Kết quả Bảng 4 và Hình 1 cho thấy nhóm chuột
dùng cao chiết POME ở liều 100 mg/kg thể trọng có bề
mặt gan nhẵn, mô gan và tế bào đều nhỏ hơn so với
nhóm bệnh lí, màu gan nhạt hơn so với nhóm chứng
sinh lý và nhóm chứng tham khảo. Ở nhóm chứng bệnh
lý, gan nhạt màu, nhu mô gan nổi rõ.
Dựa vào kết quả nghiên cứu về nồng độ enzyme
AST, ALT trong huyết thanh và hình ảnh đại thể của
gan cho thấy, paracetamol đã tác động mạnh đến tế bào
gan, gây tổn thương tế bào gan, làm các enzyme AST,
ALT trong tế bào gan được giải phóng vào trong máu,
khiến nồng độ các enzyme này trong huyết thanh tăng
lên đáng kể [1]. Ngoài ra, kết quả cũng cho thấy cao
chiết POME và silymarin có tác dụng bảo vệ gan chống
lại tác động gây độc gan của paracetamol. Cao chiết
POME ở nồng độ 100 mg/kg thể trọng có hiệu quả bảo
vệ gan gần tương đương với hiệu quả bảo vệ gan của
Silymarin. Hiệu quả vảo vệ gan của cao chiết là do
trong thành phần cao chiết của quả có chứa các hợp chất
phenolic như vanillin, (+)-pinoresinol, (+)-syringaresinol
và (+)-medioresinol [3] các chất này có đặc tính chống
oxi hóa, dập tắt các gốc tự do thông qua việc nhường
nguyên tử H [7], đáng chú ý là các chất như: (+)-
pinoresinol có tác dụng chống oxi hóa, giảm sự hình
thành các chất trung gian gây viêm thông qua sự ức chế
trung tâm hoạt động kB (NF-kB) và quá trình phosphoryl
hóa c-Jun, do đó có tác dụng bảo vệ tế bào gan [9]; (+)-
syringaresinol với tác dụng kháng viêm [8].
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 13 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác dụng bảo vệ gan của dịch chiết methanol từ quả dứa dại (pandanus odoratissimus) trên chuột nhắt trắng dòng Swiss, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
UED Journal of Social Sciences, Humanities & Education – ISSN 1859 - 4603
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN & GIÁO DỤC
Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 6, số 1 (2016), 15-19 | 15
* Liên hệ tác giả
Nguyễn Công Thùy Trâm
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng
Email: ncthtram@gmail.com
Nhận bài:
24 – 11 – 2015
Chấp nhận đăng:
17 – 02– 2016
TÁC DỤNG BẢO VỆ GAN CỦA DỊCH CHIẾT METHANOL TỪ QUẢ DỨA
DẠI (Pandanus odoratissimus) TRÊN CHUỘT NHẮT TRẮNG DÒNG
SWISS
Nguyễn Công Thùy Trâm
Tóm tắt: Tác dụng bảo vệ gan của cao chiết methnol quả dứa dại (Pandanus odoratissimus) đã được
tiến hành nghiên cứu trên chuột Swiss được gây nhiễm độc bằng paracetamol. Chuột được uống cao
chiết methanol (100, 200 và 300mg/kg thể trọng/ngày) trong 7 ngày, đến ngày thứ tám và thứ chín gây
độc bằng paracetamol (liều 3g/kgP). Silymarin được sử dụng làm đối chứng tham chiếu. Kết quả nghiên
cứu cho thấy cao chiết methanol quả P.odoratissimus có tác dụng chống lại sự tổn thương gan do
paracetamol gây ra, gan của lô chuột uống liều 100mg/kg thể trọng/ngày được bảo vệ tốt hơn so với lô
liều 200 và 300mg/kg thể trọng/ngày. Cao chiết methanol quả P.odoratissimus ở nồng độ 100mg/kg thể
trọng/ngày có khả năng làm giảm 1,76 lần hoạt tính của enzyme aspartate amino transferase (AST),
giảm 2,12 lần hoạt tính enzyme alanine amino transferase (ALT) trong huyết tương và giảm nồng độ
malondialdehyd (MDA) trong thí nghiệm chống peroxyl hóa lipid màng tế bào so với nhóm chuột đối
chứng bệnh lí.
Từ khóa: alanine amino transferase; aspartate amino transferase; chùm ruột malondialdehyd; peroxyl;
Phyllanthus acidus.
1. Đặt vấn đề
Gan là cơ quan đóng vai trò quan trọng trong quá
trình chuyên hóa vật chất của cơ thể. Một trong những
chức năng chính của gan là tham gia vào quá trình giải
độc gây ra bởi các chất nội sinh và ngoại sinh. Trong
trường hợp bệnh lý hay do sự dư thừa quá mức các chất
độc trong gan, các tế bào gan sẽ bị hủy hoại, dẫn đến
các tổn thương và tổn thương không hồi phục trên gan
như: xơ gan, làm mất chức năng giải độc Bệnh gan là
một trong những bệnh phổ biến trong cộng đồng. Có
nhiều loại bệnh về gan trong đó thường gặp là những
tổn thương gan gây ra bệnh viêm gan dẫn đến xơ gan và
ung thư gan với nguyên nhân chủ yếu là do virut và bị
nhiễm độc gan [4, 10, 11]
Mặc dù y học hiện đại có những bước tiến dài, các
loại thuốc được tổng hợp sử dụng trong điều trị bệnh
gan đều có tác dụng kích thích chức năng gan, bảo vệ
gan khỏi những tác động có hại và khởi động quá trình
tái sinh tế bào gan (Boyd,1970). Tuy nhiên việc sử dụng
các loại thuốc có nguồn gốc thảo dược để hỗ trợ và điều
trị bệnh gan vẫn đang được các nhà khoa học chú ý đến
nhằm hạn chế tác dụng phụ không mong muốn của
thuốc có nguồn gốc tổng hợp gây ra.
Cây dứa dại (Pandanus odoratissimus) được sử
dụng nhiều trong các bài thuốc dân gian để hỗ trợ điều
trị các bệnh như bệnh phong ghẻ, giang mai, rối loạn tiết
niệu, trị vàng da... Trong nghiên cứu này, chúng tôi
khảo sát tác động của cao chiết methanol từ quả dứa dại
đến gan chuột bị gây tổn thương bởi paracetamol.
2. Nguyên liệu và phương pháp nghiên cứu
2.1. Nguyên liệu thực vật
Quả Dứa dại được thu hái tại Duy Xuyên, Quảng
Nam. Mẫu được xác định bằng việc khảo sát đặc điểm
hình thái thực vật học dựa trên quan sát cây tươi. Mẫu
Nguyễn Công Thùy Trâm
16
tiêu bản được lưu giữ tại Phòng Thí nghiệm Di truyền –
Giải phẫu sinh lý động vật, Khoa Sinh – Môi trường,
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng
Quả Dứa dại (2kg) được loại bỏ phần hỏng, rửa
sạch, xay nhỏ ngâm chiết với methanol (3x1,5 lít) ở
nhiệt độ phòng. Cô quay cất loại dung môi thu cao chiết
tổng methanol (180g) (POME)
2.2. Nguyên liệu động vật
Chuột nhắt trắng dòng Swiss có khối lượng từ 20-
25 gram, gồm cả hai giống đực và cái, được cung cấp
bởi Viện Vaccin và Sinh phẩm Nha Trang, được nuôi
trong cùng một điều kiện tại phòng Thí nghiệm Di
truyền - Giải phẫu, sinh lý động vật, Khoa Sinh - Môi
trường, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng.
Chuột được cho ăn thức ăn tiêu chuẩn và nước uống tự
do.
2.3. Hoá chất
Paracetamol, Silymarin, và các hóa chất thông
thường khác.
2.4. Phương pháp xác định hoạt tính bảo vệ
gan trên chuột
2.4.1. Thử nghiệm độc tính cấp
Xác định độc tính cấp theo phương pháp Bộ Y tế
Việt Nam ban hành [2,6]. Cụ thể là cao chiết POME
được pha ở nồng độ gốc 20 gram/ml (có thể đạt được do
mẫu cao chiết) nhằm khảo sát độc tính cấp.
30 chuột chia thành 5 nhóm (6 con chuột/nhóm)
gồm 1 nhóm đối chứng sinh lí, 4 nhóm thí nghiệm và
bị bỏ đói hoàn toàn 16 giờ trước khi cho uống mẫu.
Mẫu POME được cho uống với liều cao nhất có thể và
giảm dần, cụ thể là 10; 5; 2,5 và 1,25 gram/kg thể
trọng. Sau khi cho uống cao chiết POME với một liều
duy nhất từ 1-2 giờ, chuột được nuôi dưỡng bình
thường trở lại (cho ăn, uống tự do) và theo dõi liên tục
trong 72 giờ để xác định số chuột chết trong từng lô và
tính giá trị LD50.
Giá trị LD50 được xác định bằng phương pháp của
Karber [4,12] như sau: LD50 = LD - Σab/n. Trong đó:
LD50 là Liều chết 50% động vật thí nghiệm; LD là liều
gây chết 100% động vật thí nghiệm; n là số động vật
trong một nhóm; a là sự khác biệt về liều giữa hai liều
liên tiếp; b là tỷ lệ tử vong trung bình của hai nhóm liên
tiếp. Đồng thời, chuột chết sẽ được mổ để xét nghiệm
đại thể.
2.4.2. Xác định hoạt tính bảo vệ gan
Xác định hoạt tính bảo vệ gan được thực hiện theo
phương pháp của Kumar và cộng sự (2006) với một số
thay đổi phù hợp với điều kiện phòng thí nghiệm. 30
con chuột được chia thành 5 nhóm (6 chuột/nhóm), cụ
thể như sau:
• Nhóm 1 (nhóm chứng sinh lý): uống nước cất
• Nhóm 2 (nhóm chứng bệnh lý): uống
paracetamon liều 3g/kgP
• Nhóm 3 (nhóm chứng tham khảo): uống
silymarin và uống paracetamol
• Nhóm 4 (nhóm thực nghiệm): uống cao chiết
POME liều 100mg/kgP và uống paracetamol
• Nhóm 5 (nhóm thực nghiệm): uống cao chiết
POME liều 200mg/kgP và uống paracetamol
• Nhóm 6 (nhóm thực nghiệm): uống cao chiết
POME liều 300mg/kgP và uống paracetamol
Những con chuột thí nghiệm được uống nước cất
hoặc sylimarin hoặc POME tại thời điểm cố định (buổi
sáng) hàng ngày, uống trong 7 ngày. Vào ngày thứ 8 và
ngày thứ 9 của quá trình thử nghiệm, những con chuột ở
tất cả các nhóm (trừ nhóm 1- nhóm đối chứng sinh lý)
được uống paracetamol liều 3g/kgP, cho nhịn ăn qua
đêm. Vào ngày thứ 10, chuột được lấy máu, thu huyết
thanh, xác định các chỉ số AST, ALT. Chuột được mổ
lấy gan để thu nhận hình ảnh gan trước khi chúng được
tiến hành các thử nghiệm tiếp theo.
2.4.3. Định lượng AST, ALT
Vào ngày thứ 9, máu mắt chuột được thu nhận, ly
tâm 12.000 vòng trong 10 phút, thu huyết thanh và xác
định các chỉ số AST, ALT trên hệ thống sinh hóa tự
động AU-680 của Beckman Coulter.
2.4.4. Kiểm tra đại thể gan
Sau khi thu thập máu, toàn bộ chuột thí nghiệm bị
giết, mổ nhanh lấy gan, quan sát đại thể và chụp ảnh.
2.5. Phương pháp xử lí số liệu
Các số liệu được xử lí trên Excell, thuật toán thống
kê students’ t-test
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Kết quả khảo sát độc tính cấp của cao chiết POME
Trước khi tiến hành nghiên cứu khảo sát tác động
bảo vệ gan, cần phải khảo sát độc tính cấp của hoạt
chất sử dụng trong nghiên cứu, với mục đích tìm ra
ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 6, số 1 (2016), 15-19
17
khoảng nồng độ an toàn không gây độc cho đối tượng
nghiên cứu.
Để khảo sát độc tính cấp của cao chiết lá chùm
ruột, chuột được uống cao chiết POME liều 10; 5; 2,5
và 1,25 gram/kg thể trọng (mức liều 10 gram/kgP là
nồng độ cao nhất chuột có thể uống/lần thí nghiệm). Kết
quả thí nghiệm kiểm tra độc tính cấp của mẫu cao chiết
methanol POME quả dứa dại được trình bày ở Bảng 2.
Bảng 2. Độc tính cấp của POME trên chuột thí nghiệm
Lô
POME
(g/kgP/lần)
Số chuột chết/số chuột sống
(sau 72 giờ)
Biểu hiện chức năng trong vòng 24 giờ
1 10 0/6
Chuột ăn uống giảm, di chuyển chậm. Sau 24 giờ,
hoạt động của chuột trở lại bình thường, di
chuyển bình thường, ăn uống trở lại phản xạ ánh
sáng và âm thanh bình thường
2 5 0/6
Chuột di chuyển chậm, ăn uống bình thường,
phản xạ ánh sáng và âm thanh chậm
3 2,5 0/6
Chuột khoẻ mạnh, di chuyển và ăn uống bình
thường, phản xạ với ánh sáng và âm thanh tốt.
4 1,25 0/6
Chuột khoẻ mạnh, di chuyển và ăn uống bình
thường, phản xạ với ánh sáng và âm thanh tốt.
5 Đối chứng sinh lý 0/6
Chuột khoẻ mạnh, di chuyển và ăn uống bình
thường, phản xạ với ánh sáng và âm thanh tốt.
Kết quả trên cho thấy, sau khi uống cao chiết ở nồng
độ POME cao nhất có thể là 10 gram/kgP, chuột hơi lờ đờ
nhưng nhanh chóng lấy lại sự linh hoạt. Sau 24 giờ được
uống cao chiết POME, chuột ở tất cả các lô thí nghiệm
hoàn toàn khỏe mạnh và di chuyển linh hoạt, không có dấu
hiện bị tổn thương, không ghi nhận chuột bị chết.
Như vậy, qua thử nghiệm độc tính cho thấy cao
chiết POME ở các nồng độ thực nghiệm an toàn cho
chuột, không xác định được giá trị LD50 và không thể
hiện độc tính cấp.
Căn cứ vào kết quả thử độc tính của cao chiết
POME, chúng tôi tiến hành thí nghiệm để khảo sát tác
động bảo vệ gan của cao chiết POME.
3.2. Kết quả định lượng AST, ALT
Sau khi cho uống hoạt chất nghiên cứu trong 7 ngày
và uống paracetamol vào ngày thứ 8, 9 chuột thí nghiệm
ở các lô nhịn ăn qua đêm được lấy máu để kiểm tra hàm
lượng AST và ALT trong huyết thanh vào ngày thứ 10.
Kết quả nghiên cứu được trình bày ở Bảng 3.
Bảng 3. Nồng độ AST, ALT trong huyết thanh
AST (UI/L) ALT (UI/L)
Chứng sinh lí 55,29 ± 6,13 38,41 ± 6,30
Chứng bệnh lí 149,57 ± 10,67 129,02 ± 20,40
Chứng tham khảo 82,64±13,22
(69,93)
58,36 ± 3,72
(77,98)
POME (100 mg/kgP) 83,81 ± 6,29
(69,75)
60,96 ± 3,50
(75,28)
POME (200 mg/kgP) 101,23±8,63
(51,27)
69,84 ± 6,29
(65,31)
POME (300 mg/kgP) 116,40±9,61
(35,18)
94,28 ± 10,90
(38,34)
*Hiệu quả bảo vệ được tính bằng 100x (giá trị kiểm soát CCl4 – giá trị mẫu nghiên cứu)/giá trị kiểm soát CCl4 –
giá trị bình thường)
Qua Bảng 3 cho thấy:
Ở nhóm chứng bệnh lý nồng độ AST tăng 2,71 lần,
ALT tăng 3,36 lần so với nhóm chứng sinh lý.
Nhóm uống cao chiết POME ở ba mức liều 100
mg/kgP, 200 mg/kgP và 300 mg/kgP có nồng độ AST,
ALT giảm với nhóm đối chứng bệnh lý. Trong đó nhóm
Nguyễn Công Thùy Trâm
18
uống cao chiết liều 100mg/kg thể trọng có nồng độ
AST, ALT giảm thấp nhất (AST giảm 1,76 lần và ALT
giảm 2,12 lần) so với nhóm đối chứng bệnh lý. Khi so
sánh hiệu quả bảo vệ gan của cao chiết POME với
silymarin cho thấy dịch chiết POME ở nồng độ
100mg/kg thể trọng có tác dụng bảo vệ gan tương
đương với tác dụng của silymarin.
3.3. Kết quả kiểm tra đại thể gan
Kết quả kiểm tra đại thể gan được thể hiện ở Bảng
4 và Hình 1.
Nhóm Quan sát hình thái trực quan gan
Chứng sinh lí Gan bình thường nhu mô gan đồng nhất, màu hồng
Chứng bệnh lí Gan nhạt màu, nhu mô gan to nổi rõ
Chứng tham khảo Gan hơi nhạt màu, nhu mô gan hơi to
POME (100mg/kgP) Gan hơi nhạt màu, nhu mô gan hơi to
POME (200mg/kgP ) Gan hơi nhạt màu, nhu mô gan hơi to
POME (300mg/kgP) Gan hơi nhạt màu, nhu mo gan hơi to
Chứng sinh lý
Chứng bệnh lý
Chứng tham khảo
POME (100mg/kgP)
POME 200mg/kgP
POME 300mg/kgP
Hình 1. Hình tổng thể gan chuột trong các nhóm thử nghiệm
Kết quả Bảng 4 và Hình 1 cho thấy nhóm chuột
dùng cao chiết POME ở liều 100 mg/kg thể trọng có bề
mặt gan nhẵn, mô gan và tế bào đều nhỏ hơn so với
nhóm bệnh lí, màu gan nhạt hơn so với nhóm chứng
sinh lý và nhóm chứng tham khảo. Ở nhóm chứng bệnh
lý, gan nhạt màu, nhu mô gan nổi rõ.
Dựa vào kết quả nghiên cứu về nồng độ enzyme
AST, ALT trong huyết thanh và hình ảnh đại thể của
gan cho thấy, paracetamol đã tác động mạnh đến tế bào
gan, gây tổn thương tế bào gan, làm các enzyme AST,
ALT trong tế bào gan được giải phóng vào trong máu,
khiến nồng độ các enzyme này trong huyết thanh tăng
lên đáng kể [1]. Ngoài ra, kết quả cũng cho thấy cao
chiết POME và silymarin có tác dụng bảo vệ gan chống
lại tác động gây độc gan của paracetamol. Cao chiết
POME ở nồng độ 100 mg/kg thể trọng có hiệu quả bảo
vệ gan gần tương đương với hiệu quả bảo vệ gan của
Silymarin. Hiệu quả vảo vệ gan của cao chiết là do
ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 6, số 1 (2016), 15-19
19
trong thành phần cao chiết của quả có chứa các hợp chất
phenolic như vanillin, (+)-pinoresinol, (+)-syringaresinol
và (+)-medioresinol[3] các chất này có đặc tính chống
oxi hóa, dập tắt các gốc tự do thông qua việc nhường
nguyên tử H [7], đáng chú ý là các chất như: (+)-
pinoresinol có tác dụng chống oxi hóa, giảm sự hình
thành các chất trung gian gây viêm thông qua sự ức chế
trung tâm hoạt động kB (NF-kB) và quá trình phosphoryl
hóa c-Jun, do đó có tác dụng bảo vệ tế bào gan [9]; (+)-
syringaresinol với tác dụng kháng viêm [8].
4. Kết luận
Kết quả nghiên cứu cho thấy: cao chiết POME ở
nồng độ 100 mg/kg thể trọng có tác dụng bảo vệ gan,
chống lại tác động gây độc của paracetamol. Những kết
quả này cho thấy tiềm năng bảo vệ gan của các hoạt
chất có trong quả cây Pandanus odoratissimus.
Tài liệu tham khảo
[1] A.A.Oyagbemi and A.A.Odetola (2010),
Hepatoprotective effects of Ethanolic extract of
Cnidoscolus aconitifolius on paracetamol-
Induced hepatic damage in Rats, Pakistan Journal
of Biological Sciences 13(4), 164-169.
[2] Bộ Y tế (1996), Hướng dẫn nghiên cứu, đánh giá tính
an toàn và hiệu lực thuốc Y học cổ truyền, Hà Nội.
[3] Nguyễn Mạnh Cường et al (2015), Chiết tác một
số chất thuộc nhóm Phenolic từ quả cây Dứa dại
Pandanus odoratissimus L.f., Tạp chí hóa học p.
432-435.
[4] David J. Newman, Gordon M. Cragg, and
Kenneth M. Snader. (2003), “Natural products as
sources of new drugs over the periode 1981-
2002”, J. Nat. prod. 66, pp 1022-1037
[5] Dodehe Yeo, Rita Bouagnon, Bernard Nazaire
Djyh, Chonta Tuo and Jean David N’guessan
(2012), Acute and subacute toxic study of
aqueous leaf extract of combretum molle.
Tropical Journal of Pharmaceutical Research
April; 11(2): 217-223.
[6] Đỗ Trung Đàm (2003), Phương pháp nghiên cứu
độc tính cấp của thuốc, NXB Y học.
[7] Enika Nagababu et al (2011), Assessment of
Antivities of Eugenol by in vitro and In vivo
Methods, Methods Mol Biol, Author manuscript
available in PMC.
[8] Hong-Jie Zhang et al (2001), Antimalarial
Compounds from Rhaphidophora decursiva,
Journal of Natural Products, 64, 772-777
[9] Hyo-Yeon Kim et al (2010), Hepatoprotective
Effect of Pinoresinol on Carbon Tetrachloride –
Induced Hepatic Damage in Mice, J. Pharmacol.
Sci., 112, 105-112.
[10] M.U. Dianzani, G. Muzia, M.E. Biocca, R.A.
Canuto (1991), Lipid peroxidation in fattyliver
induced by caffeine in rats. International journal
of tissue reactions 13, 79-85.
[11] S. Shahani (1999), Evaluation of
hepatoprotectiveefficacy of APCL-A
polyherbalformulation in vivo in rats, Indian
Drugs 36, 628-631.
[12] Shetty Akhila J, Shyamjith Deepa and Alwar
MC (2007), Actue toxicity studies and
determination of median lethal dose, Current
Science, 93(7): 917-920.
THE HEPATOPROTECTIVE EFFECTS OF THE METHANOLIC EXTRACT FROM THE
PANDANUS ODORATISSIMUS FRUIT EXPRIMENTED ON THE SWISS STRAIN OF MICE
Abstract: The hepatoprotective effects of the methanolic fruit extract from the Pandanus odoratissimus fruit have been shown
from an experiment on Swiss mice infected with paracetamol. The methanolic extract (100, 200 and 300 mg/kg body weight/day) was
given orally to the mice for seven consecutive days. On the 8th and 9th days of the experiment, the mice were intoxicated with
paracetamol (3g/kg body weight/day). Silymarin was served as a reference agent. The research results showed that the methanolic
extract from the Pandanus odoratissimus fruit had a hepatoprotective effect against paracetamol-induced liver damage. The livers of
the mice receiving the testing dose of 100 mg/kg/day were better protected than the ones receiving 200, 300 mg/kg/day. The
Pandanus odoratissimus fruit methanolic extract with a concentration of 100 mg/kg body weight/day was capable of decreasing the
plasma activeness of the aspartate amino transferase enzyme (AST) and the alanine amino transferase (ALT) enzyme 1,76 times
and 2,12 times respectively as well as reducing malondialdehyde (MDA) concentration in an experiment against the lipid peroxidation
of cell membranes compared to the control group of mice.
Key words: alanine amino transferase; aspartate amino transferase; Paracetamol malondialdehyd; peroxyl; Pandanus
oddoratissimus
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tac_dung_bao_ve_gan_cua_dich_chiet_methanol_tu_qua_dua_dai_p.pdf