Bàn luận
Cơ sở tính toán liều thử độc tính cấp của cao
chiết dược liệu dựa theo phương pháp ngoại suy
liều của Đỗ Trung Đàm. Liều thử độc tính cấp
bằng đường uống trên chuột nhắt trắng tối đa 240
g dược liệu/kg/ngày chuột gấp 12 lần liều sử
dụng điều trị thông thường của cao chiết Môn
nước trên người. Với mức liều từ 20 - 240 g dược
liệu khô/kg thể trọng chuột chưa xác định được
LD50 của cao MCE trên chuột nhắt trắng theo
đường uống ở mức liều cao nhất có thể cho chuột
uống trong 24 giờ. Điều này chứng tỏ rằng cao
MCE theo đường uống ít có độc tính và có độ an
toàn rộng.
Kết quả nghiên cứu tác dụng bảo vệ gan của
cao MCE lên hoạt độ enzym ALT, AST toàn
phần cho thấy lô chuột không uống hoạt chất bảo
vệ (lô 2) có hoạt độ AST, ALT trong huyết thanh
tăng cao và thể hiện tổn thương gan rõ rệt (quan
sát đại thể và vi thể so với lô chứng sinh lý không
sử dụng PAR). Các lô chuột uống cao MCE ở
các liều 500, 1000 và 2000 mg/kg/ngày trong
vòng 8 ngày trước khi gây độc gan đã làm giảm
hoạt độ AST, ALT trong huyết thanh, giảm trọng
lượng gan tương đối và tổn thương gan so với lô
đối chứng bệnh lý. Đặc biệt, các lô chuột uống
cao MCE liều 1000 và 2000 mg/kg/ngày có tác
dụng ngăn cản rõ độc tính của PAR đối với gan,
tương đương với đối chứng tham khảo
(silymarin liều 50 mg/kg thể trọng). Kết quả
nghiên cứu hình thái đại thể gan chuột, ở cả ba
lô chuột thực nghiệm uống cao MCE cho thấy
kích thước, mật độ nhu mô không có biểu hiện
khác biệt so với lô chứng.
Nghiên cứu cấu trúc vi thể thấy ở các nhóm
chuột uống PAR và uống thêm cao MCE liều
500, 1000 và 2000 mg/kg/ngày chuột đều có dấu
hiệu phục hồi của tế bào gan, các thùy gan và bè
gan không thay đổi về cấu trúc. Tế bào gan
không có tổn thương thoái hóa. Tĩnh mạch trung
tâm không giãn, không xung huyết, khoảng cửa
không có xâm nhập viêm.
Như vậy, cao MCE ở các liều 500, 1000 và
2000 mg/kg/ngày có tác dụng bảo vệ gan thông
qua tác dụng làm giảm hoạt độ AST, ALT và hạn
chế một phần tổn thương gan gây ra do PAR trên
mô hình chuột nhắt trắng, Trong đó, cao MCE
liều 1000 mg/kg/ngày thể hiện tác dụng bảo vệ
gan tương đương với silymarin liều 50
mg/kg/ngày, còn ở liều 2000 mg/kg/ngày có tác
dụng bảo vệ tốt hơn so với silymarin liều 50
mg/kg/ngày trong thí nghiệm này. Tác dụng bảo
vệ gan của cao methanol của Môn nước cũng phù
hợp với những kết quả của một số nghiên cứu
trước đây. Chinonyelum và cộng sự đã đánh giá
tác dụng bảo vệ gan của dịch chiết nước lá
Colocasia esculenta (L.) Schott (WCE) với liều
250 và 500 mg/kg/ngày trên mô hình gây tổn
thương gan chuột bằng thioacetamide.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 15 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác dụng của cao chiết methanol cây Môn nước (Colocasia esculenta (L.) Schott) với mô hình gây tổn thương gan bằng Paracatamol ở chuột, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 66-75
66
Original Article
Hepatoprotective Activities of Colocasia esculenta (L.)
Schottin Mice Model with Liver Injury Induced by Paracetamol
Nguyen Quang Huy1,*, Le Quy Thuong1,2, Hoang Xuan Huy3, Tran Quoc Hung3,
Phi Thi Mai Huong3, Tran Quoc Viet3, Le Thi Phuong Hoa4
1Faculty of Biology, VNU University of Science, 334 Nguyen Trai, Thanh Xuan, Hanoi, Vietnam
2Phu Tho Obstetrics & pediatrics center, Nong Trang, Viet Tri, Phu Tho, Vietnam
3Phu Tho College of Medicine and Pharmacy, Gia Cam, Viet Tri, Phu Tho, Vietnam
4Faculty of Biology, Hanoi National University of Education, 136 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
Received 24 May 2020
Revised 26 June 2020; Accepted 29 June 2020
Abstract: This paper uses the model of experimental mouse liver damage with paracetamol to
evaluate the liver protective effects of the methanol extract (Colocasia esculenta (L.) Schott) (MCE).
After 8 days, the hepatoprotective activities of MCE in mice (damaged by paracetamol) at doses of
500, 1,000 and 2,000 mg/kg/day proved effective as the AST enzyme content decreased by 6.98,
22.84 and 26.59%, respectively; and ALT decreased by 53.17, 56.46 and 57.93%, respectively. MCE
at a dose of 1,000 mg/kg/day had a protective effect equivalent to that of silymarin (used in liver
treatment) at a dose of 50 mg/kg/day and MCE at a dose of 2,000 mg/kg/day had better effect.
Observation of the microscopic liver tissue cross section also revealed that the mice treated with
MCE of C. esculenta at doses of 1,000 and 2,000 mg/kg/day showed significantly improvement in
their liver tissues compared to the non-treated control group.
Keywords: Colocasia esculenta, hepatoprotective, paracetamol.*
________
* Corresponding author.
E-mail address: huynq@hus.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1132/vnumps.4244
N.Q. Huy et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 66-75
67
Tác dụng của cao chiết methanol cây Môn nước
(Colocasia esculenta (L.) Schott) với mô hình gây tổn thương
gan bằng Paracatamol ở chuột
Nguyễn Quang Huy1,*, Lê Quý Thưởng1,2, Hoàng Xuân Huy3, Trần Quốc Hưng3,
Phí Thị Mai Hương3, Trần Quốc Việt3, Lê Thị Phương Hoa4
1Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN,
334 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam
2Trung tâm Sản nhi Phú Thọ, Nông Trang, Việt Trì, Phú Thọ, Việt Nam
3Trường Cao đẳng Y-Dược Phú Thọ, Gia Cẩm, Việt Trì, Phú Thọ, Việt Nam
4Khoa Sinh học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 136 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 24 tháng 5 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 26 tháng 6 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 29 tháng 6 năm 2020
Tóm tắt: Mô hình gây tổn thương gan chuột bằng paracetamol được sử dụng để đánh giá tác dụng
bảo vệ gan của cao chiết methanol cây Môn nước (Colocasia esculenta (L.) Schott) (MCE). Sau 8
ngày, MCE liều 500, 1000 và 2000 mg/kg/ngày thể hiện hiệu quả bảo vệ gan ở chuột (đã tổn thương
bằng paracetamol) khi hàm lượng enzym AST giảm tương ứng 6,98, 22,84 và 26,59% và enzym
ALT giảm tương ứng 53,17, 56,46 và 57,93%. MCE liều 1000 mg/kg/ngày có tác dụng bảo vệ gan
tương đương với silymarin liều 50 mg/kg/ngày (hiện đang được sử dụng trong điều trị viêm gan) và
liều 2000 mg/kg/ngày cho thấy có tác dụng tốt hơn. Tiêu bản hiển vi lát cắt ngang gan chuột cho
thấy mô gan của nhóm chuột tổn thương bởi paracetamon khi sử dụng MCE ở nồng độ 1000 và
2000 mg/kg trọng lượng được cải thiện tốt hơn so với nhóm chuột không được sử dụng.
Từ khóa: Môn nước, Colocasia esculenta, bảo vệ gan, paracetamol.
1. Mở đầu*
Ở động vật, gan đóng vai trò quan trọng
trong quá trình giải độc của cơ thể. Trong các
trường hợp tổn thương gan hay xơ gan do bệnh
lý, do tiếp xúc với các chất độc đều làm suy giảm
khả năng giải độc của gan. Có nhiều loại tổn
thương gan trong đó thường gặp là tổn thương
do viêm mãn tính khi tiếp xúc lâu dài với các chất
gây độc dẫn đến xơ gan và ung thư gan. Phần lớn
các chất gây tổn thương cho gan đều tác động
________
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: huynq@hus.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1132/vnumps.4244
vào quá trình peroxide hóa lipid màng tế bào gan
và sinh ra các gốc tự do [1].
Để gây mô hình tổn thương gan ở chuột,
người ta sử dụng các loại hóa chất như
carbontetraclorid (CCl4), paracetamol, ethanol,
aflatoxin B, ... Mỗi mô hình tổn thương gan đều
có cơ chế đặc hiệu riêng [2,3] trong đó
paracetamol (PAR) là tác nhân gây tổn thương
gan phổ biến do tạo ra gốc tự do và gây peroxide
hóa màng tế bào gan. Ngoài cơ chế sinh ra gốc
tự do tương tự như tác nhân truyền thống gây độc
N.Q. Huy et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 66-75
68
gan cấp tính là CCl4, paracetamol còn làm suy
kiệt hệ thống chống oxi hóa của cơ thể.
Paracetamol sau khi vào cơ thể, một phần bị
chuyển hóa bởi các cytochrome P450 tạo thành
N-acetylpara-benzoquiononimin (NAPQI), một
gốc tự do gây peroxide hóa lipid và tạo malonyl
dialdehyd (MDA) làm tổn thương các tế bào gan,
tăng AST, ALT và làm biến đổi cấu trúc gan [4].
Môn nước (Colocasia esculenta (L.) Schott)
là loại cây được trồng chủ yếu ở các nước Đông
Nam Á hay mọc hoang dại. Cây có củ làm lương
thực, thức ăn cho người và gia súc [5]. Các dịch
chiết từ cây Môn nước có tác dụng dược lý như
chống viêm, kháng vi sinh vật, chống oxy hóa và
chống ung thư [6]. Nhiều hợp chất trong cây
Môn nước đã được tách chiết, xác định cấu trúc
hoá học như: pelargonidin-3-glucoside,
cyanidin-3-glucoside, vitexin, isovitexin,
luteoin-7-O-sophoroside, ... [7]. Một số hợp
chất có hoạt tính sinh học đã được phân lập,
xác định hoạt tính như các flavonoid, β-
sitosterol, steroid [8,9].
Ở Việt Nam, việc sử dụng cây Môn nước
trong điều trị một số bệnh đã được nghiên cứu,
tìm hiểu [10]. Tuy nhiên, các nghiên cứu về
thành phần hóa học, tác dụng sinh học của cây
Môn nước vẫn còn rất hạn chế. Trong khuôn khổ
bài báo, chúng tôi trình bày các kết quả nghiên
cứu về tác dụng tăng cường và bảo vệ chức năng
gan trên mô hình gây tổn thương gan chuột Swiss
albino bằng paracetamol của cao chiết methanol
cây Môn nước.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng, nguyên liệu
Phần trên mặt đất cây Môn nước (Colocasia
esculenta (L.) Schott) được thu hái vào tháng
6/2019 tại Thanh Sơn, Phú Thọ và được phân
loại, định danh bởi Nguyễn Anh Đức, Trường
ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN. Các mẫu
sau khi thu hái về được rửa sạch, loại bỏ phần hư
hỏng, phơi khô và nghiền thành bột mịn. 2 kg bột
mịn được ngâm chiết bằng methanol, cô quay
loại dung môi dưới áp suất giảm thu được cao
chiết methanol (MCE).
Chuột nhắt trắng chủng Swiss albino, khoẻ
mạnh, khối lượng 22g, 5-6 tuần tuổi do Viện Vệ
sinh dịch tễ Trung ương cung cấp. Chuột được
nuôi ổn định 1 tuần trong điều kiện thí nghiệm
với chu kỳ 12 giờ sáng/12 giờ tối.
2.2. Thiết bị và hóa chất nghiên cứu
Thiết bị chính được sử dụng gồm máy cô
quay chân không (Heidolph, Đức), máy cắt
microtome (Leica, Đức), kính hiển vi (Olympus,
Nhật Bản), cân phân tích (Mettler Toledo, Thụy
Sĩ), tủ sấy (Memmert, Đức). Hệ thống định
lượng sinh hoá bán tự động AU680 (Beckman
Coulter, Mỹ) được sử dụng định lượng AST,
ALT toàn phần trong huyết thanh.
Các hóa chất silymarin (Legalon),
paracetamol (A7085, Sigma Aldrich) tinh khiết
dạng bột và các hoá chất khác đảm bảo độ tinh
sạch cho phân tích nghiên cứu.
2.3. Các phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu độc tính cấp
Độc tính cấp của cao chiết MCE được nghiên
cứu trên chuột theo hướng dẫn của Đỗ Trung
Đàm [11] và giá trị LD50 được tính theo phương
pháp Litchfield - Wilconxon [12].
Cách làm: chia ngẫu nhiên chuột thành 6 lô,
mỗi lô 8 con. Lô đối chứng uống nước cất, các lô
thí nghiệm uống cao MCE với liều tương ứng 20;
80; 120; 160; 240 g bột Môn nước/kg thể trọng.
Trước thí nghiệm chuột nhịn ăn 12 giờ và được
uống nước tự do. Mỗi chuột được uống 3 giờ/lần
× 3 lần/ngày. Nước cất và cao chiết đưa thẳng
vào dạ dày chuột bằng kim cong đầu tù với thể
tích tối đa 10 ml/kg thể trọng chuột. Theo dõi
tình trạng chung của chuột và số lượng chuột
chết ở mỗi lô trong vòng 72 giờ sau khi uống
thuốc lần cuối. Xác định liều cao nhất không gây
chết chuột (0%), liều thấp nhất gây chết chuột hoàn
toàn (100%) và liều trung gian, từ đó xây dựng đồ
thị tuyến tính xác định LD50 của cao chiết.
Theo dõi tình trạng chung của chuột (hoạt
động, ăn uống, bài tiết) ở mỗi lô cho đến hết 7
N.Q. Huy et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 66-75
69
ngày sau uống thuốc. Tiến hành phẫu tích, quan
sát tình trạng các tạng ngay khi có chuột chết để
đánh giá tổn thương mô bệnh học các cơ quan.
2.3.2. Mô hình gây tổn thương gan thực
nghiệm bằng paracetamol
Nghiên cứu tác dụng bảo vệ gan của cao
MCE trên mô hình gây tổn thương gan thực
nghiệm bằng paracetamol (PAR) [13].
Paracetamol (PAR) được pha trong H2O với
nồng độ 50 mg/mL. Gây tổn thương gan bằng
PAR với liều 400 mg/kg. Chuột được chia thành
6 lô, mỗi lô 6 con. Lô 1: uống DMSO 10% với
liều lượng 0,2 mL/con/ngày (lô chứng sinh học);
Lô 2: uống DMSO 10% + PAR (lô bệnh lý); Lô
3, lô 4 và lô 5: chuột được uống DMSO 10% +
PAR và cao MCE với liều tương ứng 500, 1000
và 2000 mg/kg/ngày (các lô thí nghiệm); Lô 6:
uống DMSO 10% + PAR + silymarin 50
mg/kg/ngày (lô đối chứng dương).
Chuột ở các lô được uống nước hoặc cao
chiết trong khoảng 8 - 9 giờ buổi sáng liên tục
trong 8 ngày. Ngày thứ 8, chuột nhịn đói 16 - 18
giờ sau đó cho uống cao chiết. Sau khi uống 3
giờ, gây tổn thương gan chuột ở các lô từ 2 đến
6 bằng cách cho chuột uống PAR một liều duy
nhất 400 mg/kg thể trọng. Sau 1 giờ, chuột được
ăn uống bình thường. Sau 48 giờ, máu động
mạch cảnh chuột được lấy để định lượng hoạt độ
enzym AST, ALT toàn phần trong huyết thanh.
Phương pháp xác định chức năng gan
Chức năng gan được xác định thông qua định
lượng hoạt độ của aminotransferase [aspartate
aminotransferase (AST), alanine
aminotransferase (ALT)] toàn phần trong huyết
thanh chuột trên hệ thống AU680 của hãng
Beckman Coulter.
Phương pháp kiểm tra trực quan gan: sau khi
lấy máu xét nghiệm, chuột được mổ để đánh giá
ảnh hưởng của cao chiết tới khối lượng gan, quan
sát đại thể và chụp ảnh gan.
Phương pháp làm tiêu bản vi thể tế bào gan:
gan chuột sau khi mổ được cố định bằng formol
10%, xử lí và nhuộm hematoxylin-eosin [14].
Phương pháp xác định MDA dịch đồng thể
gan [15]: cân 0,25g gan chuột được nghiền với 6
ml dung dịch KCl 0,12%. 1ml dung dịch nghiền
được bổ sung 0,25ml acid ascorbic, 0,25 ml muối
Mohr và ủ 37oC trong 30 phút. Bổ sung 0,5ml
acid tricloacetic, ly tâm thu dịch để đun sôi 20
phút và đo mật độ quang ở bước sóng 532nm.
Hàm lượng MDA (nM/mL) được tính theo
phương trình hồi quy xây dựng với chất chuẩn
MDA: y = 0,0637x - 0,0029(R2 = 0,9981).
Hàm lượng MDA (nM/mL dịch đồng thể) =
(ODthử + 0,0029)/0,0637.
X = mgan / mchuột
Trong đó: mgan: khối lượng gan; mchuột: khối
lượng chuột trước khi mổ.
2.3.4. Phương pháp xử lí số liệu
Các số liệu được xử lí trên excell, thuật toán
thống kê Student's t-test, F’test, phương pháp
phân tích phương sai một nhân tố ngẫu nhiên
(ANOVA) và sử dụng hệ số LSD (least
significant difference) để kiểm tra sự sai khác có
ý nghĩa so với đối chứng sinh lí, với đối chứng
bệnh lí, với đối chứng tham khảo (silymarin).
Nếu p<0,05 kết quả được coi là sai khác có ý
nghĩa thống kê, nếu p>0,05 thì sự sai khác là
không có ý nghĩa thống kê.
3. Kết quả và bàn luận
3.1. Nghiên cứu độc tính cấp đường uống
Sau khi uống cao MCE ở các liều từ 20- 240
g/kg/ngày chuột được theo dõi, quan sát hành vi
của chuột ngay sau uống thấy chuột giảm vận
động, hơi lờ đờ. Sau đó, chuột không có biểu
hiện gì đặc biệt, chuột ăn uống, vận động bình
thường, không bị khó thở. Tuy nhiên một số
chuột bị tiêu chảy ở các liều từ 160g -
240g/kg/ngày. Do vậy, liều tối đa có thể cho
chuột uống là 0,25 ml cao methanol/10g thể
trọng, 3 lần trong 24 giờ, tương ứng với 75 ml
cao methanol/kg thể trọng chuột, tương đương
240g bột khô/kg. Đây cũng là thể tích tối đa có
thể cho uống trên chuột nhắt trắng và là nồng độ
cao nhất có thể cho được chuột uống bằng kim
đầu tù chuyên dụng.
N.Q. Huy et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 66-75
70
Nghiên cứu không quan sát thấy hiện tượng
chuột chết trong vòng 72 giờ sau khi uống cao
chiết MCE. Tiếp tục theo dõi trong 7 ngày sau
khi uống không phát hiện thấy chuột có hành vi
bất thường, các hoạt động sinh hoạt, ăn uống và
phát triển bình thường như nhóm đối chứng. Do
vậy, chúng tôi không xây dựng được đồ thị hồi
qui tuyến tính giữa liều lượng thuốc và tỷ lệ
chuột chết ở các liều dùng khác nhau, không xác
định được LD50 của cao MCE theo đường uống
trên chuột nhắt trắng bằng phương pháp
Litchfield – Wilcoxon.
3.2. Tác dụng của cao MCE lên hoạt độ AST,
ALT toàn phần trong huyết thanh chuột
Sau thí nghiệm, chuột ở các lô được lấy máu
để kiểm tra hoạt độ AST, ALT toàn phần trong
huyết thanh. Kết quả hoạt độ AST và ALT của
từng chuột trong các lô được xác định ở Bảng 1.
Kết quả Bảng 1 cho thấy hoạt độ AST và
ALT ở lô đối chứng bệnh lý (lô 2) tăng cao rõ rệt
so với lô chứng sinh học (lô 1) (p<0,05). Các lô
chuột uống cao MCE ở cả 3 liều 500, 1000 và
2000 mg/kg/ngày (lô 3, lô 4 và lô 5) trong 8 ngày
trước khi gây độc gan thì hoạt độ enzym AST đã
giảm so với lô bệnh lý (lô 2) và tương đương với
lô đối chứng dương (lô 6), không khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p<0,05).
Trong khi đó ở cả ba mức liều sử dụng cao
MCE hoạt độ enzym ALT giảm mạnh so với lô
bệnh lý và tốt hơn so với lô đối chứng dương.
Như vậy, so với sử dụng silymarin liều 50
mg/kg/ngày trong mô hình gây tổn thương gan
bằng PAR, cao MCE có tác dụng tốt tương
đương với hoạt độ enzym AST (p<0,05) và tốt
hơn với hoạt độ enzym ALT (p<0,05).
So sánh 3 lô thí nghiệm (lô 3, 4 và 5) cho
thấy lô 3 (liều 500 mg/kg/ngày) làm giảm hoạt
độ enzym AST và ALT kém hơn các lô 4 và 5
(p>0,05).
Bảng 1. Hoạt độ enzym AST và ALT toàn phần trong huyết thanh chuột
Lô
Điều kiện
thí nghiệm
Hoạt độ AST trung bình
(U/L)
Hoạt độ ALT trung bình
(U/L)
Tỷ lệ
giảm
AST (%)
Tỷ lệ giảm
ALT (%)
1 DMSO 10% 70,01 ± 5,11 39,63 ± 8,36 - -
2
DMSO 10% +
PRA 400
mg/kg/ngày
120,03 ± 3,75
p < 0,05 so với lô 1
150,00 ± 23,50
p < 0,05 so với lô 1
0 0
3
Cao chiết MCE
liều 500
mg/kg/ngày
111,65 ± 13,61
p < 0,05 so với lô 2
p < 0,05 so với lô 6
p > 0,05 so với lô 4 và 5
70,25 ± 11,21
p < 0,05 so với lô 2
p < 0,05 so với lô 6
p > 0,05 so với lô 4 và lô 5
6,98 53,17
4
Cao chiết MCE
liều 1000
mg/kg/ngày
92,61 ± 11,83
p < 0,05 so với lô 2
p < 0,05 so với lô 6
65,31 ± 7,55
p < 0,05 so với lô 2
p < 0,05 so với lô 6
22,84 56,46
5
Cao chiết MCE
liều 2000
mg/kg/ngày
88,11 ± 18,53
p < 0,05 so với lô 2
p < 0,05 so với lô 5
63,11 ± 9,37
p < 0,05 so với lô 2
p < 0,05 so với lô 6
26,59 57,93
6
Silymarin liều 50
mg/kg/ngày
89,71 ± 4,05
p < 0,05 so với lô 1
p > 0,05 so với lô 2
73,62 ± 9,38
p < 0,05 so với lô 1
p < 0,05 so với lô 2
25,26 50,92
N.Q. Huy et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 66-75
71
Bảng 2. Sự biến đổi khối lượng gan chuột ở các lô thí nghiệm
Lô Điều kiện thí nghiệm Khối lượng gan (g/10 g cơ thể) Mức ý nghĩa (p)
1 DMSO 10% 0,392 ± 0,007 -
2 DMSO 10% + PRA 400 mg/kg 0,510 ± 0,081 p < 0,05 so với lô 1
3 Cao MCE 500 mg/kg/ngày 0,427 ± 0,056
p < 0,05 so với lô 2
p > 0,05 so với lô 6
4 Cao MCE 1000 mg/kg/ngày 0,415 ± 0,033
p < 0,05 so với lô 2
p > 0,05 so với lô 6
5 Cao MCE 2000 mg/kg/ngày 0,433 ± 0,041
p < 0,05 so với lô 2
p > 0,05 so với lô 6
6 Silymarin 50 mg/kg/ngày 0,417 ± 0,036
p < 0,05 so với lô 2
p > 0,05 so với lô 1
Lô 1 Lô 2 Lô 3 Lô 4 Lô 5 Lô 6
Hình 1. Ảnh tổng thể của gan chuột trong các lô thí nghiệm.
Chú thích: Lô 1: gan màu đỏ, mặt nhẵn, mật độ mềm, không phù nề, không sung huyết, Lô 2: gan màu đỏ thẫm,
phù nề, sung huyết, bề mặt không nhẵn, có chỗ bị hoại tử và bạc màu, Lô 3: gan nhạt màu, phù nề, sung huyết
nhẹ, bề mặt gan có một vài chấm xuất huyết, Lô 4: gan nhạt màu, bề mặt nhẵn có vài điểm tổn thương và xung
huyết nhẹ, Lô 5: gan hồng mịn, bề mặt nhẵn, xung huyết nhẹ, không thấy tổn thương, Lô 6: gan hồng mịn, bề
mặt nhẵn có vài điểm tổn thương, xung huyết nhẹ.
3.3. Tác dụng của cao MCE lên với các chỉ số
gan chuột
Tác dụng lên khối lượng gan
Sự biến đổi khối lượng gan ở các lô thí
nghiệm được trình bày trong Bảng 2.
Kết quả kiểm tra cho thấy khối lượng gan
tương đối ở lô bệnh lý (lô 2), khi không sử dụng
hoạt chất bảo vệ, gan có khối lượng tăng rõ rệt
so với lô chứng sinh học (lô 1) (p<0,05), trong
khi đó, ở các lô có sử dụng cao MCE ở các liều
500, 1000, 2000 mg/kg/ngày và silymarin 50
mg/kg/ngày, khối lượng gan đều giảm so với lô
chứng bệnh lý (lô 2). Tuy nhiên kết quả khác biệt
này chưa có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
3.2. Tác dụng lên cấu trúc đại thể gan
Ảnh hưởng của cao chiết lên đại thể gan
chuột ở các lô được thể hiện ở Hình 1. Kiểm tra
đại thể gan giữa các lô cho thấy các lô chuột uống
cao MCE và lô đối chứng dương uống silymarin
biểu hiện tổn thương gan có giảm so với lô chứng
bệnh lý (lô 2). Đặc biệt, lô 5 chuột uống cao
MCE liều 2000 mg/kg/ngày và lô 6 uống
silymarin 50 mg/kg/ngày, hình thái bên ngoài và
màu sắc gan đã phục hồi, biểu hiện gan sáng
hồng, bề mặt nhẵn, gần như không quan sát thấy
biểu hiện tổn thương gan (Hình 1).
Kết quả quan sát hình thái gan cho rõ thấy lô
sử dụng cao MCE ở các liều uống đều có tác
dụng tốt đến khả năng bảo vệ gan trên mô hình
gây độc gan chuột bằng paracetamol (Hình 1).
N.Q. Huy et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 66-75
72
3.3. Tác dụng của cao MCE lên sự thay đổi mô
bệnh học gan chuột gây độc bằng paracetamol
Phân tích mô bệnh học cung cấp bằng chứng
bổ sung cho việc điều trị bằng cao MCE đã cải
thiện được hình thái mô gan chuột gây độc bởi
PAR. Ở lát cắt gan chuột lô chứng sinh học (lô
1) các tế bào gan tròn đều xếp khít nhau tạo thành
các dãy tế bào gan hướng tĩnh mạch trung tâm,
nhìn rõ được xoang gan. Ở các lát cắt gan lô bệnh
lý (lô 2) có sự thay đổi cấu trúc so với gan bình
thường. Nhiều tế bào gan bị tổn thương và mất
đi cấu trúc đặc trưng (Hình 2).
Tế bào gan tích trữ nhiều giọt lipid, tế bào trở
nên trương phồng và nhiễm mỡ màng của hai tế
bào liền kề bị dính lại với nhau, dẫn đến không
xác định được vị trí của xoang gan.
Ngược lại, ở các lô thí nghiệm uống PAR và
uống thêm silymarin hoặc cao MCE có sự phục
hồi được cấu trúc tế bào gan. Nhóm chuột uống
PAR và uống silymarin có các tế bào gan xếp
thành dãy hướng tĩnh mạch, quan sát được xoang
gan. Tế bào gan không trương phồng có nhân
tròn đều. Các tổ chức thực bào giảm rõ rệt, tập
trung chủ yếu quanh các cấu trúc mạch, chứng tỏ
hiệu quả bảo vệ gan của silymarin. Nhóm chuột
uống PAR và uống thêm cao MCE liều 500,
1000 và 2000 mg/kg/ngày chuột đều có dấu hiệu
phục hồi của tế bào gan.
Lô 1: Gan bình thường
Lô 2: Gan thoái hóa nặng
Lô 3: Gan thoái hóa vừa
Lô 4: Gan thoái hóa nhẹ
Lô 5: Gan thoái hóa nhẹ
Lô 6: Gan thoái hóa nhẹ
Hình 2. Ảnh tiêu bản vi thể tế bào gan chuột ở các lô thí nghiệm.
Đối với nhóm chuột uống PAR được điều trị
bằng cao MCE liều 500 mg/kg/ngày, trong gan
các tế bào không nhân đã giảm cũng như các giọt
lipid trong các tế bào đã giảm nhiều nhưng vẫn
còn nhiều tổ chức thực bào. Ở nhóm chuột uống
PAR được điều trị bằng cao MCE liều 1000
mg/kg/ngày, nhân tế bào gan tròn đều, giảm sự
tích trữ các giọt lipid trong các tế bào, quan sát
được hướng của các dãy gan tỏa ra từ tĩnh mạch.
Các tổ chức thực bào đã giảm xuống đáng kể. Ở
nhóm chuột uống PAR được điều trị bằng cao
MCE liều 2000 mg/kg/ngày, mô gan được cải
thiện tương tự liều 1000 mg/kg/ngày (Hình 2).
N.Q. Huy et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 66-75
73
Bảng 3. Hàm lượng MDA trong các mẫu gan ở các lô chuột thí nghiệm
Lô Điều kiện thí nghiệm
MDA
(mM/mL)
MDA tăng
so với lô 1
(lần)
Mức ý nghĩa (p)
1 DMSO 10% 3,853 ± 0,31 0 -
2 DMSO 10% + PRA 400 mg/kg 10,324 ± 0,87 2,68 p < 0,05 so với (lô 1)
3 Cao MCE 500 mg/kg/ngày
8,563 ± 0,55
2,23
p > 0,05 so với (lô 2)
p > 0,05 so với (lô 6)
4 Cao MCE 1000 mg/kg/ngày 5,721 ± 0,41 1,49
p < 0,05 so với (lô 2)
p > 0,05 so với (lô 6)
5 Cao MCE 2000 mg/kg/ngày 4,857 ± 0,62 1,26
p < 0,05 so với (lô 2)
p > 0,05 so với (lô 6)
6 Silymarin 50 mg/kg/ ngày 6,019 ± 0,58 1,56
p < 0,05 so với (lô 2)
p > 0,05 so với (lô 1)
3.4. Tác động của MCE lên hàm lượng MDA
trong gan
Hàm lượng MDA trong gan được trình bày ở
bảng 3 cho thấy khi chuột được uống cao MCE
liều 1000 và 2000 mg/kg/ngày (lô 4 và lô 5) và
silymarin (lô 6) thì hàm lượng MDA trong gan
thấp hơn so với đối chứng (lô 2) và sự sai khác
có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Lô 3 uống cao MCE liều 500 mg/kg/ngày
hàm lượng MDA trong gan cũng được cải thiện
so với lô bệnh lý (lô 2) không được sử dụng hoạt
chất bảo vệ, tuy nhiên sự sai khác chưa có ý
nghĩa thống kê so với đối chứng dương (p>0,05)
(Bảng 3).
Cao MCE ở các liều uống thí nghiệm đều có
tác dụng bảo vệ gan. Với liều 1000 mg/kg/ngày
thể hiện tác dụng bảo vệ gan tương đương với
silymarin liều 50 mg/kg/ngày, còn ở liều 2000
mg/kg/ngày có tác dụng bảo vệ tốt hơn so với
silymarin liều 50 mg/kg/ngày.
4. Bàn luận
Cơ sở tính toán liều thử độc tính cấp của cao
chiết dược liệu dựa theo phương pháp ngoại suy
liều của Đỗ Trung Đàm. Liều thử độc tính cấp
bằng đường uống trên chuột nhắt trắng tối đa 240
g dược liệu/kg/ngày chuột gấp 12 lần liều sử
dụng điều trị thông thường của cao chiết Môn
nước trên người. Với mức liều từ 20 - 240 g dược
liệu khô/kg thể trọng chuột chưa xác định được
LD50 của cao MCE trên chuột nhắt trắng theo
đường uống ở mức liều cao nhất có thể cho chuột
uống trong 24 giờ. Điều này chứng tỏ rằng cao
MCE theo đường uống ít có độc tính và có độ an
toàn rộng.
Kết quả nghiên cứu tác dụng bảo vệ gan của
cao MCE lên hoạt độ enzym ALT, AST toàn
phần cho thấy lô chuột không uống hoạt chất bảo
vệ (lô 2) có hoạt độ AST, ALT trong huyết thanh
tăng cao và thể hiện tổn thương gan rõ rệt (quan
sát đại thể và vi thể so với lô chứng sinh lý không
sử dụng PAR). Các lô chuột uống cao MCE ở
các liều 500, 1000 và 2000 mg/kg/ngày trong
vòng 8 ngày trước khi gây độc gan đã làm giảm
hoạt độ AST, ALT trong huyết thanh, giảm trọng
lượng gan tương đối và tổn thương gan so với lô
đối chứng bệnh lý. Đặc biệt, các lô chuột uống
cao MCE liều 1000 và 2000 mg/kg/ngày có tác
dụng ngăn cản rõ độc tính của PAR đối với gan,
tương đương với đối chứng tham khảo
(silymarin liều 50 mg/kg thể trọng). Kết quả
nghiên cứu hình thái đại thể gan chuột, ở cả ba
lô chuột thực nghiệm uống cao MCE cho thấy
kích thước, mật độ nhu mô không có biểu hiện
khác biệt so với lô chứng.
Nghiên cứu cấu trúc vi thể thấy ở các nhóm
chuột uống PAR và uống thêm cao MCE liều
500, 1000 và 2000 mg/kg/ngày chuột đều có dấu
hiệu phục hồi của tế bào gan, các thùy gan và bè
N.Q. Huy et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 66-75
74
gan không thay đổi về cấu trúc. Tế bào gan
không có tổn thương thoái hóa. Tĩnh mạch trung
tâm không giãn, không xung huyết, khoảng cửa
không có xâm nhập viêm.
Như vậy, cao MCE ở các liều 500, 1000 và
2000 mg/kg/ngày có tác dụng bảo vệ gan thông
qua tác dụng làm giảm hoạt độ AST, ALT và hạn
chế một phần tổn thương gan gây ra do PAR trên
mô hình chuột nhắt trắng, Trong đó, cao MCE
liều 1000 mg/kg/ngày thể hiện tác dụng bảo vệ
gan tương đương với silymarin liều 50
mg/kg/ngày, còn ở liều 2000 mg/kg/ngày có tác
dụng bảo vệ tốt hơn so với silymarin liều 50
mg/kg/ngày trong thí nghiệm này. Tác dụng bảo
vệ gan của cao methanol của Môn nước cũng phù
hợp với những kết quả của một số nghiên cứu
trước đây. Chinonyelum và cộng sự đã đánh giá
tác dụng bảo vệ gan của dịch chiết nước lá
Colocasia esculenta (L.) Schott (WCE) với liều
250 và 500 mg/kg/ngày trên mô hình gây tổn
thương gan chuột bằng thioacetamide. Kết quả
phân tích sinh hóa máu cho thấy cả 2 liều dịch
chiết WCE đều làm giảm đáng kể hoạt độ AST,
ALT và ALP huyết thanh (p<0,05) khi so sánh
với nhóm đối chứng sinh học. Phân tích mô bệnh
học gan cho thấy hoạt tính của dịch chiết WCE
tương đương với silymarin liều 50 mg/kg/ngày
[16]. Trên hình gây tổn thương gan chuột bằng
carbon tetrachloride (CCl4) Dayo và cộng sự đã
sử dụng dịch chiết nước lá Colocasia esculenta
(L.) Schott (WCE) để đánh giá tác dụng bản vệ
gan bị tổn thương do CCl4 gây ra ở các liều 100,
200, 400 mg/kg/ngày. Phân tích huyết học cho
thấy dịch chiết WCE ở tất cả các mức liều trên
đều làm giảm hoạt độ AST, ALT và ALP huyết
thanh và gia tăng số lượng tế bào hồng cầu, bạch
cầu và hemoglobin (p<0,05) [17].
5. Kết luận
Cao chiết methanol của Môn nước với liều
1000 và 2000 mg/kg/ngày có khả năng bảo vệ
gan ở mô hình gây tổn thương gan bằng
paracetamol ở chuột, làm giảm hoạt độ enzym
ALT, AST và cải thiện cấu trúc mô học gan.
Tài liệu tham khảo
[1] S. Shahani. Evaluation of hepatoprotective efficacy
of APCL-A poly herbal formulation in vivo in rats,
Indian Drugs. 36(1999) 628-631.
[2] Y. Cui, X. Yang, X. Lu, J. Chen, Y. Zhao.
Protective effects of polyphenols-enriched extract
from Huangshan Maofeng green tea against CCl4-
induced liver injury in mice, Chemico- Biological
Interactions 220 (5) (2014) 75-83.
https://doi.org/10.1016/j.cbi.2014.06.018
[3] K.C. Choi, W.T. Chung, J.K. Kwon, J.Y. Yu, Y.S.
Jang, S.M. Park, S.Y. Lee, J.C. Lee. Inhibitory
effects of quercetin on aflatoxin B1 induced
hepatic damage in mice, Food Chemical
Toxicology, 48 (10) (2010) 2747-2753 .
https://doi.org/10.1016/j.fct.2010.07.001
[4] E.S. Sabina, J. Samue, S.R. Ramya, S. Patel, N.
Mandal, P. Preety, P.P. Mishra, M.K. Rasool.
Hepatoprotective and antioxidant potential of
Spirulina fusiformis on acetaminophen induced
hepatotoxicity in mice, International Journal of
Integrative Biology 6 (1) (2009) 1-5.
[5] Pham Hoang Ho. Vietnamese plants, episode III.
Young Publishing House, (1999), pp. 353 (in
Vietnamese).
[6] C.O. Eleazu, M. Iroaganachi, K.C. Eleazu.
Ameliorative potentials of cocoyam (Colocasia
esculenta L.) and unripe plantain (Musa
paradisiaca L.) on the relative tissue weights
ofstreptozotocin-induced diabetic rats. Journal of
Diabetes Research, 197 (2013),
https://doi.org/10.1155/2013/160964.
[7] R.C. Cambie, L.R. Ferguson. Potential functional
foods in the traditional Maori diet. Mutation
Research Letters 523–524 (2003) 109-117.
https://doi.org/10.1016/s0027-5107(02)00344-5
[8] C.L. Abraham, K. Yoshinori, T. Masakuni, I.
Hironori, O. Hirosuke, T. Hajime. Flavonoid
glycosides in the shoot system of Okinawa Taumu
(Colocasia esculenta S). Food Chemistry 119
(2010) 630- 635.
https://doi.org/10.1016/j.foodchem.2009.07.004
[9] P.J. Bouic, D. Etsebeth, R.W. Liebenberg, C.F.
Albrecht, K. Pegel, J.P.P. Van. Beta sitosterol and
beta sitosterol glycoside stimulate human
peripheral blood lymphocyte proliferation:
Implications for their use as an immunomodulatory
vitamin combination. International Journal of
Immuno-pharmacology 18 (12) (1996) 693-700.
https://doi.org/10.1016/S0192-0561(97)85551-8.
N.Q. Huy et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 66-75
75
[10] Vo Van Chi. Dictionary of Vietnamese medicinal
plants. Medical Publishing House (1997), pp. 871-
873 (in Vietnamese).
[11] Do Trung Dam. Method of determining drug
toxicity. Medical Publishing House, Hanoi (2014),
pp. 11-137 (in Vietnamese).
[12] J.T. Litchfield, F. Wilcoxon. A simplified method
of evaluating dose-effect experiments, Journal of
Pharmcology and Experimental Therapeutics, 96
(2) (1949) 99-113. PMID: 18152921
[13] Doan Thi Nhu, Do Trung Dam, Pham Duy Mai.
Method research of the pharmacological effect of
drugs from medicinal herbs, Science and Technics
Publishing House, Hanoi (2006), pp. 142 (in
Vietnamese).
[14] A. Godwin. Histochemical uses of haematoxylin -
A Review. JPCS 1 (2011) 24-34.
[15] Ho Thi Thanh Huyen, Thai Nguyen Hung Thu,
Nguyen Thai An. Some results of plan microscopic
studies and chemical composition of Bombax
malabaricum DC., Bombacaceae, Proceeding
Pharma Indochina VII, 10/2011, The 7th Indochina
Conference on Pharmaceutical science, Bangkok,
Thai Lan (2011) 270-274.
[16] A.N. Chinonyelum, A.P. Uwadiegwu, O.C.
Nwachukwu, O. Emmanuel. Evaluation of
hepatoprotective activity of Colocasia esculenta
(L. Schott) leaves on thioacetamide-induced
hepatotoxicity in rats. Pakistan Journal
Pharmaceutical Sciences, 28 (6S) (2015) 2237-2241.
[17] O.F. Dayo, B.C. Eluke, E.O. Ukaejiofo, O.L.
Olayinka, C.I. Johnpaul, O.A.K .Tajudeen, I.
Chinwe, L.S. Adetona. Hepatoproactive and
haematopoietic modulatory efficacy of leaf extract
of Colocasia esculenta in Albino wistar rats.
International Journal of Tropical Medicine 12 (3-
6) (2017) 35-41.
https://doi.org/3923/ijtmed.2017.35.41.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tac_dung_cua_cao_chiet_methanol_cay_mon_nuoc_colocasia_escul.pdf