Đối với các doanh nghiệp dệt may nội địa
Thứ nhất, nhằm nâng cao năng suất lao
động và quy mô nguồn nhân lực, các doanh
nghiệp cần tập trung nâng cao chất lượng lao
động, kể cả đội ngũ cán bộ quản lý và công
nhân, thông qua các hình thức như đào tạo tại
chỗ hay cử đi đào tạo. Bên cạnh đó, các doanh
nghiệp nên có chế độ lương thưởng hấp dẫn,
nâng cao chất lượng môi trường làm việc nhằm
giữ chân và thu hút thêm lao động có chất
lượng, giúp mở rộng quy mô sản xuất.
Thứ hai, các doanh nghiệp cần đổi mới máy
móc thiết bị và hiện đại hóa công nghệ nhằm
tăng năng suất lao động. Hơn nữa, quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế đã khiến cho tiêu chuẩn về
hàng dệt may ngày càng cao. Vì vậy, các doanh
nghiệp cần cập nhật xu hướng thế giới để tránh
bị lạc hậu về mặt công nghệ kỹ thuật, luôn đáp
ứng nhu cầu của thị trường về hàng dệt may.
Thứ ba, các doanh nghiệp cần nâng cao
nghiệp vụ, kỹ năng cho đội ngũ cán bộ kinh
doanh xuất nhập khẩu, đồng thời chủ động
trong việc phát triển ra thị trường thế giới, tìm
kiếm các cơ hội xuất khẩu thông tham gia hoạt
động hội chợ, triển lãm, quảng bá sản phẩm
Thứ tư, các doanh nghiệp có thể tự khắc
phục những thách thức của ngành thông qua
việc tự chủ tìm nguồn cung ứng nguyên vật liệu
ổn định và chất lượng cao, từ đó nâng cao chất
lượng sản phẩm. Các doanh nghiệp cũng có thể
nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh, tham gia
vào khâu mang giá trị cao hơn trong chuỗi giá
trị dệt may toàn cầu.
Bên cạnh những đóng góp, nghiên cứu vẫn
còn tồn tại một số hạn chế. Tác giả sử dụng bộ
số liệu thứ cấp từ điều tra doanh nghiệp của
GSO để đánh giá tác động lấn át của FDI đối
với các doanh nghiệp dệt may trong nước, điều
này có nghĩa rằng nghiên cứu đang sử dụng các
con số trung bình. Do không trực tiếp thực hiện
điều tra nên nghiên cứu không đánh giá hết
được sự chính xác của những con số. Do vậy,
kết luận từ kết quả hồi quy có thể sẽ bị thiên
lệch. Hơn nữa, do khả năng có hạn nên tác giả
chỉ xử lý số liệu đến năm 2015. Bên cạnh đó,
nghiên cứu chỉ tập trung vào tác động của FDI
đối với ngành công nghiệp dệt may và những đề
xuất khuyến nghị chỉ mang tính tham khảo. Để
đưa ra giải pháp cụ thể cho các vấn đề còn tồn
tại thì đòi hỏi cần có những phân tích sâu hơn
trong các nghiên cứu tiếp theo.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 354 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động lấn át của FDI đến sự rời ngành của doanh nghiệp nội địa trong ngành dệt may Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 28-37
28
Original Article
FDI’s Crowding Out Effect on the Exit of Domestic
Vietnamese Firms in the Textile and Garment Industry
Nguyen Thi Thanh Mai*, Do Quynh Anh
VNU University of Economics and Business, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
Received 05 November 2020
Revised 12 December 2020; Accepted 12 December 2020
Abstract: For the Vietnamese economy and the textile and garment industry particularly, FDI is
an external resource that brings about many positive effects. However, the presence of FDI
enterprises may cause crowding out effects for domestic firms. This study is conducted to answer
the question of whether the presence of FDI enterprises affects the survival of domestic firms or
not. The authors apply the logistic regression model to analyze this crowding out effect, using the
case of the textile and garment processing industry, which has a key role in Vietnamese
manufacturing, industry and which also has attracted a large amount of FDI in recent years.
Thereby, the research team gives some policy implications to minimize the negative impact (if
any) of FDI on domestic firms.
Keywords: Foreign Direct Investment, crowding out effect, textile and garment industry.
D*
_______
* Corresponding author.
E-mail address: maintt@vnu.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4433
N.T.T. Mai, D.Q. Anh / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 28-37
29
Tác động lấn át của FDI đến sự rời ngành
của doanh nghiệp nội địa trong ngành dệt may Việt Nam
Nguyễn Thị Thanh Mai*, Đỗ Quỳnh Anh
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 05 tháng 11 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 12 tháng 12 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 12 tháng 12 năm 2020
Tóm tắt: Đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành dệt may nói riêng, FDI là nguồn ngoại
lực mang đến nhiều tác động tích cực. Tuy nhiên, sự hiện diện của doanh nghiệp FDI có thể gây ra
tác động lấn át đối với các doanh nghiệp nội địa. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm trả lời câu
hỏi liệu sự xuất hiện của doanh nghiệp FDI có ảnh hưởng đến khả năng tồn tại của các doanh
nghiệp trong nước hay không? Tác giả áp dụng mô hình hồi quy Logistic để phân tích tác động lấn
át, sử dụng trường hợp ngành công nghiệp chế biến dệt may - ngành vừa có vai trò chủ đạo trong
nhóm ngành công nghiệp chế biến của Việt Nam, vừa thu hút mạnh FDI trong thời gian qua. Từ
đó, nhóm nghiên cứu đưa ra một số hàm ý chính sách nhằm giảm thiểu các tác động (nếu có) của
FDI đến các doanh nghiệp trong nước.
Từ khóa: Đầu tư trực tiếp nước ngoài, tác động lấn át, ngành dệt may.
1. Mở đầu *
Trong suốt hơn 30 năm qua kể từ sau khi thi
hành chính sách đổi mới vào năm 1986, khu
vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã không
ngừng phát triển, trở thành một bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế Việt Nam.
Tuy nhiên trên thực tế, FDI không phải lúc nào
cũng tạo ra tác động tích cực đến nước nhận
đầu tư. Một trong những tác động tiêu cực là
các doanh nghiệp trong nước có thể bị lấn át
trong nền kinh tế nội địa do không cạnh tranh
được với các nhà đầu tư nước ngoài.
Theo báo cáo của Cổng thông tin quốc gia
về đăng ký doanh nghiệp (2020), số lượng
doanh nghiệp nội địa phải giải thể, ngừng kinh
doanh hằng năm đều tăng [1]. Trong năm 2019,
có 89.282 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường
(tăng 20,2% so với năm 2018), bao gồm:
28.731 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh
doanh có thời hạn (tăng 5,9%), 43.711 doanh
_______
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: maintt@vnu.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4433
nghiệp chờ giải thể (tăng 41,7%), 16.840 doanh
nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể (tăng 3,2%).
Trung bình mỗi tháng có 7.440 doanh nghiệp
rút lui khỏi thị trường [1].
Trong ngành dệt may, theo kết quả điều tra
doanh nghiệp hàng năm của Tổng cục Thống kê
(GSO), số lượng doanh nghiệp rời ngành trong
giai đoạn 2009-2015 luôn ở mức cao, khoảng
hơn 70% [2]. Trong tổng số 45.675 mẫu quan
sát của các doanh nghiệp hoạt động trong ngành
công nghiệp dệt may, tổng số doanh nghiệp rời
ngành tính đến năm 2015 chiếm đến khoảng
82% [2]. Điều này cho thấy những thách thức
của nền kinh tế đang dần loại khỏi thị trường
các doanh nghiệp nội địa yếu kém, không đủ
sức tồn tại, hoặc không kịp thay đổi để thích
nghi với điều kiện mới. Trong khi đó, các
doanh nghiệp FDI vẫn đang được xem là động
lực tăng trưởng và vận hành tốt.
Vậy sự xuất hiện của các doanh nghiệp FDI
gây tác động lấn át đối với doanh nghiệp nội địa
hay không? Để trả lời câu hỏi này, nhóm nghiên
cứu sử dụng trường hợp ngành công nghiệp chế
biến dệt may để phân tích vì đây vừa là nhóm
ngành có vai trò quan trọng ở Việt Nam, vừa là
N.T.T. Mai, D.Q. Anh / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 28-37
30
ngành thu hút một lượng lớn FDI. Dựa trên kết
quả nghiên cứu, nhóm tác giả sẽ đưa ra một số
hàm ý nhằm giảm thiểu các tác động lấn át (nếu
có) của FDI đến các doanh nghiệp trong nước.
h
Hình 1. Doanh nghiệp đang hoạt động và doanh nghiệp rời ngành giai đoạn 2009-2015.
Nguồn: Tác giả thống kê từ Kết quả điều tra doanh nghiệp hàng năm [2]
2. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
và một trong những biểu hiện quan trọng là sự
gia tăng của FDI, đã có nhiều nghiên cứu về
lĩnh vực này, đặc biệt là về tác động của FDI
đối với nước nhận đầu tư, trong đó có tác động
lấn át của FDI đối với doanh nghiệp nội địa.
Giải thích về nguyên nhân của tác động lấn
át, Nguyễn Thị Tuệ Anh và cộng sự (2006),
Phạm Quang Sáng và cộng sự (2014) lập luận
rằng sự xuất hiện của các doanh nghiệp FDI có
thể tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt [3, 4]. Nếu
quy mô doanh nghiệp nhỏ và năng lực hạn chế
thì rất dễ bị thua thiệt khi phải cạnh tranh với
các doanh nghiệp nước ngoài do các doanh
nghiệp trong nước dễ bị mất thị phần và lao
động có kỹ năng, thậm chí có thể bị phá sản.
Ngoài ra, vốn FDI có thể làm cho đầu tư trong
nước giảm xuống do nhiều doanh nghiệp bị mất
cơ hội đầu tư, hoặc đầu tư không hiệu quả do
trình độ công nghệ thấp và vốn ít. Bên cạnh đó,
doanh nghiệp FDI khi gia nhập thị trường
thường nhận được nhiều ưu đãi của chính phủ.
Bản thân các nhà đầu tư nước ngoài phần lớn sở
hữu trình độ công nghệ và kiến thức vượt trội so
với các doanh nghiệp trong nước, điều này khiến
khả năng cạnh tranh của họ càng cao. Chính vì
vậy, các doanh nghiệp nội địa khó cạnh tranh với
các doanh nghiệp nước ngoài, thường bị lấn át và
phải rời ngành. Các nghiên cứu của Görg và
Greenaway (2004), Blomström và Kokko (1998),
Franco và Weche Gelübcke (2015) đã xác định
với các nước khác nhau thì FDI sẽ có ảnh hưởng
khác nhau đối với sự rời ngành của doanh nghiệp
trong nước [5-7].
Tại Việt Nam, các nghiên cứu về FDI chủ
yếu tập trung vào các tác động tích cực mà nó
mang đến cho nền kinh tế Việt Nam. Freeman
(2002), Nguyen (2004), Nguyễn Thị Tuệ Anh
N.T.T. Mai, D.Q. Anh / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 28-37
31
và cộng sự (2006) xác định FDI có tác động
tích cực tới tăng trưởng kinh tế thông qua kênh
đầu tư và cải thiện nguồn nhân lực [3, 8, 9].
Đoàn Ngọc Phúc (2004) phân tích thực trạng
của FDI trong giai đoạn 1988-2003 đã đưa ra
kết luận rằng khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài có ảnh hưởng quan trọng đối với
tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam [10]. Nguyễn
Thị Tuệ Anh và cộng sự (2006) sử dụng
phương pháp nghiên cứu định lượng để kiểm
định tác động tràn của FDI, qua đó đánh giá tác
động của FDI đến tăng trưởng kinh tế tại Việt
Nam, cụ thể là tác động đến năng suất lao động
của các doanh nghiệp dệt may [3].
Hiện nay, số lượng các nghiên cứu về tác
động của FDI đến sự tồn tại của các doanh
nghiệp nội địa chiếm rất ít. Pham (2016) đã sử
dụng bộ số liệu về điều tra doanh nghiệp giai
đoạn 2001-2010 để nghiên cứu tác động thu hút
và tác động lấn át của FDI đến các doanh
nghiệp Việt Nam [11]. Sử dụng ba mô hình hồi
quy OLS, Fixed Effects và GMM, nghiên cứu
tìm ra tác động lấn át đối với các doanh nghiệp
trong ngành và tác động thu hút ở quy mô
ngành khi nguồn vốn FDI tăng lên. Trong khi
Pham (2016) nghiên cứu tác động của FDI qua
sự thay đổi của thị phần của doanh nghiệp nội
địa và doanh nghiệp nước ngoài [11], Phạm
Quang Sáng và cộng sự (2014) lại nghiên cứu
qua số lượng doanh nghiệp rời ngành và xác
định sự tồn tại của FDI làm tăng tỷ lệ rời ngành
của các doanh nghiệp nội địa nói chung [4].
Số lượng các nghiên cứu về tác động lấn át
của doanh nghiệp FDI đối các doanh nghiệp
trong ngành dệt may còn rất hạn chế. Đây là
một ngành có vai trò quan trọng trong nền kinh
tế Việt Nam, đồng thời là ngành thu hút lượng
lớn FDI trong thời gian vừa qua, do đó tác giả
sẽ tập trung vào ngành này để có thể đưa đến
những hàm ý chính sách phù hợp.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Mô hình nghiên cứu và các biến sử dụng
Để nghiên cứu về tác động lấn át, mô hình
Cox (Cox proportional hazard model) và
Logistic là các mô hình thường được sử dụng.
Hai mô hình này cơ bản giống nhau, chỉ khác
nhau là Logistic sử dụng hàm phân phối tích
lũy CDF (Cumulative Distribution Function)
chuẩn, trong khi hàm Cox được giải thích dựa
trên Logit, sử dụng hàm CDF4 và hệ số hồi quy
ước lượng của mô hình Logistic nhân với 1,81
[12]. Vì vậy, dựa trên nền tảng nghiên cứu của
Phạm Quang Sáng và cộng sự (2014) [4], nhóm
tác giả sử dụng phương pháp ước lượng
Logistic đối với dữ liệu bảng. Đây là mô hình
được áp dụng dựa trên các công trình của Görg
và Strobl (2000), Alvarez và Görg (2009),
Ferragina, Pittiglio và Reganati (2009), Bandick
(2010), Franco và Weche Gelübcke (2015) [5,
7, 13, 14, 15] về tác động lấn át của FDI. Nó
được áp dụng cho tất cả các ngành trong nền
kinh tế. Trong nghiên cứu này, tác giả sẽ tập
trung vào ngành công nghiệp dệt may. Mô hình
được thể hiện như sau:
h
Các biến sử dụng trong mô hình gồm:
Exit (P0): Tỷ lệ doanh nghiệp rời ngành,
nếu doanh nghiệp rời ngành sẽ mang giá trị 1,
ngược lại sẽ mang giá trị 0. Một doanh nghiệp
được coi như rời khỏi ngành khi mã doanh
nghiệp đó không còn xuất hiện ở năm tiếp theo.
Với trường hợp doanh nghiệp chuyển ngành
nghề kinh doanh thì vẫn được tính là doanh
nghiệp đó rời ngành [7].
Số năm hoạt động của công ty (Age): Biến
định lượng có đơn vị là số năm, được đo lường
bằng cách lấy năm đang hoạt động tại thời điểm
nghiên cứu trừ đi năm thành lập doanh nghiệp.
Nghiên cứu của Fackler, Schnabel và Wagner
(2013), Franco và Weche Gelübcke (2015) đưa
ra kết luận rằng các doanh nghiệp trẻ hoặc mới
thành lập thường khó trụ lại trong thị trường
hơn so với các doanh nghiệp lâu năm do họ
thiếu kinh nghiệm và có thể gặp nhiều khó
khăn, rủi ro [7, 14, 17].
Quy mô công ty (Size): Được đo bằng số
lượng nhân viên của mỗi doanh nghiệp. Nghiên
cứu của Audretsch và Mahmood (1995), Mata
N.T.T. Mai, D.Q. Anh / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 28-37
32
và Portugal (1994) kết luận rằng các doanh
nghiệp nhỏ thường có xác suất rời ngành cao
hơn so với các doanh nghiệp lớn do họ có ít lợi
thế và nguồn lực, đồng thời dễ bị ảnh hưởng
trước các biến động trong thị trường [17, 18].
Nghiên cứu thực nghiệm của Fackler, Schnabel
và Wagner (2013) về nền kinh tế Đức đã minh
chứng nhận định trên [16].
Tình trạng xuất khẩu, nhập khẩu (IM-EX):
Biến mang giá trị 1 nếu doanh nghiệp có hoạt
động xuất nhập khẩu và mang giá trị 0 nếu
ngược lại (một doanh nghiệp được xem là có
hoạt động xuất nhập khẩu nếu doanh nghiệp có
phát sinh thuế xuất nhập khẩu trong năm).
Wagner (2013) đã chứng minh rằng các doanh
nghiệp tham gia xuất khẩu có tỷ lệ rời ngành
thấp hơn so với các doanh nghiệp chỉ hoạt động
trong thị trường nội địa do họ có khả năng tiếp
cận thị trường quốc tế và phân tán rủi ro [19].
Năng suất lao động (Productivity): Biến
định lượng được tính bằng giá trị thuần tăng
thêm trên mỗi lao động. Javorcik (2004),
Franco và Weche Gelübcke (2015) đã kết luận
rằng các doanh nghiệp có năng suất lao động
cao có khả năng rời ngành thấp hơn [7, 20].
Chỉ số Herfindahl (HHI): Đo lường mức độ
tập trung của ngành, qua đó thể hiện mức độ
cạnh tranh trong ngành mà doanh nghiệp hoạt
động. Kết quả nghiên cứu trước đây về sự ảnh
hưởng của HHI đến khả năng tồn tại của doanh
nghiệp là không đồng nhất. Audretsch và
Mahmood (1995) cho rằng các ngành tập trung
cao sẽ duy trì lợi nhuận biên cao nên giảm xác
suất rời ngành [17], trong khi Görg và Strobl
(2003) lại cho rằng áp lực cạnh tranh trong
ngành tập trung cao có thể làm tăng khả năng
rời ngành [21]. Với Việt Nam, tác giả kỳ vọng
nếu HHI tăng sẽ làm tăng xác suất rời ngành
của doanh nghiệp.
Chỉ số Horizontal (Horizontal): Biến thể
hiện sự xuất hiện của FDI trong ngành, có đơn
vị là % và được lượng hóa thông qua các chỉ số
khác nhau. Nghiên cứu này sử dụng định nghĩa
của Mata và Portugal (2002) rằng chỉ số
Horizontal là thị phần doanh thu của doanh
nghiệp FDI trong ngành [18]. Tác giả kỳ vọng
khi một ngành có càng nhiều vốn FDI thì nguy
cơ rời ngành của các doanh nghiệp trong nước
càng tăng lên - đây được xem như tác động lấn
át của nguồn vốn FDI. Là một biến quan trọng
trong nghiên cứu này, Horizontal sẽ giúp trả lời
câu hỏi là sự xuất hiện FDI trong ngành tác
động đến việc rời ngành của các doanh nghiệp
trong nước hay không, từ đó có thể đưa ra
những đề xuất chính sách phù hợp trong điều
kiện hiện nay cho Việt Nam.
3.2. Nguồn dữ liệu
Dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu được lấy
từ Bộ số liệu Điều tra doanh nghiệp của GSO
trong giai đoạn 2009-2015. Tác giả lấy dữ liệu
về các doanh nghiệp vừa và nhỏ (doanh nghiệp
có số lao động lớn hơn 10) trong ngành công
nghệ chế biến chế tạo và liên quan đến ngành
dệt may. Đó là các doanh nghiệp với mã ngành
cấp 2 là 13 (Dệt), 14 (Sản xuất trang phục) và
15 (Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan);
trong đó chia ra làm 14 ngành với các mã ngành
cấp 5 khác. Bộ dữ liệu cuối cùng sau khi được
xử lý bao gồm 45,675 quan sát; là dữ liệu bảng
bao gồm các quan sát theo không gian và
thời gian.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Mô tả dữ liệu
Kết quả thống kê mô tả biến Exit thể hiện
tại Hình 1 cho thấy số lượng doanh nghiệp rời
khỏi ngành dệt may giai đoạn 2009-2015 luôn ở
mức cao (khoảng 70%).
Về số năm hoạt động, kết quả thống kê cho
thấy số đông các doanh nghiệp trong ngành dệt
may Việt Nam đều là những doanh nghiệp khá
trẻ, thời gian hoạt động thấp. Số doanh nghiệp ở
độ tuổi 0-5 chiếm hơn 56% tổng số doanh
nghiệp, từ 6-10 năm tuổi chiếm khoảng 25%,
còn lại là các doanh nghiệp có hơn 10 năm kinh
nghiệm hoạt động.
Về quy mô doanh nghiệp, số lao động bình
quân của các doanh nghiệp trong mẫu là 372
lao động, độ lệch chuẩn khá lớn là 1619. Điều
này cho thấy các doanh nghiệp dệt may Việt
Nam đa phần có quy mô vừa và nhỏ. Qua số
liệu thống kê, có thể thấy số lượng doanh
N.T.T. Mai, D.Q. Anh / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 28-37
33
nghiệp rời ngành đa phần tập trung ở những
doanh nghiệp ít lao động.
Số doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập
khẩu chiếm khoảng 5% tổng số các doanh
nghiệp mỗi năm. Trong bộ dữ liệu, số doanh
nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu chiếm
khoảng 29% tổng các doanh nghiệp. Trong
nhóm những doanh nghiệp không có hoạt động
xuất nhập khẩu thì số doanh nghiệp rời ngành
chiếm 15,32%, còn trong nhóm những doanh
nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu thì số doanh
nghiệp rời ngành chiếm 1,28% (Bảng 1). Điều
này cho thấy trong ngành dệt may, tỷ lệ rời ngành
của nhóm có xuất nhập khẩu khá thấp.
Bảng 1. Bảng số liệu chéo giữa tình trạng xuất nhập
khẩu và khả năng rời ngành
Exit
IM_EX
Tổng
0 1
0
25,934
56%
12,442
26,86%
38,376
82,86%
1
7.095
15,32%
843
1,82%
7.938
17,14%
Tổng
29,059
71,32%
20,962
28,68%
50,021
100%
Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Kết quả điều tra
doanh nghiệp hàng năm [2].
Chỉ số HHI của các doanh nghiệp Việt Nam
trong bộ số liệu dao động từ 0 đến 10.000; giá
trị trung bình là 277,0341. Như vậy, theo tiêu
chuẩn đánh giá dựa trên chỉ số HHI, các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam hoạt động trong
ngành không có tính tập trung.
Biến Horizontal thể hiện thị phần FDI trong
ngành mà doanh nghiệp hoạt động có tỷ lệ
trung bình khoảng 52%, nhóm ngành nhỏ nhất
có thị phần FDI là 0% và lớn nhất đạt được
khoảng 92%.
Sau khi phân tích mô tả dữ liệu thống kê,
nghiên cứu tiếp tục thực hiện các kiểm định về
mối tương quan giữa các biến độc lập để kiểm
tra hiện tượng đa cộng tuyến. Kết quả cho thấy
không có mối tương quan đáng kể nào giữa các
biến độc lập này. Nhóm tác giả tiếp tục thực
hiện kiểm định mối liên hệ giữa biến phụ thuộc
và các biến độc lập, kết quả cho thấy giữa các
biến này có mối tương quan và các hệ số tương
quan đều có ý nghĩa thống kê ở mức dưới 5%.
4.2. Kết quả hồi quy Logistic
Bảng 2 và 3 thể hiện kết quả của mô hình
hồi quy với ước lượng tác động biên khi các
biến độc lập thay đổi 1 đơn vị. Kết quả hồi quy
chỉ ra rằng tất cả hệ số hồi quy của biến độc lập
trong mô hình đều có ý nghĩa thống kê ở mức ý
nghĩa 5%. Bảng ước lượng cho thấy xu hướng
tăng lên của tác động biên (xét về độ lớn) khi tỷ
lệ rời ngành của các doanh nghiệp trong nước
gia tăng.
Bảng 2. Kết quả hồi quy Logistic (biến phụ thuộc là Exit)
Tên biến độc lập Hệ số hồi quy
HHI 0,0002449
Horizontal -0,0048943
Productivity -0,0000705
Age -0,0753444
IM-EX -0,7042641
Size - 0,0029155
Tổng số quan sát =
Wald chi2(6) =
45,675
1711,85
Log likelihood =
Prob > chi2 =
-18239,212
0,0000
Nguồn: Kết quả nghiên cứu của tác giả.
N.T.T. Mai, D.Q. Anh / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 28-37
34
Bảng 3. Ước lượng tác động biên khi các biến độc lập thay đổi 1 đơn vị
Tỷ lệ doanh nghiệp rời ngành hiện tại (P0)
5% 10% 15% 20% 25% 30%
Biến
Hệ số
hồi quy
Tác động biên:
Age -0,0753444 -0,004 -0,007 -0,010 -0,012 -0,014 -0,016
Size -0,0029155 0,000 0,000 0,000 0,000 -0,001 -0,001
Productivity -0,0000705 0,000 0,000 0,000 0,000 0,000 0,000
IM_EX -0,7042641 -0,033 - 0,063 -0,090 -0,113 -0,132 -0,148
HHI 0,0002449 0,000 0,000 0,000 0,000 0,000 0,000
Horizontal -0,0048943 0,000 0,000 -0,001 -0,001 -0,001 -0,001
Nguồn: Kết quả nghiên cứu của tác giả.
Với biến số năm hoạt động của doanh
nghiệp, hệ số hồi quy là -0,0753444, có ý nghĩa
thống kê ở mức 1%, mang dấu âm phù hợp với
các nghiên cứu trước [4, 14, 16]. Kết quả cho
thấy, với giả định tỷ lệ rời ngành của các doanh
nghiệp trong nước là 5% và các yếu tố khác
không đổi thì khi số năm hoạt động của doanh
nghiệp tăng thêm 1 năm sẽ làm giảm tỷ lệ rời
ngành là 0,004%.
Với biến quy mô doanh nghiệp, hệ số hồi
quy của biến này là -0,0029155, có ý nghĩa
thống kê ở mức ý nghĩa 1%. Dấu âm của hệ số
hồi quy phù hợp với các kết quả nghiên cứu
trước [4, 7, 17, 18]. Với điều kiện các yếu tố
khác không đổi, khi doanh nghiệp tăng thêm 1
lao động thì tỷ lệ rời ngành giảm đi không đáng
kể, với giả định tỷ lệ rời ngành từ 5% đến 20%;
còn với giả định tỷ lệ rời ngành từ 25% đến
30% thì khi doanh nghiệp tăng thêm 1 lao động,
tỷ lệ rời ngành sẽ giảm thêm -0,001% (tính toán
sơ bộ, nếu doanh nghiệp tăng thêm 1.000 lao
động sẽ làm giảm tỷ lệ rời ngành xuống 1%).
Điều này cho thấy nếu quy mô doanh nghiệp càng
lớn thì tỷ lệ doanh nghiệp rời ngành càng thấp.
Năng suất lao động cũng có tương quan âm
với tỷ lệ rời ngành của doanh nghiệp. Tuy
nhiên, theo tính toán thì khi các yếu tố khác
không đổi, nanwng suất lao động tăng thêm 1
đơn vị với giả định tỷ lệ rời ngành hiện tại là
5% thì tỷ lệ rời ngành của doanh nghiệp giảm
xuống -0,000006345%, tương tự với các nghiên
cứu trước [6, 7, 13]. Như vậy, nếu doanh
nghiệp tăng năng suất lao động thì sẽ giảm khả
năng rời ngành. Tuy nhiên, do việc tính toán
năng suất lao động trong bộ dữ liệu thu thập
còn nhiều thiếu sót nên chúng tôi chỉ có thể
nhận định rằng năng suất lao động có mối quan
hệ nghịch biến với tỷ lệ rời ngành của doanh
nghiệp, hay tỷ lệ thuận với khả năng tồn tại của
doanh nghiệp trong ngành dệt may.
Đối với biến tình trạng xuất nhập khẩu của
doanh nghiệp, hệ số hồi quy thu được là -
0,7042641 và có ý nghĩa thống kê ở mức 5%.
Với điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi
doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu thì
tỷ lệ rời ngành sẽ thấp hơn 0,033% so với các
doanh nghiệp không có hoạt động này. Kết quả
này khác với các nghiên cứu trước [4, 7, 13],
nguyên nhân là do sự khác biệt về ngành hàng
được nghiên cứu. Đặc trưng nổi bật của ngành
công nghiệp dệt may Việt Nam là sự phụ thuộc
nhiều vào hoạt động xuất nhập khẩu. Nguồn
nguyên, phụ liệu cho sản xuất chủ yếu được
nhập khẩu. Đồng thời, do lợi thế cạnh tranh nhờ
N.T.T. Mai, D.Q. Anh / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 28-37
35
chi phí thấp, hàng dệt may được xuất khẩu
nhiều ra nước ngoài, giúp doanh nghiệp thu
được nhiều lợi nhuận hơn là chỉ tiêu thụ tại thị
trường nội địa.
Bên cạnh đó, xét cùng với số liệu thống kê
của biến Quy mô doanh nghiệp (Size), kết quả
cho thấy các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và
không tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu
chiếm phần lớn tỷ lệ các doanh nghiệp rời
ngành (Bảng 4). Số doanh nghiệp nhỏ có tham
gia xuất nhập khẩu (có ít hơn 200 lao động) có
tỷ lệ rời ngành là 1,83% (so với tỷ lệ rời ngành
là 20,21% của các doanh nghiệp nhỏ không
tham gia). Còn đối với các doanh nghiệp lớn
(có hơn 200 lao động), tỷ lệ rời ngành của
nhóm này khi có xuất nhập khẩu chiếm rất thấp,
chưa đến 2%. Điều này cho thấy, các doanh
nghiệp nhỏ tham gia xuất nhập khẩu có tỷ lệ rời
ngành cao hơn các doanh nghiệp lớn cùng tham
gia hoạt động này, nhưng lại thấp hơn rất nhiều
so với các doanh nghiệp nhỏ không tham gia.
Từ đó có thể thấy được tầm quan trọng của hoạt
động xuất nhập khẩu đối với các doanh nghiệp
ngành dệt may.
Bảng 4. Tỷ lệ doanh nghiệp rời ngành dưới tác động xuất nhập khẩu và quy mô hoạt động
Chỉ tiêu
Doanh nghiệp <
200 lao động
Doanh nghiệp > = 200
lao động
Xuất nhập khẩu 0 1 0 1
Số doanh nghiệp rời ngành 6,893 625 202 218
Tỷ lệ rời ngành so với quy mô doanh nghiệp (%) 20,21 1,83 1,66 1,79
Tỷ lệ rời ngành so với tổng số doanh nghiệp (%) 14,88 1,35 0,4362 0,4707
Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Kết quả điều tra doanh nghiệp hàng năm [2].
Chỉ số Herfindahl đo lường mức độ cạnh
tranh có giá trị hệ số hồi quy bằng 0,0002449%,
mang dấu dương và có ý nghĩa thống kê ở mức
ý nghĩa 1%. Với điều kiện các yếu tố khác
không đổi và giả định tỷ lệ rời ngành hiện tại là
5% thì khi HHI tăng thêm 1 đơn vị sẽ làm tỷ lệ
rời ngành của doanh nghiệp tăng thêm
0,00001163275%. Hiện nay, các doanh nghiệp
trong ngành dệt may đang tham gia một thị
trường có mức phân tán lớn, điều này giúp khả
năng tồn tại của các doanh nghiệp càng cao. Hơn
thế, điều này còn thể hiện tiềm năng chưa được
khám phá hết của ngành dệt may Việt Nam.
Biến Horizontal thể hiện sự hiện diện của
vốn FDI trong ngành có hệ số hồi quy là -
0,0048943, có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Đây
là một biến quan trọng để xác định tác động của
FDI đối với sự rời ngành của các doanh nghiệp
trong nước. Khác với kỳ vọng ban đầu, kết quả
nghiên cứu chỉ ra hệ số hồi quy mang dấu âm,
nghĩa là thị phần FDI có mối quan hệ nghịch
biến đối với tỷ lệ rời ngành. Cụ thể, trong điều
kiện các yếu tố khác không đổi, khi thị phần
FDI trong ngành tăng lên 1% thì tỷ lệ rời ngành
giảm 0,0002%, với giả định tỷ lệ doanh nghiệp
rời ngành hiện tại là 5%. Mặc dù trái so với kỳ
vọng ban đầu, kết quả nghiên cứu lại phù hợp
với kết luận của Pham (2016) về tác động thu
hút FDI của các doanh nghiệp Việt Nam ở quy
mô nghiên cứu ngành [11], và kết quả nghiên
cứu của Nguyễn Thị Tuệ Anh và cộng sự
(2006) về tác động tích cực của FDI đến sự tồn
tại của các doanh nghiệp trong nước [3].
5. Kết luận và đề xuất khuyến nghị
Nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy
Logistic để phân tích tác động của các nhân tố
đối với sự rời ngành của các doanh nghiệp
N.T.T. Mai, D.Q. Anh / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 28-37
36
trong nước, kết quả cho thấy số năm hoạt động,
quy mô doanh nghiệp, năng suất lao động và
tình trạng xuất nhập khẩu có mối quan hệ
nghịch với tỷ lệ rời ngành của các doanh nghiệp
dệt may Việt Nam. Tuy nhiên, nhân tố FDI lại
không làm gia tăng tỷ lệ rời ngành của các
doanh nghiệp nội địa trong ngành dệt may,
ngược lại giúp nâng cao khả năng tồn tại của
các doanh nghiệp này. Vì vậy, các đề xuất
khuyến nghị được đưa ra nhằm vào hai mục
tiêu chính: làm giảm tỷ lệ rời ngành bằng cách
phát triển các nhân tố đã nghiên cứu và thu hút
thêm FDI vào ngành dệt may Việt Nam để tăng
khả năng tồn tại của các doanh nghiệp nội địa.
5.1. Đối với Chính phủ
Do FDI không có tác động lấn át đối với
doanh nghiệp nội địa, Chính phủ nên có các
chính sách tiếp tục thu hút FDI vào ngành này.
Ngoài ra, Chính phủ nên có chính sách hỗ trợ
nâng cao khả năng tồn tại của doanh nghiệp
thông qua việc tiếp tục đẩy mạnh quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế nói chung và hoạt động
xuất nhập khẩu hàng dệt may nói riêng; đồng
thời thúc đẩy sự phát triển của những doanh
nghiệp non trẻ với chính sách hỗ trợ về vốn, trợ
giúp doanh nghiệp trong quá trình đăng ký và
hoạt động kinh doanh,... Do các doanh nghiệp
dệt may Việt Nam đang tham gia một thị trường
có mức phân tán cao, Chính phủ nên có chính
sách phát triển theo hướng hình thành cụm công
nghiệp dệt may để các doanh nghiệp có thể
được hưởng lợi từ hiệu ứng nền kinh tế
tập trung.
5.2. Đối với các doanh nghiệp dệt may nội địa
Thứ nhất, nhằm nâng cao năng suất lao
động và quy mô nguồn nhân lực, các doanh
nghiệp cần tập trung nâng cao chất lượng lao
động, kể cả đội ngũ cán bộ quản lý và công
nhân, thông qua các hình thức như đào tạo tại
chỗ hay cử đi đào tạo. Bên cạnh đó, các doanh
nghiệp nên có chế độ lương thưởng hấp dẫn,
nâng cao chất lượng môi trường làm việc nhằm
giữ chân và thu hút thêm lao động có chất
lượng, giúp mở rộng quy mô sản xuất.
Thứ hai, các doanh nghiệp cần đổi mới máy
móc thiết bị và hiện đại hóa công nghệ nhằm
tăng năng suất lao động. Hơn nữa, quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế đã khiến cho tiêu chuẩn về
hàng dệt may ngày càng cao. Vì vậy, các doanh
nghiệp cần cập nhật xu hướng thế giới để tránh
bị lạc hậu về mặt công nghệ kỹ thuật, luôn đáp
ứng nhu cầu của thị trường về hàng dệt may.
Thứ ba, các doanh nghiệp cần nâng cao
nghiệp vụ, kỹ năng cho đội ngũ cán bộ kinh
doanh xuất nhập khẩu, đồng thời chủ động
trong việc phát triển ra thị trường thế giới, tìm
kiếm các cơ hội xuất khẩu thông tham gia hoạt
động hội chợ, triển lãm, quảng bá sản phẩm
Thứ tư, các doanh nghiệp có thể tự khắc
phục những thách thức của ngành thông qua
việc tự chủ tìm nguồn cung ứng nguyên vật liệu
ổn định và chất lượng cao, từ đó nâng cao chất
lượng sản phẩm. Các doanh nghiệp cũng có thể
nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh, tham gia
vào khâu mang giá trị cao hơn trong chuỗi giá
trị dệt may toàn cầu.
Bên cạnh những đóng góp, nghiên cứu vẫn
còn tồn tại một số hạn chế. Tác giả sử dụng bộ
số liệu thứ cấp từ điều tra doanh nghiệp của
GSO để đánh giá tác động lấn át của FDI đối
với các doanh nghiệp dệt may trong nước, điều
này có nghĩa rằng nghiên cứu đang sử dụng các
con số trung bình. Do không trực tiếp thực hiện
điều tra nên nghiên cứu không đánh giá hết
được sự chính xác của những con số. Do vậy,
kết luận từ kết quả hồi quy có thể sẽ bị thiên
lệch. Hơn nữa, do khả năng có hạn nên tác giả
chỉ xử lý số liệu đến năm 2015. Bên cạnh đó,
nghiên cứu chỉ tập trung vào tác động của FDI
đối với ngành công nghiệp dệt may và những đề
xuất khuyến nghị chỉ mang tính tham khảo. Để
đưa ra giải pháp cụ thể cho các vấn đề còn tồn
tại thì đòi hỏi cần có những phân tích sâu hơn
trong các nghiên cứu tiếp theo.
Tài liệu tham khảo
[1] National Business Registration Portal, “Statistics
on Business Registraion”, Available at:
https://dangkykinhdoanh.gov.vn/vn/Pages/Trangc
hu.aspx, 2020 (accessed 30 September 2020)
(in Vietnamese).
N.T.T. Mai, D.Q. Anh / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 28-37
37
[2] General Statistics Office of Vietnam, Enterprise
Survey Data for the period 2009-2015
(2010-2016).
[3] N.T.T. Anh, V.X.N. Hong, T.T. Thang, N.M. Hai,
“The impact of foreign direct investment on
Vietnam's economic growth: CIEM and SIDA”,
KhoaHoc/2005/RRFDITang_truongKTvietnames
e_233.pdf, 2006 (accessed 15 September 2020)
(in Vietnamese).
[4] P.Q. Sang, P.T.B. Ngoc, P.D. Long, “The
crowding out effect of FDI on the exit of domestic
enterprises”, Journal of Science and Technology
17(4) (2014) 57-68 (in Vietnamese).
[5] H. Görg, D. Greenaway, “Much ado about
nothing? Do domestic firms really benefit from
foreign direct investment?”, The World Bank
Research Observer 19(2) (2004) 171-197.
[6] M. Blomström, A. Kokko, “Multinational
corporations and spillovers”, Journal of Economic
Surveys 12(3) (1998) 247-277.
[7] C. Franco, J.P. Weche Gelübcke, “The Death of G
erman Firms: What Role for Foreign Direct
Investment?”, The World Economy 38(4) (2015a)
677-703.
[8] N.J. Freeman, “Foreign direct investment in
Vietnam: An overview”, DFIP Workshop on
Globalisation and Poverty in Vietnam, Hanoi, 2002.
[9] T.P.H. Nguyen, Foreign direct investment and its
contributions to economic growth and poverty
reduction in Vietnam (1986-2001), Peter Lang
Pub Inc., 2004.
[10] D.N. Phuc, “Foreign Direct Investment in
Vietnam - Current Situation, Issues and
Prospects”, Journal of Economic Research, 315
(2004) (in Vietnamese).
[11] H.T.M. Pham, “Foreign direct investment,
productivity and crowding-out: Dynamic panel
evidence on Vietnamese firms”, Paper presented
at the Proceedings of Economics and Finance
Conferences International Institute of Social and
Economic Sciences, 2016.
[12] N. Kumar, J.P. Pradhan, “Foreign Direct
Investment, Externalties and Economic Growth in
Developing Countries: Some Empirical
Explorations and Implications for WTO
Negotiations on Investment”, Research and
Information System for the Non-aligned and
Other Developing Countries, 2002.
[13] R. Alvarez, H. Görg, “Multinationals and plant
exit: Evidence from Chile”, International Review
of Economics & Finance. 18(1) (2009) 45-51.
[14] A. Ferragina, R. Pittiglio, F. Reganati, The impact
of FDI on firm survival in Italy: FIW Working
Paper, 2009.
[15] R. Bandick, “Multinationals and plant survival”,
Review of World Economics 146(4) (2010)
609-634.
[16] D. Fackler, C. Schnabel, J. Wagner,
“Establishment exits in Germany: The role of size
and age”, Small Business Economics 41(3) (2013)
683-700.
[17] D.B. Audretsch, T. Mahmood, “New firm
survival: New results using a hazard function”,
The Review of Economics and Statistics 71(1)
(1995) 97-103.
[18] J. Mata, P. Portugal, “Life duration of new firms”,
The Journal of Industrial Economics 42(3) (1994)
227-245.
[19] J. Wagner, “Exports, imports and firm survival:
First evidence for manufacturing enterprises in
Germany”, Review of World Economics 149(1)
(2013) 113-130.
[20] S.B. Javorcik, “Does foreign direct investment
increase the productivity of domestic firms? In
search of spillovers through backward linkages”,
American Economic Review 94(3) (2004)
605-627.
[21] H. Görg, E. Strobl, “Multinational companies,
technology spillovers and plant survival”,
Scandinavian Journal of Economics 105(4) (2003)
581-595.
p
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tac_dong_lan_at_cua_fdi_den_su_roi_nganh_cua_doanh_nghiep_no.pdf