Giải pháp
Thứ nhất, ưu tiên đầu tư hạ tầng kĩ thuật và xã hội trong khu vực nông thôn.
Sự phát triển của hệ thống hạ tầng cơ sở này là điều kiện tiên quyết trong việc thực
hiện nhanh quá trình đô thị hóa nông thôn. Các điều kiện về giao thông, điện, nước
được phát triển giúp cho địa phương thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư, và
đó chính là cơ hội để khu vực nông thôn thúc đẩy sự phát triển của các khu công
nghiệp, cụm công nghiệp liên quan đến việc sản xuất, chế biến các mặt hàng nông thủy
sản với khả năng tạo việc làm cho nhiều lao động. Khi mà các cụm công nghiệp, các
khu công nghiệp trong khu vực nông thôn được hình thành thì các lao động có trình độ
kĩ thuật thay vì phải ra thành phố tìm việc có thể đến làm việc tại những doanh nghiệp
ở những khu này. Nói một cách khác, với sự đầu tư phát triển hạ tầng kĩ thuật trong
khu vực nông thôn, tình trạng di cư giữa các tỉnh sẽ giảm và thay vào đó là tình trạng
di cư “tại chỗ”, cái mà không ảnh hưởng xấu đến biến đổi cơ cấu dân số, ảnh hưởng
đến các mối quan hệ trong gia đình cũng như duy trì nguồn nhân lực cho sự phát triển
bền vững của địa phương trong dài hạn.
Thứ hai, bồi dưỡng, nâng cao năng lực và trình độ của đội ngũ các nhà quản lí làm
việc ở khu vực nông thôn.
Việc bổ sung, cập nhật và nâng cao kiến thức, nhận thức cho nhóm đối tượng này
không chỉ giúp khu vực nông thôn có được những biện pháp nhằm thu hút nguồn lực
bên ngoài đầu tư vào địa phương, hạn chế được tình trạng chảy máu chất xám ở khu
vực này, từ đó có được những cơ hội để phát triển kinh tế xã hội địa phương một cách
bền vững.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
16 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 439 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động di dân đối với thu nhập của nông hộ ở một số tỉnh Bắc Trung Bộ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
98 | Nguyễn Hoài Nam | 98 - 113  
Tác động di dân đối với thu nhập của nông hộ 
ở một số tỉnh Bắc Trung Bộ 
Nguyễn Hoài Nam 
Trường Đại học Vinh - nguyenhoainamdhv@gmail.com 
Ngày nhận: 
 22/04/2013 
Ngày nhận lại: 
 25/05/2014 
Ngày duyệt đăng: 
 10/06/2014 
Mã số: 
 04-13-AE-12 
Tóm tắt 
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp thống kê so sánh để phân tích 
tình trạng thu nhập và tiêu dùng của 175 nông hộ có lao động di cư 
trên 325 nông hộ ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh thuộc 
khu vực Bắc Trung Bộ. Bài viết tập trung làm rõ các nguồn hình 
thành thu nhập của nông hộ có lao động di cư, phân tích tỉ lệ đóng 
góp của nguồn ngoại sinh, đặc biệt là từ số tiền mà thành viên của 
lao động di cư gửi về chiếm bao nhiêu phần trăm thu nhập của nông 
hộ. Từ đó đưa ra những gợi ý chính sách để góp phần phát triển kinh 
tế xã hội nói chung và nông thôn Bắc Trung Bộ nói riêng phát triển 
bền vững. 
Abstract 
This research employs comparative statistics to analyze income and 
consumption of 175 rural households that have members are migrant 
laborers among 325 surveyed households in Thanh Hóa, Nghệ An 
and Hà Tĩnh – three provinces in the northern Central Vietnam. The 
paper tries to clarify sources of income for households with migrant 
laborers and share of the exogenous source, that is, money sent by 
migrant laborers to their families in home provinces, in the 
household total income, thereby offering policy implications that 
support socioeconomic development in Vietnam in general and in 
northern Central Vietnam in particular. 
Từ khóa: 
Tác động di dân, thu nhập 
nông hộ, lao động di cư, 
nguồn ngoại sinh. 
Keywords: 
Migration effect, rural 
household income, migrant 
labor, exogenous source. 
Phát triển Kinh tế 284 (06/2014)| 99 
1. GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 
M.P. Todaro (1969) đưa ra mô hình nghiên cứu về nguyên nhân di cư; và được tiếp 
tục phát triển bởi W. Corden, R. Findlay (1975), J.R. Harris, M.P. Todaro (1970), P. 
Zarembka (1972), và J. Stiglitz (1974). Mô hình này bắt nguồn từ vấn đề thu nhập của 
khu vực nông thôn thấp hơn khu vực thành thị (J.R. Harris, M.P. Todaro, 1970), người 
lao động so sánh các cơ hội nâng cao thu nhập giữa khu vực nông thôn và thành thị, từ 
đó đưa ra quyết định di cư tìm việc làm (Kevin Honglin Zhang & cộng sự, 2003). 
Knight & Song (1999), Rozelle, Guo, Shen, Hughart & Giles (1999), Zhao (1999) 
khẳng định rằng di cư tạo ra những biến đổi lớn trong khu vực nông thôn. Các hoạt 
động phi nông nghiệp của nông dân trong khu vực nông thôn lúc nông nhàn sẽ giảm 
dần bởi sự chuyển dịch lao động (De Brauw, Rozelle, Zhang, Huang, & Zhang, 2002). 
Người di cư gửi tiền về góp phần đáng kể trong việc cải thiện năng suất lao động của 
nông hộ có lao động di cư (Alan	De	Brauw	&	Scott	Rozelle,	2008), cũng như nâng 
cao đời sống của những nông hộ này (Deininger, Jin, & Rozelle, 2003) v.v.. 
Có rất nhiều nghiên cứu về vấn đề di dân nhưng mới chỉ dừng lại ở mức đưa ra các 
lí do về tình trạng di dân nông thôn hoặc lí giải việc di dân nông thôn sẽ đem lại cuộc 
sống tốt đẹp hơn cho nông hộ có lao động di cư bởi lao động di cư thường xuất thân từ 
gia đình nghèo, gặp khó khăn về nguồn lực (Mariapia	Mendola,	2008).	Tuy	nhiên,	
khi	tình	trạng	di	dân	diễn	ra	nhiều	thì	sự	phát	triển	bền	vững	của	các	địa	phương	
có	lao	động	di	cư	sẽ	như	thế	nào?	Và	đời	sống	của	nông	hộ	có	lao	động	di	cư	và	
nông	hộ	không	có	lao	động	di	cư	có	khác	biệt	nhiều	không	thì	lại	chưa	được	nhiều	
nhà	khoa	học	chú	ý,	đặc	biệt	là	ở	VN	nói	chung	và	khu	vực	Bắc	Trung	Bộ	nói	riêng.	
Chính	vì	vậy,	bài	viết	này	phân	 tích	 thực	 trạng	 thu	nhập	của	các	nông	hộ	có	 lao	
động	di	cư	và	so	sánh	sự	khác	biệt	giữa	hộ	có	lao	động	di	cư	và	hộ	không	có	lao	
động	di	 cư	về tình trạng nghèo đói và sở hữu tài sản ở một số tỉnh Bắc Trung Bộ. 
Nghiên cứu cũng tập trung làm rõ thu nhập từ người thân di cư gửi về đóng góp bao 
nhiêu phần trăm trong tổng thu nhập của nông hộ, từ đó đề xuất một số khuyến nghị để 
giải quyết tình trạng di cư từ nông thôn đến thành thị tìm việc làm ở Bắc Trung Bộ 
trong giai đoạn tới. 
100 | Nguyễn Hoài Nam | 98 - 113  
2. CƠ SỞ LÍ THUYẾT 
2.1. Khái niệm về di dân 
 Di dân là một thuật ngữ mô tả quá trình di chuyển dân số hoặc là quá trình con 
người rời bỏ hoặc hội nhập vào một đơn vị hành chính - địa lí nhất định. 
Nhìn chung, khái niệm này thường được các nhà nghiên cứu định nghĩa không 
giống nhau. Theo Lee (1966) di dân là sự thay đổi cố định nơi cư trú. Mangalam & 
Morgan (1968) cho rằng di dân là sự di chuyển vĩnh viễn tương đối của người di cư ra 
khỏi cộng đồng đang sống từ một đơn vị địa lí khác. 
Mặt khác, Paul Shaw định nghĩa di dân là hiện tượng di chuyển khỏi tập thể từ địa 
điểm này đến địa điểm khác, trên cơ sở quyết định của người di cư, dựa vào một loạt 
giá trị trong hệ thống các mối quan hệ qua lại của người di cư. 
Đối với VN, di dân được định nghĩa là sự di chuyển của con người từ nơi này đến 
nơi khác đó là chuyển đến một huyện khác, thành phố khác, một tỉnh khác hay một 
nước khác trong khoảng thời gian nhất định. 
2.2. Khái quát thu nhập của nông hộ 
Cuộc sống của đa số người nông dân, đặc biệt các hộ thuần nông và các vùng sản 
xuất gặp nhiều khó khăn, thu nhập thấp. Tình trạng nghèo, đói, cơ sở phúc lợi yếu 
kém, đời sống văn hóa tinh thần thiếu so với thành thị. Sản xuất nông nghiệp chi phí 
cao và nhiều rủi ro Chênh lệch thu nhập và mức sống đã tạo nên lực đẩy chủ yếu 
tạo dòng người di cư vào thành thị. Theo Harris – Todaro, vấn đề di cư nông thôn ra 
thành thị xét về cường độ và quy mô, được khảo sát bằng hàm số về mức độ di cư 
(Mt). 
 Mt = F (Wu-Wr). Wu: Mức lương kì vọng ở thành thị 
Wr: Mức thu nhập ở nông thôn 
 Wu-Wr: Chênh lệch thu nhập thành thị so với nông thôn 
Nhiều tài liệu điều tra về thu nhập ở VN cho thấy mức thu nhập và đời sống ở thành 
phố cao hơn nhiều lần so với nông thôn. Thành phố và các khu công nghiệp còn mang 
lại nhiều cơ hội việc làm và có mức thu nhập cao; tuy nhiên, lao động di cư vào thành 
phố kiếm được việc làm và hòa nhập vào nền kinh tế đô thị hoàn toàn không dễ dàng. 
Nhưng do kì vọng sẽ tìm kiếm được việc làm và thu nhập tốt hơn, nên người lao động 
di cư từ nông thôn vẫn sẵn sàng chấp nhận rủi ro và thách thức, bởi không có lựa chọn 
Phát triển Kinh tế 284 (06/2014)| 101 
nào khác. Mỗi khi chênh lệch thu nhập và cuộc sống giữa thành thị và nông thôn còn 
có khoảng cách. 
2.3. Tác động của di dân 
 Việc dịch chuyển dân cư và sự điều chỉnh lực lượng lao động đóng góp đáng kể 
vào sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của VN. Di cư đóng góp vào sự phát triển kinh 
tế thông qua: 
- Dòng người di cư đã bổ sung lực lượng lao động đáng kể trong các lĩnh vực kinh 
tế ở thành thị, giúp các nhà tuyển dụng tiếp cận nguồn lao động một cách có hiệu quả, 
nhưng giá thấp bởi vì sự cung cấp lao động cần phải duy trì mức lương cạnh tranh cho 
các nhà tuyển dụng. 
- Di cư trong nước giúp giảm nghèo đói cụ thể là: Tăng khả năng kiếm tiền đáng kể 
so với thu nhập của người không di cư tại nông thôn; có ảnh hưởng tích cực với kinh tế 
địa phương tại những nơi đến vì các khoản chi tiêu của người di cư; gửi tiền về quê 
hương để đầu tư cho các hoạt động tăng thu nhập, đầu tư kinh doanh, trả nợ, chi trả 
tiền chữa bệnh, tiền tiêu dùng của gia đình, tiếp cận các kĩ năng làm việc và hiểu biết 
thông tin về thị trường, nắm bắt khả năng kĩ thuật về áp dụng tại quê hương. 
- Dòng di cư này góp phần giảm gánh nặng ngân sách nhà nước dành cho các dịch 
vụ tại những nơi họ rời đi, trong khi đến nơi sinh sống họ lại ít được chính quyền hỗ 
trợ. 
3. KHUNG NGHIÊN CỨU 
Đối với hộ gia đình nông dân, trước sức ép từ sự biến đổi xã hội, để tồn tại, nông 
dân không chỉ thực hiện các hoạt động nông nghiệp mà còn phải tiến hành các hoạt 
động kinh tế phi nông nghiệp (Davis-Brown, K., & Salamon, S. 1987). Thực tế chứng 
minh các hoạt động phi nông nghiệp được nông dân các nước có nền kinh tế chuyển 
đổi đóng góp từ 20-70% thu nhập của nông hộ (Adams, 2001; Benjamin, 1992; De 
Brauw & cộng sự., 2002; De Brauw & Rozelle, 2008; Wang, Herzfeld, & Glauben, 
2007; Yu & Zhao, 2009). Ngoài các khoản tiền thu được từ tham gia vào thị trường lao 
động, người dân nói chung, nông dân nói riêng còn được thu nhập từ các khoản cho 
thuê tài sản, các khoản trợ cấp của Chính phủ và hỗ trợ từ gia đình, người thân 
(Christina Pantazis, 2006). Từ những quan điểm trên tác giả cho rằng thu nhập của 
người dân nói chung, người nông dân nói riêng được hình thành trên hai nguồn cơ bản: 
nội sinh và ngoại sinh. Thu nhập của hộ gia đình được tính dựa trên toàn bộ thu nhập 
mà các thành viên trong gia đình đó đóng góp. 
102 | Nguyễn Hoài Nam | 98 - 113  
Nguồn nội sinh trong thu nhập cho hộ gia đình được tạo ra từ việc các thành viên trong gia 
đình trực tiếp tham gia vào thị trường lao động. Đối với hộ nông dân, nguồn nội sinh được hình 
thành từ các khoản: (i) Thu từ hoạt động nông nghiệp; và (ii) Các khoản thu từ hoạt động phi 
nông nghiệp mà các thành viên trong gia đình thực hiện trên địa bàn. 
Nguồn ngoại sinh trong thu nhập của nông hộ được hình thành từ các khoản hỗ trợ từ 
bên ngoài. Đối với hộ nông dân, nguồn ngoại sinh bao gồm: (i) Các khoản thu từ trợ giúp 
trực tiếp bằng tiền của Chính phủ; và (ii) Các khoản hỗ trợ từ người di cư gửi về. 
Các khoản thu từ vay ngân hàng, bạn bè hay thậm chí từ việc bán tài sản đều 
không được tính vào thu nhập của hộ nông dân bởi những khoản thu này được huy 
động từ vay mượn và gia đình sẽ phải tích góp để trả nợ, hoặc từ bán tài sản, cái mà gia 
đình đã tích góp được. Nghiên cứu này không cho rằng thu từ bảo hiểm là một trong 
những nguồn hình thành thu nhập của nông hộ bởi muốn nhận được khoản tiền này thì 
đối tượng thụ hưởng phải tham gia đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội tối thiểu 20- 25 
năm. Tuy nhiên, sự tham gia đóng góp của người nông dân VN hiện nay vào hệ thống 
bảo hiểm còn rất hạn chế, số người có khả năng thu nhập từ bảo hiểm vì vậy không 
nhiều. Thu nhập của hộ nông dân do đó được tính toán trong nghiên cứu này như sau: 
Yse = f(Iagr , Ip-agr , Is-agr , Bgov, Sf), trong đó: 
Yse : Thu nhập thực tế của hộ gia đình. 
Iagr : Thu từ hoạt động nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi và các hoạt động nông 
nghiệp khác) sau khi trừ các chi phí sản xuất nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, chi 
phí nông nghiệp khác). 
Is-agr : Thu từ hoạt động dịch vụ sau khi trừ các chi phí sản xuất, phí đầu vào dịch vụ 
của nông dân lúc nông nhàn. 
Ip-agr : Thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh sau khi trừ các chi phí sản xuất phi 
kinh doanh của nông dân lúc nông nhàn. 
Bgov: Hỗ trợ trực tiếp của Chính phủ cho các gia đình nông dân thuộc diện nghèo và 
cận nghèo (tiền điện hàng tháng, bảo hiểm y tế, học phí cho con em hộ nghèo đi học, 
hỗ trợ gạo, v.v..) 
Sf: Số tiền mà người di cư gửi về hỗ trợ người thân đang sống ở quê nhà. 
Phát triển Kinh tế 284 (06/2014)| 103 
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
4.1. Thiết kế phiếu điều tra 
Đối với tình trạng thu nhập của nông hộ nói chung, nông hộ có lao động di cư nói 
riêng, câu hỏi điều tra được xây dựng theo hướng nông hộ được điều tra sẽ tự điền thông 
tin về thu nhập của gia đình với các nguồn hình thành từ hoạt động nông nghiệp, hoạt 
động dịch vụ, hoạt động sản xuất, thu từ trợ giúp của Nhà nước, từ trợ giúp của người 
thân. 
Để đảm bảo tính chính xác cho quá trình điều tra, nghiên cứu sử dụng thang đo 
danh nghĩa (còn gọi là thang đo định danh hoặc thang đo phân loại) để thực hiện kiểm 
tra chéo giữa thu nhập thực tế của từng hộ với vị trí của hộ gia đình theo 5 nhóm phân 
vị: hộ giàu, hộ khá, hộ trung bình, hộ cận nghèo và hộ nghèo. 
Phiếu điều tra xác định số nhân khẩu của từng hộ gia đình, bởi nó không chỉ giúp 
nghiên cứu xem xét tình trạng lao động của từng hộ để biết xem tỉ lệ phụ thuộc của các hộ 
thuộc ở nhóm thu nhập khác nhau. Thêm vào đó, việc xác định số nhân khẩu của từng hộ 
còn là căn cứ để xác định thu nhập thực tế của từng thành viên trong các hộ được điều tra. 
4.2. Phương pháp phân tích 
Nghiên cứu sử dụng phương pháp thống kê mô tả để so sánh, phân tích tình hình 
thu nhập, tích lũy, tiêu dùng, sở hữu tài sản và nhận định của họ về việc thực thi các 
chính sách tác động đến thu nhập của những hộ gia đình nông dân nói chung, và những 
nông hộ có lao động di cư về kinh tế nói riêng. 
Đối với thu nhập của hộ nông dân, nghiên cứu tiến hành phân tích làm rõ sự chênh 
lệch trong đóng góp từ nguồn nội sinh và ngoại sinh vào tổng thu nhập của hộ nông 
dân; làm rõ đâu là nguồn thu nhập chính của hộ nông dân nói chung và hộ có lao động 
di cư trong giai đoạn hiện tại ở các địa bàn được điều tra. 
5. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM 
5.1. Thu nhập hàng năm của các hộ gia đình phân theo nguồn hình thành 
Thu nhập hàng năm của các hộ gia đình phân theo nguồn hình thành ở các tỉnh Bắc 
Trung Bộ, tác giả đã sử dụng phiếu điều tra 325 nông hộ chia theo nguồn thu từ các 
hoạt động (nông nghiệp, ngành nghề và dịch vụ, hoạt động sản xuất kinh doanh....) kết 
quả được trình bày ở Bảng 1. 
104 | Nguyễn Hoài Nam | 98 - 113  
Bảng 1. Thu nhập hàng năm của các hộ gia đình theo nguồn hình thành 
ở một số tỉnh Bắc Trung Bộ 
STT Chỉ tiêu Tổng số 
quan sát 
Thấp nhất 
(triệu 
đồng) 
Cao nhất 
(triệu 
đồng) 
Trung 
bình (triệu 
đồng) 
 Tổng thu nhập của một nông hộ 325 1,20 141,00 42,05 
1 Thu từ nông nghiệp của nông hộ 325 0,00 70,00 11,54 
 Trong đó - Thu từ trồng trọt 325 0,00 40,00 5,93 
 - Thu từ chăn nuôi 325 0,00 30,00 5,60 
2 
Thu từ hoạt động ngành nghề và dịch 
vụ của nông hộ lúc nông nhàn 325 0,00 42,00 8,76 
3 
Thu hoạt động sản xuất kinh doanh 
khác của nông hộ lúc nông nhàn 325 0,00 84,40 21,76 
4 
Tiền của thành viên trong gia đình 
gửi về của nông hộ 325 0,00 25,00 1,97 
5 
Tiền từ trợ cấp của Nhà nước của 
nông hộ 325 0,00 21,60 0,64 
Nguồn: Số liệu điều tra năm 2011 
Bảng 1 cho thấy nguồn thu từ ngoại sinh cao nhất cũng chưa tới 1/3 tổng thu nhập 
của gia đình (ở mức cao nhất từ nguồn ngoại sinh là 46,6 triệu đồng/nông hộ/năm so 
với tổng thu nhập là 141 triệu đồng/nông hộ/năm). Trong nguồn ngoại sinh thì hỗ trợ 
từ Nhà nước cho các hộ gia đình khó khăn cũng chỉ ở mức nhất định, chiếm một phần 
nhỏ trong tổng nguồn thu từ ngoại sinh, một tỉ lệ rất nhỏ trong tổng nguồn thu của hộ 
gia đình. Nguồn thu từ nội sinh vẫn là nguồn đảm bảo thu nhập vững chắc cho các gia 
đình. Trong nguồn nội sinh, mặc dù nông nghiệp là hoạt động chính đối với nông hộ, 
nhưng tổng số tiền mà nông hộ có được từ hoạt động nông nghiệp lại thấp hơn so tổng 
số tiền mà họ kiếm được từ hoạt động phi nông nghiệp ở cả 3 tỉnh thành được điều tra 
tại khu vực Bắc Trung Bộ. 
Phát triển Kinh tế 284 (06/2014)| 105 
5.2. Sự khác nhau về thu nhập giữa hộ có lao động di cư và hộ không có lao 
động di cư (theo nguồn hình thành thu nhập) 
Để thấy được sự khác nhau về nguồn hình thành thu nhập giữa nông hộ có lao động 
di cư và nông hộ không có lao động di cư, tác giả đã tiến hành khảo sát 325 nông hộ 
với 2 nhóm (hộ có lao động di cư và hộ không có lao động di cư) với kết quả ở Bảng 2. 
Bảng 2. Nguồn thu hình thành thu nhập của hộ gia đình 
 ĐVT: Triệu đồng 
STT Chỉ tiêu 
Có lao động di cư Không có lao động 
di cư 
Cao nhất Trung 
bình 
Cao nhất Trung 
bình 
 Tổng thu nhập của một nông hộ 141,00 51,70 126,70 39,67 
1 
Thu từ nông nghiệp của nông hộ 70,00 12,65 35,60 10,36 
Trong đó - Thu từ trồng trọt 
 - Thu từ chăn nuôi 
40,00 6,46 19,90 5,50 
30,00 6,20 17,00 4,86 
2 
Thu từ hoạt động ngành nghề và 
dịch vụ của nông hộ lúc nông nhàn 25,70 9,97 42,00 7,93 
3 
Thu hoạt động sản xuất kinh doanh 
khác của nông hộ lúc nông nhàn 65,80 24,01 84,40 20,16 
4 
Tiền của thành viên trong gia đình 
gửi về của nông hộ 25,00 4,36 0,00 0,00 
5 
Tiền từ trợ cấp của Nhà nước của 
nông hộ 21,60 0,71 5,50 0,74 
Nguồn: Số liệu điều tra năm 2011 
Bảng 2 cho thấy các nguồn hình thành thu nhập của các hộ gia đình có lao động di 
cư và các hộ gia đình không có lao động di cư ở 3 tỉnh thành thì thu nhập ở các hộ gia 
đình có lao động di cư thường cao hơn so với thu nhập ở các hộ gia đình không có lao 
động di cư: (ở nông hộ có lao động di cư mức thu nhập cao nhất và mức trung bình lần 
lượt là 141 triệu đồng/nông hộ/năm và 51,7 triệu đồng/ nông hộ/năm; tương ứng ở 
nông hộ không có lao động di cư là 126,7 triệu đồng/nông hộ/năm và 29,67 triệu 
đồng/nông hộ/năm). Trong các khoản hình thành thu nhập từ nông nghiệp của nông hộ, 
106 | Nguyễn Hoài Nam | 98 - 113  
nguồn thu từ trồng trọt cao hơn chăn nuôi; còn đối với các khoản hình thành thu nhập 
ngoài nông nghiệp, hoạt động sản xuất kinh doanh nhiều đem lại thu nhập cao hơn so 
với hoạt động ngành nghề và dịch vụ đối với nông hộ. Khoản thu hoạt động sản xuất 
kinh doanh khác của nông hộ lúc nông nhàn (là khoản thu của các nông hộ trong thời 
gian không tham gia sản xuất nông nghiệp và hoạt động dịch vụ. Ví dụ: lúc nông nhàn 
không phải mùa vụ sản xuất nông nghiệp, lao động nông thôn có thể đi bán kem, thu 
mua sắt vụn v.v.. Đây là khoản thu nhập cao nhất (84,4 triệu đồng/nông hộ/năm) của 
hộ không có lao động di cư và đối với hộ có lao động di cư khoản này chỉ đứng sau 
khoản thu từ hoạt động nông nghiệp (65,80 triệu đồng/nông hộ/năm). 
5.3. Nguồn hình thành thu nhập của các nông hộ có lao động di cư theo nhóm 
thu nhập 
Khi xét về nguồn hình thành thu nhập của các nông hộ có lao động di cư theo 4 
nhóm thu nhập (hộ khá, hộ trung bình, hộ cận nghèo và hộ nghèo). Kết quả điều tra 
cho thấy khoảng cách tổng thu nhập giữa các nhóm nông hộ này khá cao (141 triệu 
đồng/nông hộ/năm, mức cao nhất cử nhóm nông hộ khá so với mức thấp nhất 26,1 
triệu đồng/nông hộ/năm, mức thấp nhất của nhóm nông hộ nghèo) Bảng 3. 
Bảng 3. Thu nhập hàng năm của nông hộ có lao động di cư 
ĐVT: triệu đồng 
STT Chỉ tiêu 
Hộ khá Hộ trung 
bình 
Hộ cận 
nghèo 
Hộ nghèo 
TB 
Cao 
nhất TB 
Cao 
nhất TB 
Cao 
nhất TB 
Cao 
nhất 
 Tổng thu nhập của một nông hộ 72,1 141 50,6 100,0 44,6 77,3 26,1 48,1 
1 
Thu từ nông nghiệp của nông hộ 14,0 70,0 13,1 50,0 11,3 15,5 10,4 17,0 
Trong đó - Thu từ trồng trọt 7,6 40,0 6,3 28,0 6,5 10,7 5,1 8,7 
 - Thu từ chăn nuôi 6,4 30,0 6,7 22,0 4,9 9,8 5,3 10,5 
2 
Thu từ hoạt động ngành nghề 
và dịch vụ của nông hộ lúc 
nông nhàn 
15,4 25,7 10,2 21,7 8,7 17,8 2,4 6,6 
3 
Thu hoạt động sản xuất kinh 
doanh khác của nông hộ lúc 
nông nhàn 
38,7 65,8 23,6 50,0 17,8 34,5 7,4 14,5 
Phát triển Kinh tế 284 (06/2014)| 107 
4 
Tiền của thành viên trong gia 
đình gửi về của nông hộ 4,0 19,8 3,7 25,0 6,6 11,0 5,2 15,0 
5 
Tiền từ trợ cấp của Nhà nước 
của nông hộ 0,0 0,0 0,0 0,0 0,2 3,5 0,7 10,8 
Nguồn: Số liệu điều tra năm 2011 
Bảng 3 cho thấy có một vài hộ từ trung bình trở lên không có thu nhập từ hoạt động 
nông nghiệp, còn lại các hộ ở dưới mức thu nhập trung bình đều có một khoản thu tối 
thiểu từ hoạt động nông nghiệp cả năm. Các hộ nghèo có lao động di cư thì khả năng 
kiếm tiền từ hoạt động nông nghiệp là thấp nhất, thậm chí chỉ khoảng 50% so với hộ cận 
nghèo. Theo kết quả điều tra, rất khó kết luận là lao động di cư của gia đình có điều kiện 
kinh tế tốt hơn sẽ gửi tiền về nhiều hơn so với gia đình có điều kiện kinh tế kém hơn và 
ngược lại. Nói cách khác, đối với nguồn ngoại sinh, kết quả điều tra phát hiện nguồn tiền 
từ thành viên của gia đình gửi về cao hay thấp không phụ thuộc và tình trạng kinh tế hiện 
tại của hộ, mà do khả năng của lao động cũng như tích trữ của thành viên di cư gửi về. 
Tuy nhiên, có điểm chung là có thể lao động di cư không tích lũy được để gửi về cho gia 
đình ở các nhóm hộ được điều tra. Ngược lại, đối với khoản tiền mà nông hộ nhận được 
từ trợ giúp từ Chính phủ, hộ càng nghèo thì khả năng nhận được trợ giúp bằng tiền của 
Chính phủ càng tăng. 
5.4. Sự khác biệt về thu nhập giữa hộ có lao động di cư và hộ không có lao 
động di cư ở một số tỉnh Bắc Trung Bộ (theo nguồn hình thành thu nhập) 
Khi xét về nguồn hình thành thu nhập của các hộ gia đình có người di cư và các hộ 
gia đình không có lao động di cư ở 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh kết quả 
điều tra được thể hiện ở Bảng 4. 
Bảng 4. Nguồn thu hình thành thu nhập bình quân của HGĐ 
ĐVT: triệu đồng 
Hộ có lao động di cư 
 Chỉ tiêu Hà Tĩnh Nghệ An Thanh Hóa 
 Tổng thu nhập của một nông hộ 100% 76,8 100% 51,4 100% 45,3 
1 Thu từ nông nghiệp của nông hộ 15,4% 11,8 25,3% 13,0 23,2% 10,5 
Trong đó - Thu từ trồng trọt 8,1% 6,2 12,6% 6,5 13,9% 6,3 
 - Thu từ chăn nuôi 7,3% 5,6 12,6% 6,5 9,3% 4,2 
108 | Nguyễn Hoài Nam | 98 - 113  
2 Thu từ hoạt động ngành nghề và dịch 
vụ của nông hộ lúc nông nhàn 15,5% 11,9 20,2% 10,4 14,3% 6,5 
3 Thu hoạt động sản xuất kinh doanh 
khác của nông hộ lúc nông nhàn 55,2% 42,4 46,5% 23,9 41,1% 18,6 
4 Tiền của thành viên trong gia đình 
gửi về của nông hộ 13,8% 10,6 6,8% 3,5 19,0% 8,6 
5 Tiền từ trợ cấp của Nhà nước của 
nông hộ 0,0% 0,0% 1,4% 0,7 2,2% 1,0 
Hộ không có lao động di cư 
 Chỉ tiêu Hà Tĩnh Thanh Hóa Nghệ An 
 Tổng thu nhập của một nông hộ 100% 41,1 100% 42,2 100% 36,6 
1 Thu từ nông nghiệp của nông hộ 27,5% 11,3 29,6% 12,5 26,5% 9,7 
 Trong đó - Thu từ trồng trọt 14,6% 6,0 14,2% 6,0 14,2% 5,2 
 - Thu từ chăn nuôi 12,9% 5,3 15,4% 6,5 12,3% 4,5 
2 Thu từ hoạt động ngành nghề và dịch 
vụ của nông hộ lúc nông nhàn 20,4% 8,4 19,9% 8,4 20,8% 7,6 
3 Thu hoạt động sản xuất kinh doanh 
khác của nông hộ lúc nông nhàn 52,1% 21,4 50,5% 21,3 52,7% 19,3 
4 Tiền của thành viên trong gia đình 
gửi về của nông hộ 0,0% 0,0 0,0% 0,0 0,0% 0,0 
5 Tiền từ trợ cấp của Nhà nước của 
nông hộ 2,7% 1,1 3,1% 1,3 3,8% 1,4 
Nguồn: Số liệu điều tra năm 2011 
Bảng 4 cho thấy Nghệ An là tỉnh có thu nhập bình quân của hộ gia đình có lao động 
di cư phụ thuộc vào nông nghiệp là nhiều nhất (25,3%), Hà Tĩnh là tỉnh mà thu nhập 
bình quân của các hộ gia đình có lao động di cư phụ thuộc vào phần lớn vào hoạt động 
sản xuất kinh doanh (55,2%). Nhìn chung, đối với nguồn ngoại sinh, các hộ có lao 
động di cư thì nguồn ngoại sinh thường cao hơn so với các nông hộ không có lao động 
di cư. Hà Tĩnh là tỉnh có mức tỉ lệ đóng góp của nguồn ngoại sinh vào tổng thu nhập 
của nông hộ là cao nhất theo kết quả điều tra (10,6 triệu đồng/nông hộ/năm), trong khi 
Phát triển Kinh tế 284 (06/2014)| 109 
đó con số này ở Nghệ An và Thanh Hóa lần lượt là 4,2 triệu đồng/nông hộ/năm và 9,6 
triệu đồng/nông hộ/năm. 
Các hộ gia đình có lao động di cư có thu nhập cao hơn các hộ gia đình không có lao 
động di cư trên cùng địa bàn nghiên cứu. Điều này được lí giải một phần là do các gia 
đình có lao động di cư, bình quân mỗi năm nhận được khoảng tối thiểu 5 triệu đồng từ 
người thân đi làm xa nhà gửi về. Khoản tiền này chiếm khoảng 12% thu nhập bình 
quân hàng năm của nông hộ. Trong khi đó, với các gia đình không có người lao động 
di cư, họ chỉ nhận được tiền dưới các hình thức hỗ trợ thăm hỏi của người thân ở xa về 
thăm quê. 
5.5. Thu nhập thực tế bình quân 1 người dân ở hộ có lao động di cư 
Để đánh giá chính xác mức sống của nông hộ có lao động di cư ở ba tỉnh có khác nhau 
hay không ta cần sử dụng một số chỉ tiêu tổng hợp (thu nhập thực tế bình quân một người 
dân, thu nhập bình quân hộ gia đình, số lao động trung bình một gia đình, tình trạng nhân 
khẩu trung bình). Kết quả điều tra được thể hiện ở Hình 1. 
 Hình 1. Thu nhập và nhân khẩu hộ có lao động di cư thực tế bình quân 
ở 3 tỉnh điều tra 
Nguồn: Số liệu điều tra năm 2011 
Các hộ gia đình ở các tỉnh khác nhau có nhân khẩu và số lao động là không đồng 
nhất; chính vì thế, khi xét riêng thu nhập của từng thành viên trong các hộ gia đình ở 
các tỉnh qua phiếu điều tra tác giả nhận thấy: Mặc dù Hà Tĩnh là tỉnh mà thu nhập thực 
tế bình quân của hộ gia đình là cao nhất, nhưng do số nhân khẩu của những hộ gia đình 
110 | Nguyễn Hoài Nam | 98 - 113  
điều tra ở Hà Tĩnh lại tương đối lớn, đứng thứ 1 trong 3 tỉnh điều tra. Thu nhập thực tế 
bình quân đầu người của Hà Tĩnh, do vậy, chỉ đứng thứ 2 (9,92 triệu đồng/nhân 
khẩu/năm). Trong khi đó ở Nghệ An, mặc dù thu nhập thực tế của hộ gia đình đứng 
sau Hà Tĩnh; tuy nhiên, tình trạng nhân khẩu trong mỗi hộ gia đình của Nghệ An lại 
không cao, đứng trên Thanh Hóa. Thu nhập thực tế bình quân đầu người của Nghệ An, 
do đó, đứng ở vị trí hàng đầu (10,65 triệu đồng/nhân khẩu/năm). Còn ở Thanh Hóa, dù 
nhân khẩu trung bình của một hộ thấp nhưng do thu nhập thực tế bình quân của hộ gia 
đình lại là thấp, do đó thu nhập thực tế bình quân đầu người ở Thanh Hóa là thấp nhất 
(9,82 triệu đồng/nhân khẩu/năm). 
6. GỢI Ý CHÍNH SÁCH VÀ CÁC GIẢI PHÁP 
Nhìn chung, nông hộ có lao động di cư đạt thu nhập cao hơn so với các nông hộ không có 
lao động di cư. Điều này là do các nông hộ có lao động di cư nhận nguồn thu từ hoạt động 
nông nghiệp và nguồn thu ngoại sinh đều cao hơn so với các nông hộ không có lao động di 
cư. Vì vậy, tỉ lệ nông hộ bị rơi vào tình trạng nghèo và cận nghèo của các nông hộ có lao 
động di cư ít hơn so với tình trạng của các nông hộ không có lao động di cư khi xét về tỉ lệ 
theo mẫu điều tra. 
Tuy nhiên, tình trạng di cư ngày càng tăng của lao động trẻ, lao động trụ cột trong gia 
đình đã và đang gây ra những vấn đề có ảnh hưởng xấu đến sự phát triển bền vững trong 
khu vực nông thôn. Đó là tình trạng lao động trụ cột ở lại không chỉ phải chịu áp lực về tổ 
chức quản lí các hoạt động kinh tế của gia đình mà còn phải thực hiện tất cả các trách 
nhiệm về nuôi dưỡng trẻ nhỏ cũng như chăm sóc bố mẹ già. Thậm chí, khi mà cả cha và 
mẹ di cư tìm việc làm thì trách nhiệm nuôi dưỡng con cái được chuyển sang cho ông (bà). 
Điều này không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển trong tâm lí của trẻ em trong các gia đình 
có lao động di cư (việc sống xa cha, mẹ hoặc chỉ được sự nuôi dưỡng của ông bà dễ làm 
trẻ em dính vào các tệ nạn xã hội), mà còn ảnh hưởng đến cấu trúc về cơ cấu dân số, đặc 
biệt là sự phát triển bền vững của thị trường lao động khu vực nông thôn (việc thiếu hụt lao 
động sẽ là một rào cản lớn đối với chính quyền địa phương trong việc kêu gọi, mời chào 
các doanh nghiệp và đầu tư). Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra một số gợi ý chính sách và 
giải pháp để góp phần phát triển kinh tế xã hội địa phương cũng như giảm thiếu tác động 
tiêu cực của hiện tượng di dân ở khu vực Bắc Trung Bộ trong thời gian tới. 
6.1. Gợi ý chính sách 
Trong giai đoạn hiện tại, để giảm thiểu những tác động tiêu cực từ tình trạng di cư 
nông thôn ra thành thị, tác giả cho rằng chính quyền trung ương, địa phương các tỉnh 
Phát triển Kinh tế 284 (06/2014)| 111 
Bắc Trung Bộ cần tiếp tục phát triển hệ thống hạ tầng xã hội như nâng cao chất lượng 
của hệ thống cơ sở nuôi dạy trẻ trong khu vực nông thôn. Sự phát triển của hệ thống 
này một mặt giúp cho các gia đình có người di cư yên tâm hơn về khả năng dính líu 
đến các tệ nạn xã hội của con cái họ, mặt khác đây cũng là cơ sở bồi dưỡng nguồn 
nhân lực chất lượng cao trong khu vực nông thôn trong giai đoạn tới. Thêm vào đó, các 
hoạt động nhằm nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho những đối tượng còn lại ở 
khu vực nông thôn cũng nên được quan tâm nhiều hơn nữa. Các hoạt động này nên 
được triển khai bởi các tổ chức xã hội ở địa phương như hội phụ nữ, hội người cao 
tuổi, v.v.. 
6.2. Giải pháp 
Thứ nhất, ưu tiên đầu tư hạ tầng kĩ thuật và xã hội trong khu vực nông thôn. 
Sự phát triển của hệ thống hạ tầng cơ sở này là điều kiện tiên quyết trong việc thực 
hiện nhanh quá trình đô thị hóa nông thôn. Các điều kiện về giao thông, điện, nước 
được phát triển giúp cho địa phương thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư, và 
đó chính là cơ hội để khu vực nông thôn thúc đẩy sự phát triển của các khu công 
nghiệp, cụm công nghiệp liên quan đến việc sản xuất, chế biến các mặt hàng nông thủy 
sản với khả năng tạo việc làm cho nhiều lao động. Khi mà các cụm công nghiệp, các 
khu công nghiệp trong khu vực nông thôn được hình thành thì các lao động có trình độ 
kĩ thuật thay vì phải ra thành phố tìm việc có thể đến làm việc tại những doanh nghiệp 
ở những khu này. Nói một cách khác, với sự đầu tư phát triển hạ tầng kĩ thuật trong 
khu vực nông thôn, tình trạng di cư giữa các tỉnh sẽ giảm và thay vào đó là tình trạng 
di cư “tại chỗ”, cái mà không ảnh hưởng xấu đến biến đổi cơ cấu dân số, ảnh hưởng 
đến các mối quan hệ trong gia đình cũng như duy trì nguồn nhân lực cho sự phát triển 
bền vững của địa phương trong dài hạn. 
Thứ hai, bồi dưỡng, nâng cao năng lực và trình độ của đội ngũ các nhà quản lí làm 
việc ở khu vực nông thôn. 
Việc bổ sung, cập nhật và nâng cao kiến thức, nhận thức cho nhóm đối tượng này 
không chỉ giúp khu vực nông thôn có được những biện pháp nhằm thu hút nguồn lực 
bên ngoài đầu tư vào địa phương, hạn chế được tình trạng chảy máu chất xám ở khu 
vực này, từ đó có được những cơ hội để phát triển kinh tế xã hội địa phương một cách 
bền vững. 
Thứ ba, giải quyết tốt các vấn đề bức xúc nảy sinh, nâng cao đời sống văn hóa tinh 
thần ở nông thôn. 
112 | Nguyễn Hoài Nam | 98 - 113  
Nhìn chung, đánh giá của cán bộ và nông dân có sự khác nhau, cán bộ thường đánh 
giá cao hơn nông dân ở mọi chỉ tiêu, nhưng tác động của di dân nông thôn ra thành thị 
đến sự phát triển kinh tế xã hội nông thôn chưa mạnh, mới ở mức độ trung bình, trong 
đó những vấn đề xã hội bức xúc nhất trong nông thôn như đảm bảo đời sống cho người 
già, chăm sóc y tế cho người dân, đời sống vật chất và điều kiện lao động của nông dân 
là những vấn đề bức xúc nhất mà chính sách xã hội đối với khu vực nông thôn cần 
quan tâm giải quyết 
Tài liệu tham khảo 
Adams, Richard H (2001), Nonfarm Income, Inequality, and Poverty in Rural Egypt and Jordan, 
Policy Research Working Paper No. 2572, The World Bank. 
Benjamin, D. (1992), “Household Composition, Labor Markets, and Labor Demand: Testing for 
Separation in Agricultural Household Models”, Econometrica, 60(2), 287–322 
Davis-Brown. K., & Salamon, S. (1987), “Farm Families in Crisis: An Application of Stress Theory 
to Farm Family Research”, Family Relations, 36(4), 
De Brauw (2002), “Household Expenditure on Malaria Prevention and Treatment for Families in 
the Town of Bobo-Dioulasso, Burkina Faso”, Transactions of the Royal Society of Tropical 
Medicine and Hygiene, Volume 88, Issue 3, May–June 1994, Pages 285-287. 
De Brauw, A., & Rozelle, S. (2008), “Migration and Household Investment in Rural China”, China 
Economic Review, 19(2), 320–335. 
De Brauw, A., Huang, J., Rozelle, S., Zhang, L., & Zhang, Y. (2002), “The Evolution of China's 
Rural Labor Markets During the Reforms”, Journal of Comparative Economics, 30(2), 329–353. 
De Brauw. A & S Rozelle. S, (2008), “Migration and Household Investment in Rural China”, China 
Economic Review 19 (2008) 320–335. 
Deininger, Jin, & Rozelle (2003), “How Does Public Assistance Affect Family Expenditures? The 
Case of Urban China”, World Development, Vol. 38, No. 7, pp. 989–1000. 
Di Domenico. M, Miller. G (2012), “Farming and Tourism Enterprise: Experiential Authenticity in 
the Diversification of Independent Small-Scale Family Farming”, Tourism Management, 33 
(2012) 
Getzner. M, (2002), “The Quantitative and Qualitative Impacts of Clean Technologies on 
Employment”, Journal of Cleaner Production, Volume 10, Issue 4, Pages 305–319 
Harris. J.R, Todaro. M.P (1970), “Migration, Unemployment, and Development: A Two-Sector 
Analysis”, American Economic Review, 60 (1970, March), pp. 126–142 
Phát triển Kinh tế 284 (06/2014)| 113 
Kevin Honglin zang (2003), Development of Rural Industrial Estate: Directions and Issues, Korea 
Rural Economic Institute Report, Seoul. 
Knight & Song (1999), “Regional Difference in New Firm Formation and Policy for Promoting 
Rural Enterprises”, Institute for Human Settlement Planning Information Bulletin 154: 30-40. 
Lee (1966), Strategies for Rural Nonfarm Industries, Korea Rural Economic Institute Report, Seoul. 
Mai Ngọc Cường (2008), Cơ sở khoa học của việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở 
VN tới năm 2015, Đề tài cấp nhà nước KX 02.02/06-2010. 
Mangalam & Morgan (1968), “Family Expenditure Data, Heteroscedasticity and the Law of 
Demand”, Ricerche Economiche (1993) 47, 137-165. 
Mendola. M (2008), “Migration and Technological Change in Rura Households: Complements or 
Substitutes”, Journal of Development Economics, 85 (2008) 150–175. 
Nguyễn Hoài Nam (2012), “Việc làm cho lao động nông thôn VN trong thời kì hội nhập”, Tạp chí 
Nghiên cứu kinh tế, số 407, tháng 04/2012, trang 50-56. 
Pantazis, C. (2006), Poverty and Social Exclusion in Britain, The Policy Press. 
Phạm Ngọc Dũng (2009), Những vấn đề kinh tế, xã hội nảy sinh trong thực hiện công nghiệp hóa 
hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở VN hiện nay, Đề tài cấp Bộ, Học viện Chính trị - Hành 
chính quốc gia Hồ Chí Minh. 
Rozelle, Guo, Shen, Hughart, & Giles (1999), Evaluation of Off - Farm Income Policy and Its Long-
term Development Strategy in Korea, Korea Rural Economic Institute Report C 91-12. 
Stiglitz. J (1974) “Wage Determination and Unemployment in LDCs”, Quarterly Journal of 
Economics, 88 (1974), pp. 194–227. 
Todaro. M.P. (1969), “A Model of Labor Migration and Urban Unemployment in Less Developed 
Countries”, American Economic Review, 59 (1969, March), pp. 138–148. 
W.Corden, R.Rindlay (1975), “Urban Unemployment, Intersectoral Capital Mobility and 
Development Policy”, Economica, pp. 59–78. 
Wang, X., Herzfeld, T., & Glauben, T. (2007), “Labor Allocation in Transition: Evidence from 
Chinese Rural Households”, China Economic Review, 18(3), 287–308. 
Yu, X., & Zhao, G. (2009), “Chinese Agricultural Development in 30 Years: A Literature Review”, 
Frontiers of Economics in China, Vol.4(4), 633–648. 
Zarembka. P (1972), Toward a Theory of Economic Development, Holden-Day, San Francisco, CA 
(1972). 
 Zhao (1999) “Sahwoe Ganjupjabon ie Jiyuk Kyungje Sungjang ei Michin Hyokwa” (Impact of 
Infrastructure on Regional Economic Growth), Journal of Korean Economic Studies 9: 3-25. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
tac_dong_di_dan_doi_voi_thu_nhap_cua_nong_ho_o_mot_so_tinh_b.pdf