zhang K.Z., (2012). FDI of Vietnam: Two-Way Linkages between FDI and
GDP, Competition among Provinces and Effects of Laws. iBusiness, 2012(4): 157-163.
Damijan, J.P., Boris, M., Mark, K., and Matija, R., (2001). The role of FDI, absorptive
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
28
capacity and trade in transferring technology to transition countries: evidence from
firm panel data for eight transition countries. Mimeo UN Economie Commission for
Europe, Geneva
Ghatak, A., & Halicioglu, F. (2007). Foreign Direct Investment and Economic Growth:
Some Evidence from Across the World. Global Business and Economics Review, 9(4),
381-394.
Grossman, G., Helpman, E. (1991), “Quality ladders in the theory of growth”, Review of
Economic Studies, Vol. 58, pp. 43-61.
Hoang, T. T., Wiboonchutikula, P., & Tubtimtong, B. (2010). Does Foreign Direct
Investment Promote Economic Growth in Vietnam. ASEAN Economic Bulletin, 27(3),
295-311.
Insah, B. (2013). Foreign Direct Investment Inflows and Economic Growth in Ghana.
International Journal of Economic Practices and Theories, 3(2), 115-121.
Iqbal, Z., & Abbas, K. (2015). An Econometric Analysis of Foreign Direct Investment and
Economic Growth of Pakistan. Developing Country Studies, 5(11), 16-25.
Issa Moh’d Hemed, Salim Hamad Suleiman (2017): Foreign Direct Investment (FDI) and
Economic Growth in East African Countries, European Journal of Business and
Management
www.iiste.org ISSN 2222-1905 (Paper) ISSN 2222-2839 (Online) Vol.9, No.33, 2017
Kevin D. Curwin, Matthew C. Mahutga, (2014). Foreign Direct Investment and
Economic Growth: New Evidence from Post-Socialist Transition Countries. Social
Forces, 92(3): 1159-1187.
Lean, H. H., & Tan, B. W. (2011). Linkages between Foreign Direct Investment, Domestic
Investment and Economic Growth in Malaysia. Journal of Economic Cooperation and
Development, 32(4), 75-96.
Le Viet Anh, (2009). FDI-Growth Nexus in Vietnam. Nagoya University.
Loungani, P., Razin, A. (2001). “How beneficial is foreign direct investment for developing
countries?”, Finance and Development, Vol. 38, No. 2, pp. 6-9.
Mahanta Devajit (2012): Impact of Foreign Direct Investment on Indian economy, Research
Journal of Management Sciences, ISSN 2319–1171 Vol. 1(2), 29-31.
Makki, S. S., & Somwaru, A. (2004). Impact of Foreign Direct Investment and Trade on
Economic Growth: Evidence from Developing Countries. American Journal of
Agricultural Economics, 86(3), 795-801.
Mihai Daniel Roman and Andrei Padureanu, (2012). Models of Foreign Direct Investments
Influence on Economic Growth. Evidence from Romania. International Journal of
Trade, Economics and Finance, 3(1): 25-29.
Mohd Shahidan Bin Shaari, Thien Ho Hong & Siti Norwahida Shukeri, (2012). Foreign
Direct Investment and Economic Growth: Evidence from Malaysia. International
Business Research, 5(10).
Nadeem Iqbal1, Naveed Ahmad, Zeeshan Haider, Sonia Anwar (2013): Impact of foreign
direct investment (FDI) on GDP: A Case study from Pakistan, International Letters of
Social and Humanistic Sciences Online:2013-11-08 ISSN: 2300-2697, Vol. 16, pp 73-80
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(01) - 2019
29
Nam Hoai Trinh, Quynh Anh Mai Nguyen (2015) The Impact of Foreign Direct Investment
on Economic Growth: Evidence from Vietnam, Developing Country Studies, ISSN
2224-607X (Paper) ISSN 2225-0565 (Online) Vol.5, No.20.
Nguyễn Hồng Hà (2016). Mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng trưởng kinh
tế tỉnh Trà Vinh. Phát triển và hội nhập, số 26(36)- tháng 01-02/2016
Nguyễn Mại (2003): FDI và tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Báo Đầu tư, 24-12-2003.
Nguyễn Thị Liên Hoa, Lê Nguyễn Quỳnh Phương (2014): Mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp
nước ngoài, đầu tư trong nước và tăng trưởng kinh tế. Tạp chí Tài chính tháng 6/2014
Nguyêñ Thi ̣ Tuê ̣Anh , Vũ Xuân Nguyệt Hồng , Trần Toàn Thắng, và Nguyễn Mạnh Hải
(2006), “Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam”,
Dự án SIDA 2001 - 2010 của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương - CIEM.
Rivera-Batiz, L.A, Romer, P.M. (1991). “Economic Integration and Endogenous Growth”,
The Quarterly Journal of Economics, MIT Press, vol. 106(2), pp. 531-555.
Strauss, L. (2015). FDI Inflows and Economic Growth in South Africa from 1994 to 2013
(Master’s thesis). School of Economics and Management, Lund University.
Tam Bang Vu., (2008). Foreign Direct Investment and Endogenous Growth in Vietnam.
Applied Economics, 40: 1165-1173.
Temiz, Dilek & Gökmen, Aytaç (2014). FDI inflow as an international business operation
by MNCs and economic growth: An empirical study on Turkey. International Business
Review, 23(1): 145-154.
Umoh, O. J., Jacob, A. O., & Chuku, C. A. (2012). Foreign Direct Investment and Economic
Growth in Nigeria: An Analysis of the Endogenous Effects. Current Research Journal
of Economic Theory, 4(3), 53-66.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tac_dong_cua_von_dau_tu_truc_tiep_nuoc_ngoai_den_tang_truong.pdf