Trong nghiên lần này chúng tôi thấy tỉ lệ tắc
động mạch chủ bụng cao khá thường gặp với 2/9
trường hợp tắc sát động mạch thận. Những
trường hợp tắc cao này có tiên lượng xấu hơn
nhiều so với các trường hợp chỉ tổn thương ở
vùng chia đôi động mạch chủ chậu.
Về điều trị, cho tới nay phẫu thuật vẫn giữ
một vị trí quan trọng, mặc dù các thủ thuật can
thiệp nội mạch đã được áp dụng một cách rộng
rãi. Theo Rholl và Breda(011) khả năng can thiệp
nội mạch thành công cho hẹp động mạch chủ lên
tới 95%, và 20 % bị hẹp tái phát sau 5 năm. Tuy
nhiên phương pháp nong và đặt stent động
mạch chủ chỉ có thể áp dụng cho những trường
hợp hẹp động mạch, những trường hợp tắc đoạn
dài như trong nghiên cứu của chúng tôi không
còn chỉ định cho can thiệp nội mạch.
Tùy thuộc vị trí động mạch chủ tắc và thể
trạng của bệnh nhân mà chúng ta chọn lựa
phương pháp phẫu thuật thích hợp. Phẫu thuật
cầu nối động mạch nách đùi là phương pháp
được chọn cho những trường hợp thể trạng
bệnh nhân kém có nguy cơ cao(6,9,10).
Phẫu thuật cầu nối động mạch chủ ngực – 2
động mạch đùi là phương pháp an toàn và hiệu
quả cho những trường hợp tắc động mạch chủ
cao ngang động mạch thận(12,13).
Những trường hợp tắc động mạch chủ dưới
động mạch thận nên được làm cầu nối động
mạch chủ chậu hoặc chủ đùi 2 bên. Ngày nay
một số trung tâm đã tiến hành phẫu thuật cầu
nối chủ bụng – đùi 2 bên qua nội soi ổ bụng(14).
Kết quả điều trị của chúng tôi rất khả quan, tỉ
lệ tử vong chung là 2,2%, và bệnh nhân tử vong
do bệnh lý kết hợp. Các báo cáo cho thấy phẫu
thuật cho tỉ lệ thành công cao 98% - 100% và tỉ lệ
hẹp tái phát thấp 5 – 10 % sau 5 năm. Chúng tôi
ghi nhận 1 trường hợp hẹp miệng nối xa tái phát
do tăng sinh nội mạc động mạch phải phẫu
thuật tạo lại miệng nối mới.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 172 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tắc động mạch chủ chậu mạn tính: Chẩn đoán và điều trị phẫu thuật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 377
TẮC ĐỘNG MẠCH CHỦ CHẬU MẠN TÍNH:
CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT
Đỗ Kim Quế*, Nguyễn Anh Trung*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tắc động mạch chủ chậu mạn tính (TĐMCCMT) là một bệnh lý khá thường gặp, nguyên nhân
chính là do xơ vữa động mạch. Đa số bệnh được phát hiện vào giai đoạn muộn đã có hoại tử chi nên thường gây
hậu quả nghiêm trọng cho người bệnh.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá đặc điểm tắc động mạch chủ chậu, các phương pháp chẩn đoán và điều trị
phẫu thuật cũng như kết quả điều trị.
Phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu mô tả hang loạt ca, đánh giá các đặc điểm về tuổi, giới tính, vị trí và
mức độ của hẹp tắc động mạch chủ chậu. CT scan và X quang động mạch được áp dụng cho tất cảc các trường
hợp để chẩn đoán tắc động mạch chủ chậu. Phẫu thuật bắc cầu nối động mạch chủ ngực - động mạch đùi cho
những trường hợp tắc ngang động mạch thận. Phẫu thuật bắc cầu nối động mạch chủ bụng động mạch chậu/ đùi
cho những trường hợp tắc dưới động mạch thận. Phẫu thuật cầu nối động mạch nách – đùi hoặc đùi - đùi cho
những trường hợp thể trạng yếu, nguy cơ phẫu thuật cao.
Kết quả: Trong thời gian 10 năm từ 1/2004 – 1/2014 có 46 trường hợp tắc động mạch chủ chậu được điều
trị tại Bệnh viện Thống nhất. Tuổi trung bình là 65,7 nhỏ nhất là 32 và lớn nhất là 81 tuổi. Có 39 nam và 7 nữ. 7
trường hợp tắc động mạch chủ bung dưới động mạch thận và 2 trường hợp tắc ngang động mạch thận. 37 trưởng
hợp tắc động mạch chậu. 42 trường hợp tắc do xơ vữa động mạch, 4 trường hợp có nguyên nhân do viêm xơ hóa
động mạch chủ. 18 trường hợp vào viện với tổn thương loét hoặc hoại tủ ở chân. Phẫu thuật cầu nối động mạch
chủ ngực – động mạch đùi 2 bên được áp dụng cho 2 trường hợp, cầu nối động mạch chủ bụng động mạch chậu 2
bên cho 2 trường hợp, động mạch chủ bụng động mạch đùi 2 bên cho 5 trường hợp. Cầu nối động mạch nách –
đùi trong 8 trường hợp, Cầu nối động mạch đùi - đùi (chéo bên) cho 4 trường hợp. 15 trường hợp được thực hiện
phẫu thuật cầu nối động mạch chậu – đùi. 10 trường hợp được can thiệp nội mạch nong và/hoặc đặt stent động
mạch. Kết quả điều trị sớm: 1 trường hợp tử vong do nhồi máu cơ tim sau mổ, 3 trưòng hợp phải đoạn chi, các
trường hợp còn lại đạt kết quả tốt.
Kết luận: Tắc động mạch chủ chậu có tần suất ngày càng thường gặp, MSCT và X quang động mạch là phương pháp
chẩn đoán hiệu quả. Phẫu thuật bắc cầu nối là phương pháp điều trị an toàn và cho kết quả tốt.
Từ khóa: Tắc động mạch, động mạch chủ chậu, cầu nối động mạch. Cầu nối động mạch ngoài giải phẫu.
SUMMARY
AORTO ILIAC ARTERY STENOSIS: DIAGNOSIS AND MANAGEMENT
Do Kim Que, Nguyen Anh Trung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - No 3- 2014: 377 - 382
Background: Aorto iliac stenosis is a quite common disease, the main cause is atherosclerosis. Almost patient
admit in late stage with ulceration or necrosis.
Aim: Eveluate the characteristics of aortoiliac artery stenosis, diagnostic methods and surgical therapy and
its result.
Methods: Prospective research is performed to eveluate on age, gender, site and severity of aortoiliac artery
* Bệnh viện Thống Nhất.
Tác giả liên lạc: Đỗ Kim Quế ĐT: 0913977628 Email: dokimque@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 378
stenosis. Multi sliced CT scanner and angiography are the main methods to diagnose. Thoracic aorto bifemoral
bypass operation indicate for juxtarenal aortic occlusion, Abdominal aorto – bi femoral / biiliac bypass for
infrarenal occlusion. Extra anatomic bypass were indicated for high risk patient. PTA and/or stenting for TASK
A.
Results: There are 46 patients who have aortoiliac artery stenosis were treated in Thong nhat hospital during 10 years
from 1/2004 to 1/2014. Mean age is 65,7 (range 32 – 81). Thirtynine of them are male. 2 cases have juxtarenal aortic occlusion
and 8 patients have infrarenal aortic occlusion. Arterosclerosis affect in 42 cases. Eighteen of them admitted with necrosis of
their foot. Thoracic aorto bifemoral bypass operation is carried out in 2 cases, Abdominal aorto – bi femoral bypass in 5 and
abdominal - biiliac bypass in 2 patients 10 cases underwent PTA and/or stenting. 15 cases underwent ilio femoral bypass.
Extraanatomic bypass was performed in 12 cases. One patient die due to acute myocardial infarction and amputation need in 3
patients.
Conclusion: Aortoiliac artery stenosis is more frequently day by day. Aorto bifemoral/biiliac bypass is the safe and
effective operation to treat.
Key words: Arterial occlusion, Aortoiliac artery, Arterial bypass, extraanatomic arterial bypass
MỞ ĐẦU
Tắc động mạch chủ chậu bụng mạn tính là
một tổn thương tương đối thường gặp, nguyên
nhân thường gặp là xơ vữa động mạch, viêm xơ
hóa và bệnh Takayashu. Đa số bệnh nhân tới
khám vì các dấu hiệu thiếu máu nuôi mạn tính 2
chân(2,5).
Chẩn đoán tắc động mạch chủ mạn tính dựa
trên lâm sàng với biểu hiện đau cách hồi ở giai
đoạn sớm hoặc loét hoại tử chi ở giai đoạn
muộn. Siêu âm Doppler là phương tiện chẩn
đoán không chảy máu. Gần đây với chụp CT đa
lớp cắt (Multislice) cho phép đánh giá chính xác
các tổn thương của động mạch chủ và các nhánh
của nó. X quang động mạch vẫn là tiêu chuẩn
chẩn đoán vàng các thương tổn mạch máu nói
chung và tắc động mạch chủ bụng nói riêng,
ngoài ra trong những trường hợp chọn lọc có thể
điều trị với các thủ thuật nội mạch như nong và
đặt stent(3,4,9).
Phẫu thuật cầu nối động mạch vẫn là
phương pháp điều trị chính cho những trường
hợp hẹp / tắc động mạch chủ với kết quả dài
hạn rất tốt. Gần đây phẫu thuật cầu nối chủ
bụng – đùi 2 bên cũng được thực hiện với nội
soi ổ bụng.
Tại nước ta các nghiên cứu về tắc động mạch
chủ còn khá ít, đa phần bệnh nhân vào viện
trong giai đoạn muộn với các dấu hiệu thiểu
dưỡng, hoặc hoại tử. Nhằm rút ra các đặc điểm
của tắc động mạch chủ bụng mạn tính, phương
pháp chẩn đoán và điều trị phẫu thuật chúng tôi
tiến hành nghiên cứu này.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Toàn bộ bênh nhân bị tắc động mạch chủ
chậu mạn tính được điều trị tại bệnh viện Thống
Nhất từ tháng 01/20047 tới tháng 01 năm 2014.
Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu tiền cứu
mô tả hang loạt ca. Toàn bệnh nhân bị
TĐMCCMT được đánh giá các yếu tố:
Tuổi, giới, trình độ hiểu biết, sự quan tâm tới
bệnh tật.
Về chẩn đoán chúng tôi lưu ý tới triệu chứng
khởi phát, thời gian bệnh, tần suất các triệu
chứng thiếu máu nuôi mạn tính, đánh gía giai
đoạn thiếu máu nuôi chi.
Chúng tôi xác định vị trí động mạch tắc dựa
trên siêu âm Doppler mạch máu màu và/ hoặc
CT scan bụng, X quang động mạch.
Về điều trị: phẫu thuật cầu nối chủ bụng
chậu hoặc đùi 2 bên được chỉ định cho các
trường hợp hẹp động mạch chủ bụng dưới
động mạch thận > 1 cm, các trường hợp hẹp
sát động mạch thận chúng tôi chỉ định phẫu
thuật cầu nối chủ ngực đùi 2 bên. Cầu nối chủ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 379
hoặc chậu - đùi cho bệnh nhân hẹp 1 bên động
mạch đùi. Cầu nối động mạch nách đùi 2 bên
hoặc cầu nối chéo đùi - đùi được chỉ định cho
những trường hợp có thể trạng kém. Nong và
đặt stent động mạch cho bệnh nhân hẹp động
mạch chủ chậu TASC A.
Đánh giá kết quả sớm sau mổ: tỉ lệ tử vong,
nguyên nhân tử vong.
Các biến chứng trong và sau mổ.
Đánh giá kết quả lâu dài: sự cải thiện tình
trạng thiếu máu nuôi chi, Tỉ lệ hẹp/ tắc tái phát.
Số liệu
Tuổi và giới tính
Trong thời gian 10 năm từ 2004 - 2014 chúng
tôi đã điều trị cho 46 bệnh nhân bị TĐMCCMT
trong đó có 39 BN nam và 7 BN nữ, tuổi từ 32
đến 81.
2. Biểu hiện lâm sàng:
Có tới 18 trường hợp vào viện với triệu
chứng hoại tử đầu chi, 22 trường hợp vào viện ở
giai đoạn đau cách hồi, có 6 bệnh nhân phát hiện
tình cờ. 2 bệnh nhân có biểu hiện bất lực, 3 bệnh
nhân teo cơ mông nặng.
Tất cả các trường hợp đều bị mất mạch bẹn 2
bên.
5
10
15
20
25
30
35
Biểu đồ 1: Biểu hiện lâm sàng
Cận lâm sàng
Siêu âm Doppler động mạch cho thấy có
thương tổn xơ vữa tại động mạch chủ trong 18
trường hợp.
Multislice CT cho thấy kết quả chính xác vị
trí và mức độ tắc trong tất cả các trường hợp.
X quang động mạch được thực hiện trong 15
trường hợp. Kết quả của siêu âm duplex, CT đa
lớp cắt và X quang động mạch cho thấy phù hợp
trong tất cả các trường hợp.
Chẩn đoán
Tất cả các trường hợp đều được chẩn đoán
dựa trên lâm sàng và các phương pháp chẩn
đoán hính ảnh học. Có tới 2 BN bị chẩn đoán
nhầm với các bệnh lý khác khi vào viện, trong đó
1 trường hợp chẩn đóan là thoát vị đĩa đệm cột
sống thắt lưng.
Tất cả các trường hợp đều được chẩn đoán
sau khí khởi phát triệu chứng đầu tiên trên 6
tháng.
Vị trí tắc động mạch
Bảng 1: Vị trí tắc động mạch.
Vị trí Số lượng (%)
Đm chủ ngang đm thận 2 (4,3%)
Đm chủ dưới đm thận 7 (15,2%)
Đm chậu 37 (80,5%)
Chúng tôi xác định vị trí tắc động mạch dựa
trên kết quả của X quang động mạch và chụp CT
đa lớp cắt.
2 BN bị tắc động mạch chủ bụng ngang chỗ
xuất phát động mạch thận,
5 BN tắc dưới chỗ xuất phát động mạch thận.
37 bệnh nhân hẹp động mạch chủ và tắc
động mạch chậu.
Nguyên nhân tắc động mạch
Chúng tôi xác định nguyên nhân tắc động
mạch dựa trên kết quả giải phẫu bệnh lý thành
động mạch lấy ra khi phẫu thuật.
42 trường hợp có nguyên nhân do xơ vữa, 4
trường hợp còn lại tắc động mạch do viêm xơ
động mạch.
Điều trị
Cả 46 BN được điều trị phẫu thuật đều được
mổ phục hồi lưu thông động mạch bằng phẫu
thuật cầu nối động mạch.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 380
Hình 1: Phẫu thuật cầu nối chủ ngực – đùi 2 bên
Bảng 2: Các phương pháp phẫu thuật
Phương pháp phẫu thuật Số lượng (%)
Cầu nối chủ ngực – đùi 2 bên 2 (4,3%)
Cầu nối động mạch chủ bụng – chậu 2 bên 2 (4,3%)
Cầu nối động mạch chủ bụng – chậu 2 bên 5 (10,9%)
Cầu nối động mạch chậu – đùi 15 (34,8%)
Cầu nối động mạch nách – đùi 8 (17,4)
Cầu nối động mạch chéo bên đùi - đùi 4 (8,6)
Nong và/hoặc stent động mạch chậu. 10 (21,7)
Cầu nối chủ ngực 2 đùi được áp dụng cho 2
trường hợp, cầu nối chủ bụng 2 động mạch chậu
cho 2 trường hợp, cấu nối động mạch chủ bụng 2
động mạch đùi cho 5 trường hợp.
Cầu nối ngoài giải phẫu nách – đùi 2 bên cho
8 trường hợp,cầu nối chéo bên đùi – đùi cho 4
bệnh nhân.
Nong và/hoặc đặt stent động mạch cho 10
bện nhân.
Kết quả
1 trong 46 BN tử vong chiếm tỉ lệ 2,2%.
Trong 45 BN được cứu sống với có 3 BN phải
đọan chi xa do hoại tử chi, tuy nhiên vùng hoại
tử có giới hạn sau khi làm phẫu thuật cầu nối
mạch máu.
2 trường hợp có bất lực trước mổ phục hồi
khả năng sinh lý tốt.
Theo dõi sau mổ từ 5 tháng 11 năm có 1
trường hợp tử vong, 1 BN bị tắc miệng nối động
mạch đùi sau 9 tháng phải phẫu thuật tái tạo
miệng nối động mạch.
BÀN LUẬN
Mặc dù TĐMCBMT tương đối hiếm gặp
nhưng gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc
sống của bệnh nhân. Đa phần tắc động mạch chủ
xảy ra ở bệnh nhân nam trung niên.
Tắc động mạch chủ bụng thường có tổn
thương động mạch chậu đùi với nhiều mức độ
khác nhau, đa số các tác giả chia hẹp động mạch
chủ thành 3 type(2,1)
Type I tổn thương khu trú tại động mạch chủ
bụng và động mạch chậu chung,
Type II tổn thương lan rộng tới động mạch
chậu ngoài, nhưng không có tổn thương động
mạch đùi.
Type III tổn thương toàn bộ hệ động mạch
chi dưới.
Trong nghiên cứu của chúng tôi có tới 7
trường hợp thuộc type III, kết quả này cũng
tương tự như các nghiên cứu khác như Brewter,
Darling, Nguyễn Hoàng Bình, Trần Quyết
Tiến(8,2,1,7).
Xơ xữa động mạch vẫn là nguyên nhân
chính của tắc động mạch chủ, trong nghiên cứu
của chúng tôi chỉ có 2 trường hợp tắc động mạch
chủ xơ viêm xơ hóa động mạch chủ, 16 trường
hợp còn lại có nguyên nhân xơ vữa.
Tất cả bệnh nhân của chúng tôi đều nhập
viên khi đã có triệu chứng lâm sàng, trong đó tới
10 trường hợp đã có dấu hiệu hoại tử đầu chi.
Theo Brewter và Darling(3) 90% các trường hợp
bệnh lý tắc động mạch chủ chậu có triệu chứng
lâm sàng khi vào viện.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 381
Chẩn đoán tắc động mạch chủ bụng thường
không khó, đa số các trường hợp đều có thể
được xác định chẩn đoán dựa trên lâm sàng, tuy
nhiên để đánh giá chính xác thương tổn và chọn
lựa phương pháp phẫu thuật thích hợp cần chụp
X quang động mạch. Trong 1 – 2 thập niên gần
đây các phương pháp chẩn đoán ít xâm lấn đã
được sử dụng rộng rãi và cho thấy độ nhậy cảm
và độ chuyên biệt cao trong chẩn đoán thương
tổn động mạch chủ bụng.
Chúng tôi nhận thấy, siêu âm Duplex và CT
đa lớp cắt có kết quả phù hợp với X quang động
mạch trong tất cả các trường hợp trong nghiên
cứu này.
Trong nghiên lần này chúng tôi thấy tỉ lệ tắc
động mạch chủ bụng cao khá thường gặp với 2/9
trường hợp tắc sát động mạch thận. Những
trường hợp tắc cao này có tiên lượng xấu hơn
nhiều so với các trường hợp chỉ tổn thương ở
vùng chia đôi động mạch chủ chậu.
Về điều trị, cho tới nay phẫu thuật vẫn giữ
một vị trí quan trọng, mặc dù các thủ thuật can
thiệp nội mạch đã được áp dụng một cách rộng
rãi. Theo Rholl và Breda(011) khả năng can thiệp
nội mạch thành công cho hẹp động mạch chủ lên
tới 95%, và 20 % bị hẹp tái phát sau 5 năm. Tuy
nhiên phương pháp nong và đặt stent động
mạch chủ chỉ có thể áp dụng cho những trường
hợp hẹp động mạch, những trường hợp tắc đoạn
dài như trong nghiên cứu của chúng tôi không
còn chỉ định cho can thiệp nội mạch.
Tùy thuộc vị trí động mạch chủ tắc và thể
trạng của bệnh nhân mà chúng ta chọn lựa
phương pháp phẫu thuật thích hợp. Phẫu thuật
cầu nối động mạch nách đùi là phương pháp
được chọn cho những trường hợp thể trạng
bệnh nhân kém có nguy cơ cao(6,9,10).
Phẫu thuật cầu nối động mạch chủ ngực – 2
động mạch đùi là phương pháp an toàn và hiệu
quả cho những trường hợp tắc động mạch chủ
cao ngang động mạch thận(12,13).
Những trường hợp tắc động mạch chủ dưới
động mạch thận nên được làm cầu nối động
mạch chủ chậu hoặc chủ đùi 2 bên. Ngày nay
một số trung tâm đã tiến hành phẫu thuật cầu
nối chủ bụng – đùi 2 bên qua nội soi ổ bụng(14).
Kết quả điều trị của chúng tôi rất khả quan, tỉ
lệ tử vong chung là 2,2%, và bệnh nhân tử vong
do bệnh lý kết hợp. Các báo cáo cho thấy phẫu
thuật cho tỉ lệ thành công cao 98% - 100% và tỉ lệ
hẹp tái phát thấp 5 – 10 % sau 5 năm. Chúng tôi
ghi nhận 1 trường hợp hẹp miệng nối xa tái phát
do tăng sinh nội mạc động mạch phải phẫu
thuật tạo lại miệng nối mới.
KẾT LUẬN
TĐMCCMT vẫn còn là một bệnh lý khó xử
trí, tỉ lệ bệnh nhân vào viện muộn với chi hoại tử
còn cao. Chẩn đoán thường không khó, tuy
nhiên cần đánh giá kỹ vị trí và tình trạng mạch
máu ngoại biên trước khi chọn lựa phương pháp
điều trị cho bệnh nhân.
Duplex và CT đa lớp cắt có độ nhậy và độ
chuyên cao trong chẩn đoán tắc động mạch chủ
bụng mạn tính.
Phẫu thuật cầu nối động mạch chủ – chậu
hoặc chủ – đùi cho kết quả điều trị mỹ mãn cho
bệnh nhân.
Những trường hợp hẹp động mạch đoạn
ngắn can thiệp nội mạch là phương pháp điều trị
hiệu quả, tuy nhiên chi phí còn cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Brewter DC. Clinical and anatomic considerations for surgery in
aortoiliac disease and results of the surgical treatment.
Circulation 83(suppl I): I 42, 1991.
2. Brewter DC. Direct reconstruction for aortoiliac occlusive
disease. In Vascular surgery 6th Ed. Elservier Saunder Inc. 2005 p.
1106 – 1136.
3. Elkouri S Hudon G, Demers P et al. Early and long term results
of percutaneous transluminal angioplasty of the lower
abdominal aorta. J Vasc Surg 30: 679, 1999.
4. Hood DB, Hodgson KJ. Percutaneous transluminal angioplasty
and stenting for iliac artery occlusive disease. Surg Clin North
Am 79: 575, 1999
5. Horowitz JD, Durham JR. Surgical managenment of aortoiliac
occlusive disease. In Vascular disease Interventional and
surgical treatment. Churchill Livingstone Inc. 1994 p. 466 – 478.
6. Jovanović M, Jovanović J, Rančić Z, Stanojević G, Milić D,
Stojanović M. Revascularization of high-rik aortoilicac
occlussion. Medicine and Biology. 2005, 12(1): 33 – 36.
7. Massoun H., Gunther HJ., Hohner E., Storz LW.: Das akute
Leriche syndrom. Angio 1990, 12(2): 37-42.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 382
8. Nguyễn Hoàng Bình, Trần Quyết Tiến. Điều trị ngoại khoa tắc
động mạch chủ bụng – động mạch chậu mạn tính. Y học TP. Hồ
Chí Minh. 9 (phụ bản 1): 74 – 82, 2005.
9. Pai M, Handa A, Hands L, Collin J. Femoro-femoral arterial
bypass is an effective and durable treatment for symptomatic
unilateral iliac artery occlusion. Ann R Coll Surg Engl 2003; 85:
88–90.
10. Passman MA, Taylor LM Jr., Moneta GL, Edwards JM, Yeager
RA, McConnell DB, Porter JM. Axillofemoral and aortofemoral
bypass for aortoiliac, J Vasc Surg 1998, 23(2): 263-71.
11. Rholl KS, Breda A. Percutaneous intervention for Aortoiliac
disease. In Vascular disease Interventional and surgical
treatment. Churchill Livingstone Inc. 1994 p. 433 – 466
12. Sarıkaya S, Aksoy E, Taşar M, Elibol A, Şişmanoğlu M, Fedakar
A, Kırali K. Thoracic aortofemoral artery bypass: an alternative
procedure for initial treatment of critical aortoiliac occlusive
disease. Türk Göğüs Kalp Damar Cerrahisi Dergisi 2013;21(1):49-53.
13. Tadahiro Sasajima T, Inaba M, Azuma N, Akasaka N, Asada H,
Uchida H, Sasajima Y, Goh K. Novel anastomotic method
enables aortofemoral bypass for patients with porcelain aorta. J
Vasc Surg 2002;35:1016-9.
14. Thaveau F, Dion YM, de Wailly GW, Dumont M, Laroche M.
Early transient hydronephrosis after laparoscopic aortobifemoral
bypass grafting. J Vasc Surg 2003;38:603-8.
Ngày nhận bài báo: 01-05-2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 11-05-2014
Ngày bài báo được đăng: 20-05-2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tac_dong_mach_chu_chau_man_tinh_chan_doan_va_dieu_tri_phau_t.pdf