Kết luận
Từ kết quả phân tích trên, có thể thấy
việc sử dụng các phương pháp tác động
tâm lý trong khi tiến hành các hoạt động
điều tra như hỏi cung bị can, lấy lời khai
nạn nhân trong vụ án mua bán người rất
quan trọng. Điều tra viên tùy vào những
trường hợp cụ thể có thể sử dụng những
phương pháp tác động tâm lý như: phương
pháp truyền đạt thông tin, phương pháp
thuyết phục, phương pháp đặt và thay đổi
vấn đề tư duy, phương pháp giao tiếp có
điều khiển và phương pháp ám thị gián
tiếp để tác động đến tâm lý của các đối
tượng nhằm giúp họ có sự thay đổi về
nhận thức, từ đó điều chỉnh hành vi khai
báo cho phù hợp. Việc sử dụng các phương
pháp tác động tâm lý trong khi tiến hành
điều tra vụ án mua bán người cần tuân thủ
các nguyên tắc tác động tâm lý và cần có
sự chuẩn bị kỹ lưỡng mới đem lại hiệu quả
cao. Cùng với đó, để quá trình tác động
tâm lý có hiệu quả, cần có sự kết hợp linh
hoạt giữa các phương pháp và cần kết hợp
với một số thủ thuật được sử dụng trong
quá trình điều tra.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 259 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động tâm lý của điều tra viên trong hoạt động điều tra vụ án mua bán người, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
57Số chuyên đề 2 - 2020 Khoa học Kiểm sát
TÁC ĐỘNG TÂM LÝ CỦA ĐIỀU TRA VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG...
ĐIỀU TRA VỤ ÁN MUA BÁN NGƯỜI
TRẦN THỊ THANH*
Vụ án mua bán người có một số đặc điểm đặc trưng là hiện trường không tập trung,
ít hoặc không có nhân chứng, khó thu thập thông tin về quá trình phạm tội bởi người
phạm tội thường dẫn dụ một cách trực tiếp mà không để lại chứng cứ. Trong khi đó,
việc tìm ra chứng cứ là yếu tố quyết định để đấu tranh với tội phạm này. Do vậy, khi
tiến hành các hoạt động điều tra nói chung, hoạt động hỏi cung bị can, lấy lời khai nạn
nhân nói riêng, Điều tra viên cần có sự chuẩn bị kĩ lưỡng về nội dung và phương pháp
tác động tâm lý để việc xét hỏi không làm tổn thương thêm những người bị xét hỏi và
thu được thông tin quan trọng nhằm giải quyết vụ án.
Từ khóa: Tác động tâm lý, mua bán người, lấy lời khai nạn nhân, hỏi cung bị can.
Ngày nhận bài: 08/7/2020; Ngày biên tập xong: 12/7/2020; Ngày duyệt đăng: 12/7/2020
Human trafficking cases have some features like unfocused scene, few or no
witnesses, difficulties in collecting information on the criminal process because
offenders often lure victims directly without leaving evidence. Meanwhile, finding
evidence is a decisive factor to fight against this crime. Therefore, when conducting
investigative activities in general, taking suspect’s interrogation and victim’s
testimonies in particular, Investigators need to prepare carefully in terms of content
and psychological impact methods so that interrogation does not hurt interrogated
person and gets important information to resolve the case.
Keywords: Psychological impact, human trafficking, taking victim’s testimony,
suspect’s interrogation.
1. Đặt vấn đề
Theo Từ điển tiếng Việt, “Tác động" là
"làm cho một đối tượng nào đó có những biến
đổi nhất định”, tức bất kể kích thích nào gây
ra sự biến đổi (nội dung, tính chất, hình
dạng, kích thước) của đối tượng đều
được coi là tác động. Tác động có thể kèm
theo mục đích định trước, được gọi là tác
động tự giác, nhưng cũng có thể là những
tác động tự nhiên, hay tác động thành nhiều
hình thức khác nhau, trong đó tác động
đến con người là hình thức phức tạp nhất.
Trong Từ điển tâm lý học, A.V.Pêtơrôpxki
và M.G.Iarôsepxki đã giải thích rằng “Tác
động là sự chuyển dịch có định hướng các vận
động hoặc thông tin từ thành viên này đến các
thành viên khác tham gia tương tác. Tác động có
thể mang tính trực tiếp khi vận động và thông
tin hàm chứa trong đó được thể hiện dưới xung
vận động (chẳng hạn như: động chạm, đánh)
hoặc mang tính gián tiếp khi thông tin và xung
vận động được thể hiện dưới dạng tổ hợp các
tín hiệu thông báo về một điều gì đó, mức độ
thay đổi về trạng thái và hành vi của chủ thể
mà tác động hướng tới, có thể đánh giá được
mức độ ảnh hưởng của chủ thể tác động”.1
Như vậy, khi đối tượng của tác động là con
người thì cơ chế biến đổi của sự tác động
không còn đơn giản chỉ là những phản ứng
tương ứng mà mọi tác động từ bên ngoài
đều phải thông qua ý thức chủ quan, sự lựa
chọn, tiếp nhận của họ. Một số nhà khoa
học khi nghiên cứu về tác động tâm lý cũng
cho rằng tác động tâm lý là hoạt động tích
cực và chủ động của con người, biểu thị
phương thức tác động của cá nhân hay của
* Tiến sĩ, Khoa Tội phạm học và Điều tra tội
phạm, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
58 Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2020
TÁC ĐỘNG TÂM LÝ CỦA ĐIỀU TRA VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG...
bộ phận người này đến một cá nhân hay
một bộ phận người khác trên phương diện
tâm lý nhằm làm chuyển biến, hình thành
hay xóa bỏ những đặc điểm nào đó trong
đời sống tâm lý của họ.
Dưới khía cạnh của khoa học tâm lý,
hoạt động điều tra hình sự là quá trình tái
tạo lại sự việc phạm tội đã xảy ra trong quá
khứ, căn cứ vào những dấu vết, những
chứng cứ, những tài liệu đã thu thập được.
Đây là hoạt động tích cực của Điều tra viên,
mà cốt lõi là xác định sự thật về vụ án, về
người thực hiện hành vi phạm tội thông qua
biện pháp tố tụng. Trong hoạt động điều tra,
các cán bộ điều tra không những phải huy
động khả năng trí tuệ của mình để định
hướng hoạt động điều tra, thu thập tin tức,
tài liệu, chứng cứ của vụ án mà còn phải tích
cực suy nghĩ, tìm ra sự thật khách quan của
vụ án. Hoạt động điều tra bao gồm các hoạt
động: bắt người phạm tội; khám xét người,
đồ vật, nơi ở, thư tín; khám nghiệm hiện
trường, hỏi cung bị can, lấy lời khai người
làm chứng người bị hại; tổ chức nhận dạng;
đối chất; thực nghiệm điều tra; giám định...
Để tiến hành hoạt động điều tra hiệu quả,
đòi hỏi Điều tra viên phải hiểu được đặc
điểm tâm lý của các chủ thể tham gia để từ
đó có những cách thức, biện pháp tác động
tâm lý cho phù hợp, hiệu quả, đạt được mục
đích trong từng hoạt động điều tra.
Khái niệm buôn bán người được quy
định khá chi tiết tại Điều 3 Nghị định thư
Palermo và được cộng đồng quốc tế thừa
nhận: Buôn bán người được hiểu là việc tuyển
mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp và tiếp
nhận người nhằm mục đích bóc lột bằng cách đe
dọa, sử dụng vũ lực hay các hình thức ép buộc, bắt
cóc, lừa gạt, man trá, lạm dụng quyền lực hoặc vị
thế dễ bị tổn thương hay bằng việc cho hoặc nhận
tiền hay lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một
người kiểm soát đối với những người khác vì mục
đích bóc lột. Pháp luật Việt Nam quy định về
tội mua bán người và các tội danh liên quan
theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015
tại Điều 150 – Tội mua bán người, Điều 151 –
Tội mua bán người dưới 16 tuổi và Điều 297
– Tội cưỡng bức lao động là tội có liên quan
đến mua bán người. Mặc dù pháp luật Việt
Nam không dùng cụm từ "buôn bán người"
mà vẫn dùng cụm từ "mua bán người"
nhưng về cơ bản, nội dung trong các điều
luật đã được thay đổi cho phù hợp với tinh
thần của Nghị định thư Palermo, đáp ứng
yêu cầu hội nhập quốc tế. Ở Việt Nam, mua
bán người xảy ra ở tất cả 63 tỉnh, thành trên
cả nước, tuy nhiên một số tỉnh được ghi nhận
là điểm nóng về tội phạm mua bán người
gồm: Lào Cai, Hà Giang, Lai Châu, Lạng
Sơn, Nghệ An, Hà Nội, Điện Biên, Quảng
Ninh Việc tập trung này cũng phản ánh
một thực tế rằng, trong giai đoạn 2011 - 2015,
phần lớn các trường hợp mua bán người ở
Việt Nam bị truy tố liên quan tới việc các nạn
nhân bị mua bán sang Trung Quốc (70%),
Campuchia (10%) và Lào (6%). Theo báo cáo
Chương trình Hành động Quốc gia phòng,
chống mua bán người giai đoạn 2011 - 2015
của Bộ Công an, trong 05 năm này, có 4.495
nạn nhân bị mua bán được phát hiện1. Theo
thống kê, các vụ án mua bán người ở Việt
Nam đã bị phát hiện, truy tố chủ yếu là vì
mục đích bóc lột tình dục. Các đối tượng
phạm tội trong các vụ án mua bán người
thường lưu manh chuyên nghiệp, có tiền
án, tiền sự về tội phạm mua bán người. Về
thủ đoạn, các đối tượng phạm tội thường rất
tinh vi, cấu kết với những đối tượng ở vùng
sâu, vùng xa, và vùng biên giới tạo thành
đường dây khép kín để lôi kéo, lừa gạt nạn
nhân. Một số đối tượng là người nước ngoài,
chủ yếu là công dân Trung Quốc, Hàn Quốc,
Đài Loan (thuộc Trung Quốc), Malaysia, v.v.
thông qua công ty môi giới vào Việt Nam
dưới dạng thăm quan, du lịch, hoạt động
kinh doanh rồi móc nối, cấu kết với môi giới
người Việt Nam, dẫn dắt hình thành những
đường dây mua bán người xuyên quốc gia,
quốc tế dưới dạng đưa người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài, cho nhận con
nuôi, kết hôn giả, v.v. rồi đưa ra nước ngoài
1 Ban chỉ đạo 138/CP, Báo cáo số 439/BC-BCĐ
ngày 10/12/2015 về Tổng kết thực hiện Chương
trình hành động phòng, chống tội phạm mua bán
người giai đoạn 2011 - 2015, tr 2.
59Số chuyên đề 2 - 2020 Khoa học Kiểm sát
TRẦN THỊ THANH
bán. Bên cạnh đó, còn một số người từng là
nạn nhân hoặc lấy chồng người nước ngoài,
khi về thăm quê hoặc trốn về lại trở thành
thủ phạm dụ dỗ, lừa bán những người khác,
kể cả người thân trong gia đình bán ra nước
ngoài. Có những đối tượng chuyên làm ăn
buôn bán qua lại biên giới hay kinh doanh
dịch vụ ở dọc biên giới, do thông thuộc địa
bàn hoặc lợi dụng sơ hở trong công tác quản
lý biên giới, đã lừa nạn nhân ra nước ngoài
bán. Với những đối tượng này, việc thu thập
thông tin về quá trình phạm tội qua lời khai
của họ không dễ, trong khi đó một trong
những cách thức để giải quyết những vụ
án mua bán người lại phụ thuộc rất nhiều
vào lời khai của đối tượng phạm tội và lời
khai của nạn nhân. Chính vì vậy, việc tìm
hiểu tâm lý, đặc điểm nhân thân về từng đối
tượng có ý nghĩa quan trọng để giúp Điều
tra viên áp dụng các chiến thuật, biện pháp
tác động tâm lý phù hợp.
Xuất phát từ những nội dung phân tích
ở trên, có thể hiểu tác động tâm lý của Điều
tra viên trong hoạt động điều tra các vụ án mua
bán người là những cách thức, biện pháp có tổ
chức, có kế hoạch mà Điều tra viên sử dụng
trong khi tiến hành các hoạt động điều tra (hỏi
cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, lấy
lời khai nạn nhân, đối chất...) nhằm mục đích
làm thay đổi, hình thành, hay xóa bỏ hiện tượng
tâm lý nào đó ở chủ thể tham gia giúp họ khai
báo trung thực, đầy đủ và chính xác về hành
vi, mục đích, phương pháp phạm tội mua bán
người cũng như các tình tiết khác của vụ án.
Hoạt động điều tra vụ án mua bán
người được tiến hành bằng nhiều biện
pháp khác nhau. Bài viết này chỉ tập trung
vào phân tích tác động tâm lý của Điều tra
viên khi tiến hành hoạt động hỏi cung bị
can, hoạt động lấy lời khai nạn nhân của tội
phạm mua bán người.
2. Cơ sở tác động tâm lý của Điều tra
viên trong hoạt động điều tra vụ án mua
bán người
Hiện nay, có một số quan điểm khác
nhau về hệ thống các phương pháp tác
động tâm lý sử dụng trong giải quyết vụ
án hình sự. Cụ thể, trong tập 5 “Tâm lý học
hình sự” thuộc Bộ khoa học hình sự, Học
viện Cảnh sát nhân dân, khi bàn về các
phương pháp tác động tâm lý trong hoạt
động điều tra hình sự cũng đã chỉ ra một
số phương pháp tác động như: Phương
pháp thuyết phục, phương pháp truyền đạt
thông tin, phương pháp hướng dẫn tư duy,
phương pháp ám thị gián tiếp, phương
pháp tác động tâm lý bằng gợi nhớ. Về bản
chất, phương pháp gợi nhớ ở đây gần giống
với phương pháp truyền đạt thông tin, bởi
nhóm tác giả đã định nghĩa phương pháp
gợi nhớ là phương pháp làm sống lại, xuất
hiện lại trong đầu óc người bị tác động
những vấn đề hay tình tiết của vụ án mà họ
đã bị quên, bằng cách đưa ra những thông
tin có liên quan đến vấn đề đó. Như vậy,
giữa hai phương pháp này có sự gần nhau
về cách thức, vì vậy có thể gộp lại với nhau
thành một phương pháp21.
Giáo trình Tâm lý tư pháp của Trường
Đại học Luật Hà Nội đã đề cập đến các hệ
thống phương pháp tác động tâm lý sử dụng
quá trong trình giải quyết vụ án hình sự mà
các chủ thể tiến hành có thể sử dụng gồm:
Phương pháp truyền đạt thông tin, phương
pháp thuyết phục, phương pháp giao tiếp
tâm lý có điều khiển, phương pháp đặt và
thay đổi vấn đề tư duy, phương pháp ám
thị gián tiếp và phương pháp mệnh lệnh32.
Trong trường hợp để tác động đến
những chủ thể tham gia như bị can, nạn
nhân, người làm chứng trong vụ án mua
bán người, Điều tra viên có thể sử dụng
một số phương pháp tác động tâm lý sau:
Một là, phương pháp truyền đạt
thông tin
Phương pháp truyền đạt thông tin là
phương pháp Điều tra viên sử dụng những
thông tin có liên quan đến các vấn đề bị can
đang quan tâm để tác động đến họ, làm
thay đổi nhận thức, làm xuất hiện những
2 Nguyễn Xuân Yêm (Chủ biên) (2013), Tâm lý học
hình sự, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
3 Đặng Thanh Nga (Chủ biên) (2008), Giáo trình tâm
lý học tư pháp, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
60 Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2020
TÁC ĐỘNG TÂM LÝ CỦA ĐIỀU TRA VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG...
cảm xúc nhất định và dẫn đến những thay
đổi trong thái độ và hành vi của bị can, đáp
ứng yêu cầu của hoạt động hỏi cung bị can.
Điều tra viên có thể sử dụng nhiều phương
thức truyền đạt thông tin đến người bị tác
động như tác động bằng ngôn ngữ nói, bằng
ngôn ngữ viết, có thể dùng tài liệu, hình
ảnh, băng hình, băng ghi âm hoặc những
đồ vật cụ thể Hình thức truyền đạt thông
tin cũng có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp.
Phương pháp truyền đạt thông tin
thường được sử dụng trong những trường
hợp sau:
- Khi cần làm tăng tri thức, hiểu biết
của người tiếp nhận thông tin. Ví dụ trong
hoạt động hỏi cung bị can, nếu là hỏi cung
lần đầu, Điều tra viên tiến hành hỏi cung
cần phải phổ biến quyền và nghĩa vụ của
bị can.
- Khi cần giúp người tham gia tố
tụng tái hiện những tình tiết bị quên hoặc
nhầm lẫn. Việc tiếp nhận thông tin sẽ làm
tích cực hoá hoạt động trí tuệ của người
tham gia tố tụng, làm xuất hiện trong đầu
óc họ những liên tưởng, tạo khả năng nhớ
lại tình tiết bị quên.
- Khi cần làm thay đổi thái độ, lập
trường của người tham gia tố tụng. Việc
cung cấp thông tin tạo điều kiện để người
tham gia tố tụng phân tích, xem xét lại thái
độ và quyết định của mình, làm xuất hiện
khả năng thay đổi quyết định đó.
- Khi cần làm xuất hiện những xúc cảm,
tình cảm nhất định, hoặc thay đổi trạng thái
cảm xúc của người tham gia tố tụng. Những
thông tin có ý nghĩa đặc biệt được đưa ra
vào thời điểm bất ngờ, tác động mạnh lên
người bị tình nghi, bị can, bị cáo... làm họ
không tự chủ được và phải từ bỏ thái độ
ngoan cố của mình.
Hai là, phương pháp thuyết phục
Phương pháp thuyết phục là việc Điều
tra viên sử dụng lý lẽ để lập luận, phân tích,
giải thích nhằm giúp bị can nhận thức rõ
đúng, sai; phải, trái; thiệt, hơn về các vấn
đề liên quan tới họ để họ thay đổi thái
độ, nhận thức, quan điểm. Nội dung của
phương pháp thuyết phục là đưa ra những
sự kiện, những tình huống cụ thể, phân
tích, giải thích giúp người bị tác động thấy
rõ đúng, sai, lợi, hại, tốt, xấu... nhằm thay
đổi thái độ, quan điểm, lập trường của họ,
hoặc xây dựng quan điểm mới.
Phương pháp thuyết phục được thực
hiện bằng nhiều hình thức:
- Thuyết phục lôgic: Hình thức này là
thông qua sự phân tích, lập luận chặt chẽ
để tác động vào nhận thức của đối tượng,
từ đó dẫn đến sự thay đổi về thái độ, lập
trường của họ.
- Thuyết phục tình cảm: Hình thức này
chủ yếu tác động vào lĩnh vực tình cảm,
gợi lên những xúc cảm, tình cảm tích cực
có lợi cho việc thay đổi thái độ, lập trường
của đối tượng.
- Thuyết phục thông qua cổ động,
tuyên truyền: Hình thức này tác động vào
nhận thức của nhiều người nhằm giúp họ
có nhận thức đầy đủ, đúng đắn về một vấn
đề nào đó. Chẳng hạn, thông qua cổ động,
tuyên truyền pháp luật mà thuyết phục
người dân về sự cần thiết phải sống, làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Thuyết phục là một nghệ thuật. Do
vậy, khi thuyết phục bị can cần tiến hành
các bước như sau: Tác động tạo uy tín với bị
can, chiếm lòng tin của bị can với Điều tra
viên; Gieo mầm hoài nghi vào nhận thức,
quan điểm của bị can; tế nhị trình bày quan
điểm của người thuyết phục; nêu ra những
giải pháp có thể để bị can suy nghĩ, lựa
chọn. Điều tra viên khi tiến hành trên thực
tế cần vận dụng linh hoạt các bước, đảm
bảo nguyên tắc “kiên trì” và “dần dần”.
Ba là, phương pháp đặt và thay đổi
vấn đề tư duy
Phương pháp đặt và thay đổi vấn đề
tư duy là phương pháp mà Điều tra viên
đưa ra các câu hỏi liên quan đến các tình
tiết xảy ra của vụ án để kích thích, định
hướng và phát triển hoặc thay đổi quá
trình tư duy ở bị can nhằm đáp ứng yêu
cầu, mục đích của chủ thể tác động. Bản
chất của phương pháp này trong hoạt
61Số chuyên đề 2 - 2020 Khoa học Kiểm sát
TRẦN THỊ THANH
động giải quyết vụ án hình sự là việc chủ
thể đặt ra nhiệm vụ định hướng, phát triển
các quá trình tư duy ở người tham gia tố
tụng, thông qua việc đặt ra một loạt câu
hỏi chi tiết để khám phá sự hiểu biết rõ
ràng những thông tin về vụ việc.
Phương pháp đặt và thay đổi vấn đề
tư duy thường được sử dụng trong những
trường hợp sau đây:
- Giúp người tham gia tố tụng, đặc biệt
là người làm chứng, người bị hại nhớ lại
tình tiết bị quên. Trong trường hợp này, câu
hỏi đặt ra nhằm tác động đến tư duy và trí
nhớ của đối tượng.
- Thay đổi thái độ, quan điểm, lập
trường của đối tượng tác động. Câu hỏi
đặt ra nhằm tác động đến tư duy và từ đó
ảnh hưởng đến thái độ, tình cảm của đối
tượng, làm xuất hiện những thái độ và xúc
cảm cần thiết.
- Đấu tranh với đối tượng có thái độ
khai báo gian dối. Phương pháp đặt và thay
đổi vấn đề tư duy đấu tranh rất hiệu quả đối
với đối tượng có thái độ khai báo gian dối.
Phương pháp đặt và thay đổi vấn đề tư
duy có thể thực hiện ở 3 dạng:
+ Đặt câu hỏi dẫn dắt sự liên tưởng:
Điều tra viên đặt ra những câu hỏi buộc bị
can khi trả lời phải liên tưởng tới sự kiện
phạm tội hoặc hành vi che giấu tội phạm
và dự đoán logic câu hỏi tiếp theo của Điều
tra viên.
+ Đặt câu hỏi làm biến đổi hướng tư
duy của đối tượng: Điều tra viên đặt câu
hỏi khác với sự chuẩn bị trước của bị can,
buộc bị can không thể sử dụng câu trả lời
đã chuẩn bị sẵn để đối phó mà thường phải
trả lời đúng sự thật hoặc sát với sự thật đã
xảy ra.
+ Đặt câu hỏi chi tiết vào điểm bị can
khai gian dối: Điều tra viên căn cứ vào
những điểm bị can cố tình bịa đặt khai báo
sai sự thật để đặt ra những câu hỏi chi tiết,
hỏi sâu về vấn đề đó (mặc dù những điều
này không có giá trị chứng minh tội phạm).
Bốn là, phương pháp ám thị gián tiếp
Ám thị là phương pháp tác động tâm
lý mang tính cưỡng chế tâm lý. Đó là sự tác
động của một người đến một hay một nhóm
người khác, làm cho họ tiếp nhận một cách
không phê phán những lời lẽ chứa đựng tư
tưởng, ý muốn của người ám thị và thực
hiện theo ý muốn đó. Ám thị có hai hình
thức: ám thị trực tiếp và ám thị gián tiếp.
Ám thị trực tiếp là hình thức ám thị được
thực hiện khi thông tin ám thị được truyền
thẳng đến đối tượng. Trong hỏi cung bị can,
phương pháp ám thị thường được sử dụng
dưới dạng gián tiếp.
Phương pháp ám thị gián tiếp là
phương pháp Điều tra viên đưa ra những
câu hỏi và thông tin về sự kiện nào đó không
có quan hệ trực tiếp đến vụ án, nhưng lại có
quan hệ chặt chẽ với cuộc sống của người
được ám thị, nhằm làm cho họ hiểu rằng
những vấn đề đã được cơ quan có thẩm
quyền biết thì chắc chắn những vấn đề khác
cũng đã biết hoặc sẽ biết, từ đó họ phải phải
suy nghĩ, cân nhắc và thay đổi thái độ và
hành vi.
Để phương pháp ám thị đạt hiệu quả,
Điều tra viên cần bịt kín mọi nguồn tin với
người bị tác động, đặc biệt là nguồn tin
về kết quả điều tra, thu thập thông tin về
người bị tác động. Chủ thể hoạt động tư
pháp cần có quá trình nghiên cứu tỉ mỉ về
quá trình hoạt động trước đó của người bị
tác động (nắm thông tin về đời tư, những
điểm yếu, những mối quan hệ vốn có).
Những thông tin về người bị tác động mà
chủ thể tác động đưa ra phải chính xác là có
thực, đúng thực tế cuộc đời của người bị tác
động. Thái độ của Điều tra viên phải nhẹ
nhàng nhưng cương quyết, tỏ ra hiểu biết
tường tận về đời tư, các quan hệ, sinh hoạt
của người bị tác động.
Năm là, phương pháp giao tiếp tâm lý
có điều khiển
Dưới góc độ tâm lý, hoạt động hỏi
cung bị can là hoạt động giao tiếp hai chiều
giữa Điều tra viên và bị can, hay là sự thể
hiện quan hệ tương tác giữa Điều tra viên
với bị can của vụ án. Trong đó, Điều tra
viên tiếp xúc, tác động, đấu trí với bị can,
62 Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2020
TÁC ĐỘNG TÂM LÝ CỦA ĐIỀU TRA VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG...
làm cho bị can khai báo. Như vậy, trong
mối quan hệ này, Điều tra viên luôn giữ
vai trò chủ đạo, phối hợp, tác động và điều
hành các cuộc tiếp xúc với bị can nhằm tìm
ra sự thật khách quan của vụ án. Ngược
lại, bị can là đối tượng bị tác động, thực
hiện các nghĩa vụ do Điều tra viên đặt ra
một cách thụ động. Do đó, để đạt được các
mục đích của hoạt động hỏi cung, Điều tra
viên luôn phải điều khiển tâm lý giữa họ
với bị can.
Khi sử dụng phương pháp này, Điều
tra viên phải quan sát biểu hiện bên ngoài
của bị can (nét mặt, cử chỉ,...) để nắm bắt
tâm lý của từng bị can và có phương pháp
xét hỏi cho phù hợp. Phương pháp giao
tiếp tâm lý có điều khiển là phương pháp
tác động tâm lý, nhưng đồng thời cũng là
kĩ năng giao tiếp của Điều tra viên trong
hỏi cung bị can. Ngoài ra, phương pháp
này còn đạt hiệu quả cao hơn nếu như
được áp dụng cùng với các phương pháp
tác động tâm lý khác.
Sáu là, phương pháp mệnh lệnh
Mệnh lệnh là phương pháp cưỡng chế
tâm lý, đòi hỏi đối tượng tác động phải thực
hiện, hoặc chấm dứt ngay một hành động
nào đó, không phụ thuộc vào ý muốn của
họ. Chẳng hạn, khi khám xét một địa điểm
nào đó, Điều tra viên sử dụng phương pháp
mệnh lệnh, bắt buộc đối tượng có liên quan
phải thực hiện những hành vi nhất định,
phục vụ cho việc khám xét. Trong trường
hợp này, đối tượng phải có nghĩa vụ chấp
hành ý chí của Điều tra viên.
Để phòng ngừa và đấu tranh chống tội
phạm có hiệu quả, việc sử dụng phương
pháp mệnh lệnh trong hoạt động tố tụng
hình sự là cần thiết. Tuy nhiên, do tính
cưỡng chế cao nên đối tượng bị tác động
sẽ không có sự tự do về mặt ý chí. Việc sử
dụng phương pháp này cần thận trọng để
tránh vi phạm quyền công dân.
3. Tác động tâm lý của Điều tra viên
trong một số hoạt động điều tra khi giải
quyết vụ án mua bán người
3.1. Tác động tâm lý của Điều tra viên
trong hoạt động hỏi cung bị can phạm tội
mua bán người
Tâm lý của người phạm tội mua bán
người có những đặc điểm khác so với tâm
lý của những người phạm tội khác. Bởi tính
chất đặc trưng của loại tội này nên ở bị can
có một số đặc điểm tâm lý như:
Về nhận thức: Kết quả thực tế đã thống
kê phần lớn những người phạm tội mua bán
người là những người đã từng có tiền án tiền
sự về hành vi này nên họ có kinh nghiệm và
thường tạo thành đường dây khép kín để
thực hiện hành vi, hoặc những người nước
ngoài cấu kết với môi giới tại nước sở tại
để hình thành đường dây mua bán xuyên
quốc gia, thậm chí có những người trước
đó là nạn nhân của mua bán người nhưng
sau đó lại trở thành người thực hiện hành vi
dụ dỗ, mua bán người Họ đều hiểu hành
vi họ đang làm là trái pháp luật nhưng vì
những khoản tiền họ thu được nên bằng
mọi cách thực hiện hành vi mua bán người
dưới các hình thức khác nhau. Họ dường
như ít ý thức và không phải chịu sự ám ảnh
về hậu quả hành vi phạm tội gây ra, bởi hậu
quả ngay tức khắc để lại từ những vụ mua
bán người không nguy hiểm như những vụ
án khác.
Về trạng thái tâm lý: Người phạm tội
mua bán người dù là phạm tội lần đầu
hay tái phạm đều có trạng thái tâm lý căng
thẳng, luôn lo lắng, bồn chồn khi nghĩ đến
việc họ bị phát hiện, bị bắt và chịu hậu quả
pháp lý nhất định. Sự căng thẳng này càng
cao khi vụ án có những đồng phạm khác, vì
khi một trong những đồng phạm bị bắt họ
sẽ tố giác, khai ra hành vi phạm tội. Ngoài
ra, trong một số trường hợp, bị can tỏ ra lì
lợm, nhất là trường hợp nạn nhân có thể trở
thành đồng phạm hoặc chính nạn nhân đó
trở thành người thực hiện hành vi phạm tội.
Ở một số khía cạnh nhất định, người
phạm tội cảm thấy yên tâm trong hầu hết
những vụ án mua bán người, ít hoặc không
có nhân chứng. Phần lớn nạn nhân là phụ
nữ và trẻ em, đặc biệt những vụ án mua
63Số chuyên đề 2 - 2020 Khoa học Kiểm sát
TRẦN THỊ THANH
bán người nhằm mục đích tình dục thì nạn
nhân cũng như gia đình nạn nhân ít hoặc
không dám tố giác hành vi phạm tội. Hơn
nữa, nếu trẻ em là nạn nhân thì người phạm
tội lại càng yên tâm hơn vì cho rằng trẻ nhỏ
hạn chế về nhận thức, ngôn ngữ, khả năng
phòng vệ chưa cao, việc khai thác thông
tin khó khăn. Bên cạnh đó, vụ án mua bán
người thường không để lại hiện trường,
hoặc nếu có là bất định khó kiểm soát. Thời
gian diễn ra cũng bất định, ít hoặc thậm chí
không có vật chứng vì những người phạm
tội sử dụng công nghệ thông tin, hoặc giao
tiếp thỏa thuận trực tiếp, do đó họ khó bị
phát hiện cho đến khi bị tố giác. Ngoài ra,
nạn nhân khi bị đưa ra nước ngoài gặp
nhiều khó khăn về ngôn ngữ, đi lại, mối
quan hệ, người phạm tội yên tâm rằng nạn
nhân khó thoát khỏi nên không sợ bị tố giác.
Về hành vi xử sự: Để thực hiện được
hành vi lừa gạt các đối tượng những bị can
phạm tội mua bán người thường thể hiện
thái độ cởi mở, tích cực quan tâm đến mọi
người một cách giả tạo để tạo sự tin tưởng
từ những “con mồi” để họ nghe theo và bị
mắc bẫy. Đối với vụ án mua bán người, khi
thực hiện hành vi phạm tội luôn có đồng
phạm, “con mồi” được chuyển qua những
người lạ bằng ám hiệu, hoặc được tiến hành
một cách có tổ chức, ổ, nhóm, đường dây
mua bán người được thực hiện giữa những
người thân thiết, thậm chí ruột thịt, do đó
tạo sự khép kín, ít sơ hở khi thực hiện hành
vi phạm tội.
Xuất phát từ những đặc điểm tâm lý
đặc trưng của bị can phạm tội mua bán
người, trong quá trình hỏi cung bị can
phạm tội mua bán người, Điều tra viên cần
áp dụng một số những biện tác động tâm
lý như: phương pháp truyền đạt thông tin,
phương pháp thuyết phục, phương pháp
đặt và thay đổi vấn đề tư duy, phương
pháp giao tiếp có điều khiển và phương
pháp ám thị gián tiếp. Tuy nhiên, căn cứ
vào đặc điểm của vụ án mua bán người thì
hai phương pháp tác động tâm lý nên sử
dụng thường xuyên nhất là phương pháp
truyền đạt thông tin và phương pháp thuyết
phục. Bởi lẽ, bản chất của truyền đạt thông
tin là sử dụng những chứng cứ, thông tin
mà cơ quan điều tra đã thu thập được để
đấu tranh với các bị can, từ đó bị can thay
đổi thái độ khai báo và phá bỏ được tâm
lý yên tâm. Bị can cũng hiểu rằng đối với
vụ án mua bán người dường như không
có hiện trường, rất ít hoặc không có người
làm chứng, sự kiện lại thường xảy ra rất
lâu nên để thu thập thông tin và chứng
cứ không dễ. Tuy nhiên, một khi Điều tra
viên đã có những chứng cứ, tài liệu quan
trọng trong tay là cách thức đấu tranh tốt
nhất với bị can phạm tội này. Bên cạnh đó
Điều tra viên còn sử dụng phương pháp
tác động này bằng cách cung cấp thông tin
về những chính sách khoan hồng của nhà
nước Việt Nam dành cho những người có
thái độ khai báo thành khẩn, hợp tác trong
quá trình điều tra, để từ đó giúp bị can điều
chỉnh thái độ khai báo cho phù hợp và đạt
được hiệu quả trong hỏi cung bị can.
Trong quá trình hỏi cung bị can, Điều
tra viên cũng có thể sử dụng phương pháp
thuyết phục đối với các bị can để giúp bị
can thay đổi thái độ, hợp tác với Điều tra
viên. Khi thuyết phục, Điều tra viên nên
thuyết phục vào mặt tình cảm của các bị
can, đặc biệt đối với những bị can cùng
giới tính nữ thực hiện hành vi mua bán
với phụ nữ và trẻ em gái với mục đích tình
dục, nhằm khơi gợi sự đồng cảm ở bị can
để bị can ăn năn hối cải, từ đó khai nhận
hành vi phạm tội của mình cũng như khai
ra đồng bọn trong đường dây mua bán
người. Điều tra viên cũng có thể thuyết
phục bằng cách xoáy sâu vào mối quan hệ
tình cảm có ý nghĩa quan trọng đối với bị
can như con cái, bố mẹ, vợ chồng nhằm
giúp bị can khơi dậy tình cảm gia đình để
từ đó bị can thành khẩn khai báo với mong
muốn nhận được sự khoan hồng của pháp
luật, sớm trở về với những người thân yêu.
Khi hỏi cung bị can, ngoài hai phương
pháp tác động tâm lý trên, Điều tra viên
còn có thể sử dụng phương pháp đặt và
thay đổi vấn đề tư duy bằng cách đặt các
câu hỏi phù hợp nhằm khai thác thông
64 Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2020
TÁC ĐỘNG TÂM LÝ CỦA ĐIỀU TRA VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG...
tin về quá trình phạm tội từ bị can hoặc
đồng phạm. Các câu hỏi này thường được
tiến hành dưới các dạng khác nhau: câu
hỏi để khẳng định vấn đề, câu hỏi khai
thác thông tin, câu hỏi nhằm vạch trần lời
khai gian dối. Các phương pháp giao tiếp
có điều khiển hay phương pháp ám thị
gián tiếp cũng có thể được sử dụng khi
hỏi cung bị can phạm tội mua bán người.
Tuy nhiên, để sử dụng phương pháp này,
Điều tra viên cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng
để tìm hiểu những điểm yếu không liên
quan đến hành vi mua bán người hiện tại
nhưng lại là bí mật đời tư của cá nhân,
hoặc bản thân Điều tra viên phải là người
có nhiều kinh nghiệm trong hỏi cung bị
can thì mới có thể điều khiển giao tiếp khi
hỏi cung bị can.
3.2. Tác động tâm lý của Điều tra viên
trong hoạt động lấy lời khai nạn nhân
trong vụ án mua bán người
Nạn nhân là những người chịu hậu
quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành vi
mua bán người. Nạn nhân của mua bán
người bao gồm cả nam và nữ, được phân
chia theo độ tuổi gồm những người dưới 16
tuổi và trên 16 tuổi. Về cơ bản, có sự khác
nhau về thể chất và tinh thần giữa những
nạn nhân trên 16 tuổi và dưới 16 tuổi, vì thế
việc tác động tâm lý trong hoạt động lấy lời
khai nạn nhân mua bán người cũng có sự
khác nhau. Tuy nhiên, phần này chỉ ra cách
tác động tâm lý chung mà chưa phân chia
thành hoạt động lấy lời khai của người có
nhóm tuổi khác nhau. Nạn nhân trong vụ
án mua bán người có một số đặc điểm tâm
lý đặc trưng sau:
Về nhận thức: Hầu hết những nạn
nhân của tội phạm mua bán người ban
đầu đều không biết mình là nạn nhân,
trở thành món hàng mua đi bán lại. Có
thể họ đang mơ tưởng về một tương lai
tốt đẹp, một cuộc sống giàu sang, sau đó
họ mới nhận ra thông qua những yêu cầu
khắt khe, sự quản thúc chặt chẽ của người
chủ mưu. Nhiều nạn nhân sau một thời
gian dài bị bán sang nước khác, bị bóc lột
tình dục, đánh đập hoặc thời điểm ấy còn
quá nhỏ nên không thể nhớ chi tiết những
điều gì đã xảy ra với mình. Thậm chí có
nhiều nạn nhân sau bao năm được giải
cứu, hoặc được giúp đỡ thoát khỏi nơi
đầy đọa trở về quê hương nhưng không
nhớ nổi nơi mình sinh ra, và người thân
của mình tên gì Nhiều nạn nhân cũng
không hiểu họ có quyền được hỗ trợ hoặc
không biết làm thế nào để tiếp cận các
dịch vụ trợ giúp về sức khỏe, tinh thần
và thể chất. Nạn nhân thậm chí hoài nghi,
và nghĩ rằng các dịch vụ được cung cấp
không liên quan đến những nhu cầu thực
tế ngay lập tức của họ.
Về trạng thái tâm lý: Khi mới bắt đầu
biết mình trở thành nạn nhân của tội phạm
mua bán người, nạn nhân bị sốc, bị sang
chấn tâm lý, có sự tổn thương nặng về tâm
lý khi sự thật được phơi bày, cảm giác vỡ
mộng nhưng không có cách nào thoát khỏi
khiến họ càng bi quan hơn. Một số nạn
nhân khi biết sự thật, mặc dù không thể
liên lạc với bên ngoài, không có lối thoát
nên đành chấp nhận số phận, tuy nhiên
âm ỉ bên trong họ là sự hi vọng có cơ hội
để trốn thoát hoặc nhờ cậy những người
cùng cảnh ngộ.
Khi được giúp đỡ trốn thoát, được
hồi hương, nạn nhân cảm thấy xấu hổ khi
kể lại những gì đã xảy ra với bản thân,
sợ sự kỳ thị, sỉ nhục từ bạn bè, người
thân, xã hội, sợ bị tổn thương lần nữa
khi phải nhắc lại. Có một số nạn nhân bị
ám ảnh sâu sắc dẫn đến có những sang
chấn về tinh thần như trầm cảm, u sầu,
buồn chán và tự đổ lỗi cho bản thân. Đặc
biệt đối với nạn nhân dưới 16 tuổi, nhận
thức, kinh nghiệm sống còn hạn chế nên
thường bị ảnh hưởng sâu sắc nhất và trở
thành vết thương in hằn trong tâm lý, rất
khó xóa nhòa.
Về hành vi xử sự: Khi chưa phát hiện
mình là nạn nhân của tội phạm mua bán
người, họ thường có sự trung thành, duy
trì mối quan hệ phụ thuộc vào kẻ mua
bán người. Do vậy, họ thực hiện mọi yêu
cầu của chúng, tin tưởng tuyệt đối người
phạm tội vì nghĩ rằng chúng giúp mình
65Số chuyên đề 2 - 2020 Khoa học Kiểm sát
TRẦN THỊ THANH
có tiền trả nợ nần, được sang phương trời
mới với những điều tốt đẹp hơn. Sau khi
đã trở thành nạn nhân, họ xuất hiện nghi
ngờ về những người mình gặp gỡ, môi
trường xung quanh và quá trình tiếp xúc,
giúp đỡ của cơ quan chức năng. Họ ngại
tiếp xúc với các cơ quan chức năng vì thiếu
tin tưởng hoặc lo lắng sẽ bị bắt giữ vì vi
phạm luật trong quá trình bị bán: nhập
cảnh trái phép, kết hôn giả, hoặc liên quan
đến hoạt động mại dâm
Từ những đặc điểm tâm lý đặc trưng
của nạn nhân của tội phạm mua bán người,
khi lấy lời khai của họ, Điều tra viên cần
có sự cân nhắc để lựa chọn cách thức và
phương pháp tác động tâm lý cho phù hợp
và đạt hiệu quả cao.
Trong trường hợp nạn nhân là phụ
nữ và trẻ em, khi tiến hành lấy lời khai,
cơ quan điều tra nên phân công Điều tra
viên là nữ để có thể thu thập được đầy đủ,
chính xác các tài liệu từ lời khai, bởi Điều
tra viên là nữ sẽ dễ gần gũi, chia sẻ, thông
cảm, tin tưởng, động viên, tác động tâm
lý, khích lệ để người bị hại chủ động khai
báo thông tin về vụ án cũng như thông tin
về đối tượng khai báo. Điều tra viên nên
sử dụng phương pháp thuyết phục, tức
là đưa ra những lời lẽ, lập luận hoặc bằng
tình cảm để giúp nạn nhân xóa bỏ những
rào cản về cảm giác xấu hổ, ngại ngùng,
sợ hãi để yên tâm khai báo. Hơn nữa, quá
trình thuyết phục cần làm cho nạn nhân
tin tưởng, và cảm thấy mình được đồng
cảm, được lắng nghe, đặc biệt được giữ bí
mật về những thông tin đã khai báo. Muốn
làm được điều này đòi hỏi khi lựa chọn
Điều tra viên lấy lời khai, cần chọn Điều
tra viên có kinh nghiệm sống, có kỹ năng
làm việc với người bị hại hoặc người thân
của họ như chia sẻ cảm thông với nỗi đau
của nạn nhân, đặc biệt không làm tái tổn
thương đối với nạn nhân; có kiến thức về
tâm lý để tiến hành các biện pháp cấp bách
nhằm ổn định tâm lý nạn nhân. Trường
hợp nạn nhân mặc cảm, không tố giác, né
tránh, không muốn cộng tác, Điều tra
viên phải phối hợp chặt chẽ với các cán
bộ, trung tâm hỗ trợ trẻ em, hội phụ nữ,
chuyên gia tâm lý, nhân viên công tác xã
hội về vấn đề này để động viên, tư vấn, trợ
giúp về tâm lý, pháp lý để nạn nhân mạnh
dạn cộng tác, cung cấp tài liệu, chứng cứ
cho Điều tra viên.
Ngoài ra, khi lấy lời khai nạn nhân
Điều tra viên cũng có thể sử dụng phương
pháp truyền đạt thông tin để tác động tới
nạn nhân. Điều tra viên đưa ra những
thông tin có ý nghĩa nhằm giúp nạn nhân
định hình thái độ khai báo đúng đắn, hiệu
quả trong quá trình lấy lời khai. Nhiều
nạn nhân khi được giải cứu, trốn thoát về
quê hương nhưng vì rất nhiều lý do không
hợp tác, không tin tưởng vào cơ quan chức
năng do vậy Điều tra viên cần cung cấp
những thông tin cần thiết như số liệu thống
kê nạn nhân của tội phạm mua bán người
hàng năm, số nạn nhân chưa được giải cứu
và đang bị đầy đọa, hoặc những thông tin
có ý nghĩa khác liên quan đến vụ án được
phép công bố giúp nạn nhân hiểu vai trò,
trách nhiệm của bản thân trong quá trình
giúp cơ quan chức năng đấu tranh với tội
phạm mua bán người nhằm hạn chế nhất
số người là nạn nhân của tội phạm này.
Ngoài ra, trường hợp nạn nhân quên một
số tình tiết về sự kiện đã diễn ra trước đó
do thời gian xảy ra quá lâu hoặc do trí nhớ
hạn chế, Điều tra viên có thể cung cấp một
số thông tin cần thiết nhằm giúp họ nhớ lại
và khai báo liền mạch hơn.
Điều tra viên khi lấy lời khai nạn nhân
có thể sử dụng phương pháp đặt và thay
đổi vấn đề tư duy để tác động đến tâm
lý của nạn nhân của tội phạm mua bán
người. Bản chất của phương pháp này là
Điều tra viên khai thác thông tin về vụ án,
cũng như thông tin về đối tượng gây án
dưới dạng câu hỏi. Các câu hỏi này trước
khi được sử dụng trong lấy lời khai cần có
sự nghiên cứu kỹ lưỡng nhằm đảm bảo
tiêu chí thân thiện với nạn nhân của tội
phạm mua bán người, tránh việc làm tổn
thương lần hai đối với họ. Do vậy, Điều tra
viên cần có thái độ thân thiện, nhẹ nhàng,
sử dụng ngôn từ dễ hiểu, phù hợp với độ
66 Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2020
TÁC ĐỘNG TÂM LÝ CỦA ĐIỀU TRA VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG...
tuổi, trình độ, giới tính, tạo được tâm lý
tin tưởng giữa nạn nhân với Điều tra viên.
Trong một số trường hợp cần thiết, Điều
tra viên có thể sử dụng các câu hỏi gợi nhớ
giúp nạn nhận nhớ lại, hồi tưởng lại những
thông tin, tình tiết của vụ án, từ đó có thể
khai báo chính xác thông tin của vụ án với
Điều tra viên.
Cuối cùng, khi lấy lời khai nạn nhân
của tội phạm mua bán người, Điều tra viên
có thể sử dụng phương pháp giao tiếp có
điều khiển, hướng câu trả lời của nạn nhân
trong quá trình lấy lời khai đi sâu vào khai
báo những nội dung, tình tiết quan trọng có
ý nghĩa đối với công tác điều tra vụ án như
họ tên, địa chỉ, nghề nghiệp, đặc điểm nhận
dạng của đối tượng, địa điểm thực hiện hành
vi phạm tội, phương thức thực hiện, che giấu
hành vi phạm tội. Bên cạnh đó, Điều tra viên
cần có sự kết hợp với các phương pháp tác
động tâm lý khác như phương pháp truyền
đạt thông tin, thuyết phục để đạt hiệu quả
cao khi tiến hành lấy lời khai.
Tóm lại, việc lấy lời khai nạn nhân của
tội phạm mua bán người có ý nghĩa quan
trọng trong việc thu thập thông tin về vụ
án, đối tượng gây án, bởi đối với những vụ
án mua bán người thường rất khó để thu
thập những chứng cứ vật chất vì sự việc
thường xảy ra đã lâu, hình thức thỏa thuận
thường là trực tiếp, rất ít hoặc không có
nhân chứng. Vì vậy, việc khai thác thông
tin từ nạn nhân là điều bắt buộc phải làm
để củng cố thêm chứng cứ trong vụ án.
Tuy nhiên, việc lấy lời khai nạn nhân của
tội phạm mua bán người cần có sự chuẩn
bị kỹ lưỡng về chủ thể tiến hành lấy lời
khai, về thời gian, không gian, địa điểm,
cách thức sử dụng các phương pháp tác
động tâm lý, kỹ năng mới giúp nạn nhân
tin tưởng, yên tâm khai báo.
4. Kết luận
Từ kết quả phân tích trên, có thể thấy
việc sử dụng các phương pháp tác động
tâm lý trong khi tiến hành các hoạt động
điều tra như hỏi cung bị can, lấy lời khai
nạn nhân trong vụ án mua bán người rất
quan trọng. Điều tra viên tùy vào những
trường hợp cụ thể có thể sử dụng những
phương pháp tác động tâm lý như: phương
pháp truyền đạt thông tin, phương pháp
thuyết phục, phương pháp đặt và thay đổi
vấn đề tư duy, phương pháp giao tiếp có
điều khiển và phương pháp ám thị gián
tiếp để tác động đến tâm lý của các đối
tượng nhằm giúp họ có sự thay đổi về
nhận thức, từ đó điều chỉnh hành vi khai
báo cho phù hợp. Việc sử dụng các phương
pháp tác động tâm lý trong khi tiến hành
điều tra vụ án mua bán người cần tuân thủ
các nguyên tắc tác động tâm lý và cần có
sự chuẩn bị kỹ lưỡng mới đem lại hiệu quả
cao. Cùng với đó, để quá trình tác động
tâm lý có hiệu quả, cần có sự kết hợp linh
hoạt giữa các phương pháp và cần kết hợp
với một số thủ thuật được sử dụng trong
quá trình điều tra./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Kiên Cường (2019), “Lấy lời khai
người bị hại là phụ nữ và trẻ em trong vụ án
hiếp dâm – Những khó khăn, vướng mắc và
giải pháp khắc phục”, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế:
Nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên
đối với các tội xâm hại sức khỏe, danh dự nhân
phẩm phụ nữ và trẻ em, Hà Nội.
2. Đặng Thanh Nga (Chủ biên) (2008),
Giáo trình tâm lý học tư pháp, NXB Công an
nhân dân, Hà Nội.
3. Quốc hội (2015 sửa đổi bổ sung 2017),
Bộ luật hình sự, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Đỗ Văn Thọ (1993), Tác động tâm lý trong
hỏi cung bị can của Cảnh sát điều tra, Luận văn
thạc sĩ.
6. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2017),
Dự thảo tài liệu tập huấn về phòng chống mua
bán người, Hà Nội.
7. Nguyễn Xuân Yêm (Chủ biên) (2013),
Tâm lý học hình sự, NXB Công an nhân dân,
Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tac_dong_tam_ly_cua_dieu_tra_vien_trong_hoat_dong_dieu_tra_v.pdf