Trong nghiên cứu hiện tại, mặc dù việc
làm sạch bề mặt lưỡi có tác dụng làm giảm hôi
miệng đối với bệnh nhân bị viêm nha chu. Tuy
nhiên, nhóm bệnh nhân này không để cải
thiện hoàn toàn tình trạng hôi miệng nếu
không điều trị nha chu. Kết quả từ nghiên cứu
của chúng tôi khác với một nghiên cứu trước
đây của Quirynen và cs, cho rằng điều trị nha
chu và chải lưỡi có tác dụng rất ít làm giảm
nồng độ của hỗn hợp khí VSCs trên những
bệnh nha bị viêm nha chu trung bình, trừ khi
phối hợp với nước súc miệng kháng khuẩn(12).
Sự khác biệt về kết quả giữa hai nghiên cứu có
thể do tiêu chí chọn mẫu khác nhau. Quirynen
đã chọn những bệnh nhân không tồn tại mảng
bám lưỡi tại thời điểm ban đầu, còn trong thử
nghiệm hiện tại, chúng tôi không đưa ra tiêu
chí này trong quá trình chọn mẫu.
Điều trị bệnh nha chu và làm sạch mảng bám
lưỡi, mục đích chính là loại bỏ và ngăn chặn sự
tăng sinh của vi khuẩn gây nên tình trạng hôi
miệng, lại phụ thuộc chủ yếu vào quá trình vệ
sinh răng miệng hàng ngày của bệnh nhân. Vì
vậy, cần nhấn mạnh về sự chăm sóc răng miệng
cá nhân để phòng ngừa và điều trị hôi miệng.
Kết quả của nghiên cứu này đã đưa ra phác đồ
điều trị hôi miệng thích hợp trên những nhóm
bệnh nhân có tình trạng nha chu khác nhau.
Ngoài ra, việc giáo dục về nguyên nhân gây hôi
miệng, cách làm giảm mảng bám cùng với lượng
vi khuẩn sinh khí VSCs trong miệng là thật sự
cần thiết trong việc phòng ngừa, và điều trị bệnh
nhân hôi miệng nói riêng và cộng đồng nói
chung
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 244 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động làm sạch bề mặt lưỡi trên bệnh nhân hôi miệng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 191
TÁC ĐỘNG LÀM SẠCH BỀ MẶT LƯỠI TRÊN BỆNH NHÂN HÔI MIỆNG
Phạm Anh Vũ Thụy*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá tác động của việc làm sạch bề mặt lưỡi lên tình trạng hôi miệng trên bệnh nhân có hay
không bị viêm nha chu.
Phương pháp: Nghiên cứu được thực hiện trên 109 bệnh nhân (58 bệnh nhân không bị viêm nha chu và 51
bệnh nhân bị viêm nha chu) được chẩn đoán hôi miệng bằng phương pháp ngửi mùi (organoleptic test - OT) và
dùng máy Oral Chroma. Tại thời điểm ban đầu, bệnh nhân được khám và đánh giá về tình trạng nha chu (chảy
máu nướu, túi nha chu và độ mất bám dính), và tình trạng vệ sinh răng miệng (mảng bám răng và mảng bám
lưỡi). Mức độ vi khuẩn trên bề mặt lưỡi được đánh giá bằng thuốc thử BANA. Tất cả bệnh nhân được hướng dẫn
và làm sạch bề mặt lưỡi trong 7 ngày. Riêng nhóm bị viêm nha chu, tiếp theo được điều trị nha chu không phẫu
thuật. Tình trạng hôi miệng và răng miệng được đánh giá lại sau mỗi thời điểm điều trị.
Kết quả: Tại thời điểm ban đầu, các chỉ số hôi miệng (OT, H2S và CH3SH) ở nhóm bệnh nhân bị viêm nha
chu cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm bệnh nhân không bị viêm nha chu. Sau khi làm sạch bề mặt lưỡi, ở
nhóm bệnh nhân không bị viêm nha chu, có sự giảm hôi miệng rõ rệt: OT từ 2.33 xuống 1,21, H2S từ 5,62 xuống
1,10 và CH3SH từ 3,00 xuống 0,41 (p<0,001). Ở nhóm bệnh nhân bị viêm nha chu, sau khi làm sạch lưỡi, mức độ
giảm hôi miệng ít hơn: OT từ 2,82 xuống 2,61, H2S từ 7,63 xuống 4,88 và CH3SH từ 8,92 xuống 5,99 (p<0.01).
Tình trạng hôi miệng được cải thiện đáng kể sau khi bệnh nhân tiếp tục điều trị viêm nha chu: OT từ 2,61 xuống
0,94, H2S từ 4,88 xuống 1,13 và CH3SH từ 5,99 xuống 0,27 (p<0,001).
Kết luận: Làm sạch bề mặt lưỡi cho thấy là biện pháp hữu hiệu nhất điều trị hôi miệng trên bệnh nhân
không bị viêm nha chu. Làm sạch bề mặt lưỡi cũng có tác động làm giảm hôi miệng trên bệnh nhân bị viêm nha
chu nhưng sự kết hợp với điều trị nha chu cho thấy có hiệu quả hơn.
Từ khóa: Hôi miệng, viêm nha chu, mảng bám lưỡi.
ABTRACT
THE EFFECT OF TONGUE CLEANING ON PATIENTS WITH ORAL MALODOR
Pham Anh Vu Thuy * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 2 - 2014: 191 - 197
Objective: To evaluate the effect of tongue cleaning on oral malodor in 2 patients groups: non-periodontitis
and periodontitis.
Methods: The study was performed on 109 subjects (58 non-periodontitis patients and 51 periodontitis
patients), who were diagnosed as oral malodor by Organoleptic Test/OT and Oral Chroma. At the baseline,
periodontal status (gingival bleeding on probing, gingival index, pocket depth, clinical attachment level) and oral
hygiene status (plaque index, tongue coating) were evaluated. The bacterial levels on tongue coating were
examined by BANA test. All subjects were instructed to clean their tongue using a small head tooth brush for
7days. Subjects in the periodontitis group were further provided non-surgical periodontal treatment.
Results: At the baseline, there were significantly higher values of OT, H2S and CH3SH in the periodontitis
group than those in the non-periodontitis group. After tongue cleaning, reductions were observed in OT (2.33 to
1.21), H2S (5.62 to 1.10) and CH3SH (3.00 to 0.41) in the non-periodontitis group (p<0.001). The degree of
* Bộ môn Nha chu-Khoa RHM, Đại học Y Dược TP. HCM
Tác giả liên lạc: TS. Phạm Anh Vũ Thụy ĐT: 0916810874 Email: pavthuy@hotmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 192
reductions in OT (2.82 to 2.61), H2S (7.63 to 4.88) and CH3SH (8.92 to 5.99) was smaller in the periodontitis
group (p<0.01). The periodontal treatment resulted in additional reduction in OT (2.61 to 0.94), H2S (4.88 to
1.13) and CH3SH (5.99 to 0.27) in the periodontitis group (p<0.001).
Conclusion: Tongue cleaning was indicated as the most effective approach to oral malodor treatment in non-
periodontitis patients. Tongue cleaning also impacted on oral malodor reduction but combination with periodontal
treatment was more effective on oral malodor in periodontitis patients.
Key words: Oral malodor, periodontitis, tongue coating
MỞ ĐẦU
Hôi miệng là tình trạng hơi thở có mùi hôi có
nguyên nhân từ miệng hay ngoài miệng. Nhiều
nghiên cứu cho thấy khoảng 80-90% tình trạng
hôi miệng xuất phát từ xoang miệng(2,7). Hôi
miệng chủ yếu gây ra bởi những hợp chất chứa
lưu huỳnh - Volatile Sulfur Compounds (VSCs)
mà thành phần cơ bản là hydrogen sulfide (H2S)
và metyl mecaptan (CH3SH), được tạo ra từ quá
trình phân hủy protein chứa methionine hoặc
cysteine do những vi khuẩn kỵ khí gram âm chủ
yếu là Porphyromonas gingivalis, Treponema
denticola và Tannerella forsythia. Có sự tương quan
dương tính giữa tình trạng hôi miệng và mức độ
trầm trọng của bệnh nha chu, do sự gia tăng các
vi khuẩn kể trên trong mảng bám dưới nướu đã
góp phần làm gia tăng nồng độ các hợp chất
chứa lưu huỳnh(13,17,19). Mảng bám lưỡi chủ yếu
tập trung vi khuẩn, một lượng lớn tế bào biểu
mô tróc vẩy từ niêm mạc miệng, leukocytes từ
túi nha chu và những sản phẩm chuyển hóa từ tế
bào máu cũng là một yếu tố quan trọng cho sự
tạo thành những hợp chất chứa lưu huỳnh trên
bệnh nhân có mô nha chu lành mạnh hay bị
bệnh nha chu (5,19). Bề mặt lưng lưỡi có cấu tạo
nhiều trũng, rãnh đã tạo môi trường thuận lợi
cho việc tích tụ mảng bám và vi khuẩn(1). Vì vậy,
làm sạch bề mặt lưng lưỡi và điều trị bệnh nha
chu được cho là sẽ cải thiện tình trạng hôi miệng
trên bệnh nhân có mô nha chu lành mạnh hay bị
viêm nha chu. Mục đích của nghiên cứu này là
đánh giá mức độ cải thiện tình trạng hôi miệng
bằng việc làm sạch bề mặt lưỡi trên bệnh nhân
có hay không có bệnh viêm nha chu và tác động
của việc điều trị nha chu lên tình trạng hôi
miệng ở bệnh nhân bị viêm nha chu.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thử nghiệm lâm sàng trên 117 bệnh nhân
tuổi từ 25 đến 60, được chẩn đoán hôi miệng và
đồng ý tham gia nghiên cứu tại Khoa Nha chu,
Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung Ương TP. Hồ
Chí Minh năm 2009. Tất cả bệnh nhân đã không
điều trị nha chu (cạo vôi, xử lý mặt gốc răng hay
phẫu thuật nha chu) và không được hướng dẫn
làm sạch bề mặt lưng lưỡi trong vòng 6 tháng
trước khi tham gia nghiên cứu. Bệnh nhân
không mắc các bệnh toàn thân như tiểu đường,
bệnh ung thư, các rối loạn chức năng về mũi
xoang, các bệnh liên quan đến đường tiêu hóa
Bệnh nhân mang thai hay đang cho con bú
không được tham gia nghiên cứu. Trong thời
gian thực hiện nghiên cứu, 8 bệnh nhân không
hoàn tất quá trình điều trị nên loại khỏi mẫu
nghiên cứu, vì vậy 109 bệnh nhân (51 nam, 58
nữ, tuổi trung bình là 42,1±8,6) là cỡ mẫu sau
cùng trong nghiên cứu này.
Đánh giá tình trạng hôi miệng
Tình trạng hôi miệng được đánh giá bằng
phương pháp ngửi mùi (organoleptic test – OT)
và sử dụng máy Oral chroma trước khi tiến hành
khám răng miệng. Bệnh nhân được yêu cầu:
không được sử dụng những thức ăn có nhiều
hành, tỏi trong vòng 48 giờ, không uống rượu,
bia, sử dụng nước súc miệng hay hút thuốc
trong vòng 12 giờ, không chải răng, chải lưỡi,
hay dùng các biện pháp vệ sinh răng miệng
trong vòng 2 giờ, không ăn hay uống trong vòng
2 giờ trước khi đánh giá tình trạng hôi miệng.
Ngoài ra bệnh nhân được yêu cầu không sử
dụng nước hoa hay các mỹ phẩm có mùi thơm
trong lúc đánh giá tình trạng hôi miệng.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 193
Để đánh giá tình trạng hôi miệng bằng
phương pháp ngửi mùi, bệnh nhân được yêu
cầu ngậm miệng và thở bằng mũi trong vòng 3
phút. Sau đó bệnh nhân thổi nhẹ qua ống giấy
đặt ở giữa một miếng chắn ngăn cách bệnh nhân
và người đánh giá. Người đánh giá theo phương
pháp này đã được tập huấn và định chuẩn với
các chuyên gia khác; và chỉ có một người đánh
giá cho tất cả bệnh nhân. Mức độ hôi của hơi thở
được đánh giá dựa theo thang đo của Rosenberg:
0, không có mùi; 1 nghi ngờ có mùi hôi, 2, có mùi
hôi nhẹ; 3 mùi hôi rõ rệt, 4 mùi hôi nặng; 5 mùi
hôi rất nặng(13). Bệnh nhân được chẩn đoán hôi
miệng nếu hơi thở được đánh giá từ mức độ 2
trở lên(8).
Nồng độ khí sulphile trong hơi thở bệnh
nhân được đo bằng máy Oral chroma. Nồng độ
ngưỡng gây hôi miệng được sử dụng trong
nghiên cứu này dựa theo nghiên cứu trước đây
của Tonzetich: H2S >1.5 ng/10mL và CH3SH > 0,5
ng/10mL(14).
Khám răng miệng
Tình trạng vệ sinh răng miệng và tình trạng
nha chu của các răng, ngoại trừ răng cối lớn thứ
ba được đánh giá bởi một bác sĩ cho tất cả bệnh
nhân. Tình trạng mảng bám răng và viêm nướu
được ghi nhân dựa theo tiêu chí của Lӧe H(3). Độ
sâu túi nha chu và mất bám dính lâm sàng được
đánh giá tại 6 vị trí của mỗi răng bằng cây thăm
dò Williams và ghi nhận giá trị cao nhất cho mỗi
răng. Các răng có độ sâu túi nha chu từ 5mm trở
lên đều cho thấy có sự mất xương trên phim tia
X. Chảy máu nướu được đánh giá trong vòng 30
giây sau khi thăm dò và ghi nhận có hay không
cho từng răng(16). Bệnh nhân được chẩn đoán là
viêm nha chu nếu có ít nhất 1 răng có độ sâu túi
từ 5mm trở lên và có sự mất xương xác định trên
trên phim tia X.
Bề mặt lưng lưỡi được chia thành 9 vùng
nhỏ. Mảng bám lưỡi của mỗi vùng được đánh
giá dựa vào chỉ số của Winkel và Gomez: 0,
không có mảng bám, 1, mảng bám mỏng và 2
mảng bám dày. Mảng bám lưỡi của mỗi bệnh
nhân được ghi nhận bằng cách cộng các giá trị
của 9 vùng(6,18).
Mức độ của vi khuẩn P. gingivalis, T. denticola
và T. forsythia trong mảng bám lưỡi được phát
hiện bằng thuốc thử BANA (N-benzoyl-DL-
arginine2-napthilamide) và ghi nhận cho mỗi
bệnh nhân như sau: 0, nếu phản ứng âm tính; 1
nếu dương tính yếu và 2 nếu dương tính thật(4).
Thiết kế nghiên cứu
Sơ đồ can thiệp điều trị hôi miệng đươc cho
trong hình 1. Tại thời điểm ban đầu, trong số 117
bệnh nhân tham gia nghiên cứu, có 57 bệnh
nhân được chẩn đoán viêm nha chu/Nhóm VNC
(+) và 60 bệnh nhân không bị viêm nha
chu/Nhóm VNC (-). Bệnh nhân trong cả hai
nhóm được cấp một bàn chải nhỏ (Dr. Bee,
Japan) và được hướng dẫn cách làm sạch bề mặt
lưỡi. Bệnh nhân được yêu cầu làm sạch bề mặt
lưỡi vào mỗi buổi sáng trước khi chải răng trong
vòng 7 ngày tại nhà và sau đó đến khám lại tình
trạng răng miệng và hôi miệng vào ngày thứ 8.
Bệnh nhân trong nhóm viêm nha chu tiếp theo
được điều trị nha chu không phẫu thuật gồm cạo
vôi, đánh bóng răng và xử lý bề mặt gốc răng.
Sau khi hoàn tất điều trị viêm nha chu, bệnh
nhân được đánh giá lại tình trạng răng miệng và
hôi miệng. Số lượng bệnh nhân hoàn tất quá
trình can thiệp điều trị hôi miệng là 107, trong đó
của nhóm VNC (+) là 51 bệnh nhân (26 nam, 25
nữ, tuổi trung bình: 44,7±8,3); và của nhóm VNC
(-) là 58 bệnh nhân (25 nam, 33 nữ, tuổi trung
bình: 39,9 ± 8,3).
KẾT QUẢ
Tình trạng hôi miệng và răng miệng tại thời
điểm trước khi can thiệp được cho trong Bảng 1.
Nhóm bệnh nhân bị viêm nha chu, các giá trị
trung bình về chỉ số Organoleptic test (OT); nồng
độ khí hydrogen sulfide (H2S), nồng độ khí
metyl mecaptan (CH3SH), số răng có chảy máu
nướu khi thăm dò (BOP); chỉ số viêm nướu (GI),
số răng có túi nha chu (NDP), độ sâu túi nha chu
(PD), độ mất bám dính lâm sàng (CAL), chỉ số
mảng bám răng (PlI) và chỉ số mảng bám lưỡi
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 194
(TC) cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm
bệnh nhân không bị viêm nha chu (p<0,05). Tuy
nhiên không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
về chỉ số thuốc thử BANA (BANA) giữa 2 nhóm
(p=0,55).
Sự thay đổi tình trạng hôi miệng của mỗi
nhóm được cho thấy trong Bảng 2 và Biểu đồ 1-
3. Sau khi làm sạch bề mặt lưỡi, ở nhóm bệnh
nhân không bị viêm nha chu, có sự giảm hôi
miệng rõ rệt: OT từ 2,33 xuống 1,21, H2S từ 5,62
xuống 1,10 và CH3SH từ 3,00 xuống 0,41
(p<0,001). Ở nhóm bệnh nhân bị nha chu viêm,
sau khi làm sach lưỡi, mức độ giảm hôi miệng ít
hơn: OT từ 2,82 xuống 2,61, H2S từ 7,63 xuống
4,88 và CH3SH từ 8,92 xuống 5,99 (p<0,01). Tình
trạng hôi miệng được cải thiện đáng kể sau khi
bệnh nhân của nhóm này tiếp tục điều trị viêm
nha chu: OT từ 2,61 xuống 0,94, H2S từ 4,88
xuống 1,13 và CH3SH từ 5,99 xuống 0,27
(p<0,001).
Sự thay đổi tình trạng nha chu và vệ sinh
răng miệng được cho thấy trong bảng 2. Đối với
nhóm không bị viêm nha chu, sau khi chải lưỡi,
có sự giảm có ý nghĩa thống kê các chỉ số GI, PD,
PlI, TC, BANA so với trước khi can thiệp
(p<0,001). Mặc dù các chỉ số BOP và CAL có
giảm so với ban đầu nhưng sự khác biệt không
có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Đối với nhóm bị
viêm nha chu, sau khi chải lưỡi, các chỉ số BOP,
GI, PD, PlI, TC và BANA giảm có ý nghĩa thống
kê so với ban đầu (p<0,05). Không có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê về giá trị NDP và CAL trước
và sau khi chải lưỡi trên nhóm bệnh nhân này
(p>0,05). Sau khi tiếp tục điều trị nha chu, tất cả
các chỉ số nha chu và vệ sinh răng miệng gồm
BOP, GI, PD, PlI, PD, CAL, TC và BANA đều
giảm có ý nghĩa thống kê so với thời điểm sau
khi chải lưỡi (p<0,001).
Bảng 1: Tình trạng hôi miệng, tình trang nha chu và
vệ sinh răng miệng tại các thời điểm trước khi can
thiệp
Biến số Nhóm VNC (-) Nhóm VNC (+) p
OT 2,33 ± 0,47 2,82 ± 0,59 <0,001
H2S 5,62 ± 4,52 7,63 ± 4,45 0,021
CH3SH 3,00 ± 2,56 8,92 ± 4,80 <0,001
BOP 5,07 ± 2,18 11,06 ± 3,30 <0,001
GI 0,82 ± 0,51 1,86 ± 0,31 <0,001
NDP Không áp dụng 5,05 ± 0,31
PD 2,50 ± 0,52 4,25 ± 0,48 <0,001
CAL 2,58 ± 0,45 4,38 ± 0,52 <0,001
PlI 1,47 ± 0,49 3,02 ± 0,37 <0,001
TC 8,21 ± 3,49 11,80 ± 3,42 <0,001
BANA 1,48 ± 0,57 1,55 ± 0,58 0,55
Số liệu trình bày: TB ± ĐLC; OT: chỉ số Organoleptic
test; H2S: nồng độ khí hydrogen sulfide; CH3SH: nồng
độ khí metyl mecaptan; BOP: số răng có chảy máu nướu
khi thăm dò; GI: chỉ số viêm nướu; NDP: số răng có túi
nha chu sâu; PD: độ sâu túi nha chu; CAL: độ mất bám
dính lâm sàng; PlI: chỉ số mảng bám răng; TC: chỉ số
mảng bám lưỡi; BANA: chỉ số thuốc thử BANA; p: kiểm
định t hai mẫu độc lập
Hình 1: Sơ đồ can thiệp điều trị hôi miệng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 195
Biểu đồ 1: Chỉ số OT tại các thời điểm trước và sau khi
can thiệp. Tất cả sự khác biệt đều có ý nghĩa thống kê
với p<0,01
Biểu đồ 2: Nồng độ H2S tại các thời điểm trước và sau
khi can thiệp. Tất cả sự khác biệt đều có ý nghĩa thống
kê với p<0,001
Biểu đồ 3: Nồng độ CH3SH tại các thời điểm trước và
sau khi can thiệp. Tất cả sự khác biệt đều có ý nghĩa
thống kê với p<0,001
Bảng 2: Tình trạng hôi miệng, tình trạng nha chu và vệ sinh răng miệng tại các thời điểm trước và sau khi can
thiệp
Biến số
Nhóm VNC (-) Nhóm VNC (+)
Ban đầu Sau chải lưỡi p(1) Ban đầu Sau chải lưỡi p(2) Sau điều trị nha chu p(3)
OT 2,33 ± 0,47 1,21 ± 0,44 <0,001 2,82 ± 0,59 2,61 ± 0,53 0,002 0,94 ± 0,31 <0,001
H2S 5,62 ± 4,52 1,10 ± 0,60 <0,001 7,63 ± 4,45 4,88 ± 2,81 <0,001 1,13 ± 0,42 <0,001
CH3SH 3,00 ± 2,56 0,41 ± 0,24 <0,001 8,92 ± 4,80 6,00 ± 3,00 <0,001 0,27 ± 0,22 <0,001
BOP 5,07 ± 2,18 4,93 ± 1,95 0,146 11,06 ± 3,30 9,96 ± 2,62 <0,001 3,73 ± 0,67 <0,001
GI 0,82 ± 0,51 0,61 ± 0,41 <0,001 1,86 ± 0,31 1,30 ± 0,22 <0,001 0,33 ± 0,06 <0,001
NDP Không áp dụng Không áp dụng 5,05 ± 0,31 6,47 ± 2,98 0,224 1,04 ± 0,96 <0,001
PD 2,50 ± 0,52 2,44 ± 0,44 <0,001 4,25 ± 0,48 4,15 ± 0,57 0,020 3,15 ± 0,36 <0,001
CAL 2,58 ± 0,45 2,59 ± 0,42 0,641 4,38 ± 0,52 4,38 ± 0,53 0,737 3,23 ± 0,48 <0,001
PlI 1,47 ± 0,49 0,58 ± 0,20 <0,001 3,02 ± 0,37 2,01 ± 0,28 <0,001 0,46 ± 0,06 <0,001
TC 8,21 ± 3,49 1,60 ± 0,56 <0,001 11,80 ± 3,42 2,96 ± 0,51 <0,001 1,73 ± 0,49 <0,001
BANA 1,48 ± 0,57 0,43 ± 0,53 <0,001 1,55 ± 0,58 0,55 ± 0,50 <0,001 0,31 ± 0,47 0,001
Số liệu trình bày: TB ± ĐLC; OT: chỉ số Organoleptic test; H2S: nồng độ khí hydrogen sulfide; CH3SH: nồng độ khí metyl
mecaptan; BOP: số răng có chảy máu nướu khi thăm dò; GI: chỉ số viêm nướu; NDP: số răng có túi nha chu sâu; PD:
độ sâu túi nha chu; CAL: độ mất bám dính lâm sàng; PlI: chỉ số mảng bám răng; TC: chỉ số mảng bám lưỡi; BANA: chỉ
số thuốc thử BANA; p(1), p(2), p(3): kiểm định t bắt cặp; p(1): Nhóm VNC (-), thời điểm ban đầu và sau khi chải lưỡi;
p(2): Nhóm VNC (+), thời điểm ban đầu và sau khi chải lưỡi; p(3): Nhóm VNC (+), sau khi chải lưỡi và sau khi điều trị
nha chu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 196
BÀN LUẬN
Thử nghiệm lâm sàng này cho thấy hiệu quả
tích cực của việc làm sạch bề mặt lưỡi trên bệnh
nhân bị hôi miệng nhưng mức độ tùy thuộc vào
tình trạng nha chu của bệnh nhân. Kết quả của
nghiên cứu cho thấy làm sạch bề mặt lưỡi đưa
đến sự cải thiện hoàn toàn tình trạng hôi miệng
trên bệnh nhân không bị viêm nha chu. Đối với
bệnh nhân bị viêm nha chu, làm sạch mảng bám
lưỡi cũng làm giảm mức độ hôi miệng; nhưng
để cải thiện hoàn toàn tình trạng này cần phải
điều trị nha chu. Điều này được nghĩ là do
nguyên nhân gây hôi miệng trên những nhóm
bệnh nhân khác nhau về tình trạng nha chu là
khác nhau. Trong một nghiên cứu trước đây của
Miyazaki và cs, tác giả cũng cho rằng hôi miệng
chủ yếu gây ra mảng bám lưỡi trên những nhóm
bệnh nhân trẻ, và do bệnh nha chu kết hợp với
mảng bám lưỡi trên nhóm bệnh nhân cao tuổi
hơn(7).
Nghiên cứu này đồng quan điểm với
Yaegaki và Sanada, người cho thấy có sự cao hơn
có ý nghĩa thống kê về nồng độ khí VSCs và
mảng bám lưỡi dày hơn trên nhóm bệnh nhân bị
viêm nha chu so với nhóm có tình trạng nha chu
lành mạnh(19,20). Nhiều nghiên cứu lâm sàng
trước đây cũng cho thấy có mối quan hệ dương
tính giữa tình trạng hôi miệng và bệnh nha
chu(9,10,11) vì mật độ vi khuẩn tạo khí VSCs tìm
thấy trong túi nha chu cao hơn so với túi nướu(15).
Ngoài ra, chúng tôi còn tìm thấy nồng độ metyl
mecaptan cao hơn hydrogen sulfide trên nhóm
bệnh nhân bị viêm nha chu; trong khi ngược lại
trên nhóm không bị viêm nha chu. Kết quả này
tương đồng với các nghiên cứu trước đây của
Yaegaki và Sanada(19,20).
Trong nghiên cứu này, tình trạng mảng bám
lưỡi ảnh hưởng rõ rệt qua tác động làm sạch bề
mặt lưỡi; thể hiện qua chỉ số mảng bám lưỡi và
thuốc thử BANA giảm có ý nghĩa thống kê trên
cả hai nhóm sau khi chải lưỡi. Đối tượng trong
nghiên cứu này đã được hướng dẫn chải vùng
phiá sau lưng lưỡi và dùng gương để tự kiểm tra
mảng bám lưỡi trong suốt quá trình làm sạch.
Phương pháp này đã cho thấy có hiệu quả tối ưu
trong việc tự loại bỏ mảng bám lưỡi cùng với vi
khuẩn gây ra hôi miệng trên bề mặt lưỡi.
Chúng tôi cũng nhận thấy chỉ số mảng bám
lưỡi và thuốc thử BANA giảm có ý nghĩa sau khi
điều trị viêm nha chu. Điều này chứng tỏ rằng,
bản thân điều trị viêm nha chu cũng làm giảm
sự hình thành mảng bám lưỡi và lượng vi khuẩn
sinh mùi trên bề mặt lưỡi. Kết quả của nghiên
cứu hiện tại ủng hộ quan điểm của những
nghiên cứu trước đây, khi cho rằng mảng bám
lưỡi có khuynh hướng gia tăng theo sự tiến triển
của bệnh nha chu; và việc giảm mảng bám lưỡi
thông qua quá trình điều trị nha chu cũng đã
góp phần đến sự cải thiện tình trạng hôi miệng
sau khi điều trị nha chu.
Trong nghiên cứu hiện tại, mặc dù việc
làm sạch bề mặt lưỡi có tác dụng làm giảm hôi
miệng đối với bệnh nhân bị viêm nha chu. Tuy
nhiên, nhóm bệnh nhân này không để cải
thiện hoàn toàn tình trạng hôi miệng nếu
không điều trị nha chu. Kết quả từ nghiên cứu
của chúng tôi khác với một nghiên cứu trước
đây của Quirynen và cs, cho rằng điều trị nha
chu và chải lưỡi có tác dụng rất ít làm giảm
nồng độ của hỗn hợp khí VSCs trên những
bệnh nha bị viêm nha chu trung bình, trừ khi
phối hợp với nước súc miệng kháng khuẩn(12).
Sự khác biệt về kết quả giữa hai nghiên cứu có
thể do tiêu chí chọn mẫu khác nhau. Quirynen
đã chọn những bệnh nhân không tồn tại mảng
bám lưỡi tại thời điểm ban đầu, còn trong thử
nghiệm hiện tại, chúng tôi không đưa ra tiêu
chí này trong quá trình chọn mẫu.
Điều trị bệnh nha chu và làm sạch mảng bám
lưỡi, mục đích chính là loại bỏ và ngăn chặn sự
tăng sinh của vi khuẩn gây nên tình trạng hôi
miệng, lại phụ thuộc chủ yếu vào quá trình vệ
sinh răng miệng hàng ngày của bệnh nhân. Vì
vậy, cần nhấn mạnh về sự chăm sóc răng miệng
cá nhân để phòng ngừa và điều trị hôi miệng.
Kết quả của nghiên cứu này đã đưa ra phác đồ
điều trị hôi miệng thích hợp trên những nhóm
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 197
bệnh nhân có tình trạng nha chu khác nhau.
Ngoài ra, việc giáo dục về nguyên nhân gây hôi
miệng, cách làm giảm mảng bám cùng với lượng
vi khuẩn sinh khí VSCs trong miệng là thật sự
cần thiết trong việc phòng ngừa, và điều trị bệnh
nhân hôi miệng nói riêng và cộng đồng nói
chung.
KẾT LUẬN
Làm sạch bề mặt lưỡi cho thấy là biện pháp
hữu hiệu nhất điều trị hôi miệng trên bệnh nhân
không bị viêm nha chu. Làm sạch bề mặt lưỡi
cũng có tác động làm giảm hôi miệng trên bệnh
nhân bị viêm nha chu nhưng sự kết hợp với điều
trị nha chu cho thấy có hiệu quả hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. De Boever EH, Loesche WJ (1995). Assessing the contribution
of anaerobic microflora of the tongue to oral malodor. J Am
Dent Assoc, 126: 1384–1393.
2. Donaldson AC, Mckenzie D, Riggio MP et al (2005).
Microbiological culture analysis of the tongue anaerobic
microflora in subjects with and without halitosis. Oral Dis,
11(suppl 1): 61–63.
3. Loe H (1967). The Gingival Index, the Plaque Index and the
Retention Index Systems. J Periodontol, 6(suppl): 610–616.
4. Loesche WJ, Bretz WA, Kerschensteiner D et al (1990).
Development of a diagnostic test for anaerobic periodontal
infections based on plaque hydrolysis of benzoyl-DL-arginine-
naphthylamide. J Clin Microbiol, 28: 1551–1559.
5. Loesche WJ, Kazor C. (2002). Microbiology and treatment of
halitosis. Periodontol 2000, 28: 256–279.
6. Mantilla Gomez S, Danser MM, Sipos PM, et al (2001). Tongue
coating and salivary bacterial counts in healthy/gingivitis
subjects and periodontitis patients. J Clin Periodontol, 28: 970–
978.
7. Miyazaki H, Sakao S, Katoh Y, et al (1995). Correlation
between volatile sulphur compounds and certain oral health
measurements in the general population. J Periodontol, 66:
679–684.
8. Murata T, Yamaga T, Iida T, et al (2002). Classification and
examination of halitosis. Int Dent J, 52(suppl 3): 181–186.
9. Pham A V T (2013). Comparison between self-estimated and
clinical oral malodor. Acta Odontol Scand, 71(1):.263-270.
10. Pham A V T, Ueno M, Shinada K, et al (2012). Factors affecting
oral malodor in periodontitis and gingivitis patients. J Investig
Clin Dent, 3: 284-290.
11. Pham A V T, Ueno M, Shinada K, et al (2012). Comparison
between self-perceived and clinical oral malodor. Oral Surg,
Oral Med, Oral Pathol, Oral Radiol Endod, 113(1): 70-80.
12. Quirynen M, Zhao H, Soers C et al (2005). The impact of
periodontal therapy and the adjunctive effect of antiseptics on
breath odor-related outcome variables: a doubleblind
randomized study. J Periodontol, 76: 705–712.
13. Rosenberg M, Septon I, Eli I et al (1991). Halitosis
measurement by an industrial sulphide monitor. J
Periodontol, 62: 487–489.
14. Tonzetich J (1977). Production and origin of oral malodor: a
review of mechanisms and methods of analysis. J Periodontol,
48: 13–20.
15. Tonzetich J, McBride BC (1981). Characterization of volatile
sulphur production by pathogenic and non-pathogenic strains
of oral Bacteroides. Arch Oral Biol, 26: 963–969.
16. Van der Weijden GA, Timmerman MF, Nijboer A, et al (1994).
Comparison of different approaches to assess bleeding on
probing as indicators of gingivitis. J Clin Periodontol, 21: 589–
594.
17. Waler SM (1997). On the transformation of sulfur-containing
amino acids and peptides to volatile sulfur compounds (VSC)
in the human mouth. Eur J Oral Sci, 105: 534–537.
18. Winkel EG, Roldan S, Van Winkelhoff AJ, et al (2003). Clinical
effects of a new mouthrinse containing chlorhexidine,
cetylpyridinium chloride and zinclactate on oral halitosis. A
dual-center, double-blind placebo-controlled study. J Clin
Periodontol, 30: 300–306.
19. Yaegaki K, Sanada K (1992). Volatile sulfur compounds in
mouth air from clinically healthy subjects and patients with
periodontal disease. J Periodontal Res, 27(4Pt 1): 233–238.
20. Yaegaki K, Sanada K (1992). Biochemical and clinical factors
influencing oral malodor in periodontal patients. J
Periodontol, 63: 783–789.
Ngày nhận bài báo: 15/01/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 18/02/2014
Ngày bài báo được đăng: 20/03/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tac_dong_lam_sach_be_mat_luoi_tren_benh_nhan_hoi_mieng.pdf