Tác dụng phụ theo công thức điều trị
Trong 135 bệnh nhân được theo dõi trong
nghiên cứu này, có 99 bệnh nhân được điều trị
bằng công thức 1a, 36 bệnh nhân được điều trị
bằng công thức 1b.
Ta thấy có sự khác biệt rõ rệt về biểu hiện
của tác dụng phụ chóng mặt, mất ngủ và triệu
chứng sốt (gồm sốt, sốt kèm ớn lạnh, sốt kèm
lạnh run) ở hai nhóm bệnh nhân này.
Triệu chứng chóng mặt ở nhóm bệnh nhân
được điều trị bằng công thức 1a là 1% trong
khi ở nhóm bệnh nhân được điều trị bằng
công thức 1b thì triệu chứng này gặp ở 47,2%
(p<0,05).
Triệu chứng mất ngủ ở nhóm điều trị công
thức 1a là 9.1% và ở nhóm điều trị công thức
1b là 47,2% (p<0,05).
Ở nhóm điều trị bằng công thức 1b có biểu
hiện triệu chứng sốt là 2,8%, trong khi ở nhóm
điều trị bằng công thức 1a triệu chứng này là
17,2% (p < 0,05).
Tuy biểu hiện dị ứng da tương đối giống
nhau ở cả hai phác đồ điều trị, nhưng ta thấy
rằng các biểu hiện dị ứng da nặng như: đỏ da
toàn thân và hội chứng Steven – Johnson chỉ
xảy ra ở những bệnh nhân điều trị bằng phác
đồ 1a. Tỷ lệ bệnh nhân bị dị ứng da nặng ở
phác đồ 1a là 10% so với phác đồ 1b là 0%, p =
0,05. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống
kê có thể là do số bệnh nhân đưa vào nghiên
cứu chưa đủ lớn.
Theo nghiên cứu của AK Patel, tỷ lệ bệnh
nhân điều trị bằng phác đồ 1a bị dị ứng da cao
hơn so với nhóm bệnh nhân điều trị bằng phác
1b (6,6% so với 2,32%) và rối loạn về thần kinh
như chóng mặt thì nhóm bệnh nhân điều trị
bằng phác đồ 1a thấp hơn hẳn so với nhóm
bệnh nhân điều trị bằng phác đồ 1b (0,93% so
với 20,15%).
Kết quả này cũng tương tự như nghiên cứu
của chúng tôi và giống như mô tả tác dụng
phụ trong một số y văn khác(2,5,8).
Tuy nhiên, có một điểm khác biệt giữa
nghiên cứu của chúng tôi với nghiên cứu của
AK Patel. Trong nghiên cứu của AK Patel, tác
dụng phụ viêm gan ở những bệnh nhân điều
trị bằng phác đồ 1a nhiều hơn phác đồ 1b
(3,2% so với 0%) giống như mô tả trong y
văn(3,4,5,8). Trong khi nghiên cứu của chúng tôi
thì ngược lại, tỷ lệ bệnh nhân tăng men gan ở
bệnh nhân được điều trị ở phác đồ 1b lại nhiều
hơn bệnh nhân được điều trị bằng phác đồ 1a
(16,7% so với 9,1%).
Sự khác biệt này là do trong nghiên cứu
của chúng tôi có tới 50% bệnh nhân điều trị
bằng phác đồ 1b đang điều trị cùng lúc với lao.
Trong khi đó ở phác đồ 1a chỉ có 8,1% bệnh
điều trị cùng lúc với lao. Do tác dụng phụ của
ARV và thuốc chống lao xảy ra cùng lúc nên
giải thích được tại sao trong nghiên cứu này tỷ
lệ bệnh nhân có tăng men gan lại cao ở những
bệnh nhân được điều trị bằng phác đồ 1b.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 29/01/2022 | Lượt xem: 203 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác dụng phụ của các thuốc điều trị HIV ở bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS được điều trị hai phác đồ 4T, 3TC, NVP và D4T, 3TC, EFV, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 1
TÁC DỤNG PHỤ CỦA CÁC THUỐC ĐIỀU TRỊ HIV
Ở BỆNH NHÂN NHIỄM HIV/AIDS ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ
HAI PHÁC ĐỒ D4T, 3TC, NVP VÀ D4T, 3TC, EFV
Lê Ngọc Diệp*, Cao Ngọc Nga**
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tác dụng phụ của các thuốc ARV ở bệnh nhân điều trị hai phác đồ d4T
+ 3TC + NVP và d4T + 3TC + EFV.
Thiết kế nghiên cứu: mô tả hàng loạt truờng hợp.
Đối tượng nghiên cứu: Bệnh nhân nhiễm HIV ở giai đoạn AIDS. có chỉ định điều trị ARV một trong 2
phác đồ d4T + 3TC + NVP hoặc d4T + 3TC + EFV tại BV Bệnh Nhiệt Đới TPHCM từ tháng 12 năm 2006
đến tháng 8 năm 2007.
Kết quả nghiên cứu: Có 135 bệnh nhân AIDS (81,5% nam và 18,5% nữ) được chọn điều trị bằng
ARV bằng một trong 2 phác đồ trên. Có 27 (20%) bệnh nhân đang điều trị lao, 18 (13,3%) bệnh nhân có
tiền căn bị bệnh lao. Triệu chứng sốt xảy ra nhiều hơn ở những bệnh nhân sử dụng phác đồ 1a, ở phác đồ 1a
tỷ lệ sốt là 17,2% trong khi ở phác đồ 1b tỷ lệ này là 2,8% (p < 0.05). Hai triệu chứng chóng mặt và mất
ngủ lại xảy ra ở phác đồ 1b nhiều hơn phác đồ 1a, mất ngủ và chóng mặt ở phác đồ 1a lần lượt là 9,1% và
1%, trong khi triệu chứng này ở phác đồ 1b đều là 47,2% (p < 0.05). Các dị ứng da nặng như: đỏ da toàn
thân, hội chứng Steven-Jonhson chỉ xảy ra ở phác đồ có NVP (phác đồ 1a), không thấy trường hợp nào ở
phác đồ 1b.
ABSTRACT
THE ADVERSE EFFECTS OF ARV THAT ARE USED TO TREAT HIV/AIDS PATIENTS
IN TWO FORMULAS D4T, 3TC, NVP AND D4T, 3TC, EFV
Le Ngoc Diep, Cao Ngoc Nga
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 - Supplement of No 1 - 2009: 274 - 279
The objective of this study was to evaluate the adverse effects of ARV that are used to treat HIV patients
in two formulas d4T + 3TC + NVP (1a) and d4T + 3TC + EFV (1b).
Study design: Cases series.
Subjects: The HIV patients that are in AIDS stage were treated by the fomula d4T + 3TC + NVP or
d4T + 3TC + EFV at Hospital for Tropical Diseases, HCM city from December 2006 to August 2007.
Results: 135 AIDS patients (81,5% male and 18,5% female) were treated by one of two formulas. 27
(20%) patients were being treated for tuberculosis, 18 (13,3%) patients had a history of tuberculosis. Fever
appearing in the group of patients treated by formula 1a was higher than the patients in group 1b 17,2% vs
2,8% (p<0,05), respectively. The symtoms: dizziness and insomnia were seen in group 1b more than group
1a (47,2%, 47,2% and 9,1%, 1% respectively) (p<0,05). The severe allergy symtoms: diffuse erythroderma,
Stevens – Johnson syndrome only appeared in group 1a, not seen in group 1b.
MỞ ĐẦU
Tác dụng phụ của các thuốc chống HIV
(ARV) là một vấn đề sức khỏe rất được quan
tâm. Bởi vì bên cạnh cải thiện chất lượng cuộc
sống, các tác dụng phụ của ARV nhiều lúc làm
* Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Tp.HCM ** Đại học Y Dược Tp.HCM
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 2
ảnh hưởng đến tiến trình điều trị vì phải thay
đổi phác đồ khi có tác dụng phụ hoặc làm ảnh
hưởng đến việc tuân thủ của người bệnh, thậm
chí làm có thể gây nguy hiểm đến tính mạng
người bệnh như hội chứng Stevens – Johnson.
Trên thế giới có nhiều công trình nghiên
cứu về hiệu quả cũng như tác dụng phụ các
của thuốc ARV trên bệnh nhân AIDS. Những
công trình này cũng đã thống kê về tỷ lệ xuất
hiện các tác dụng phụ và mức độ nặng nhẹ của
các tác dụng này.
Tuy nhiên, tại Việt Nam 2 phác đồ được
sử dụng rộng rãi nhất cho bệnh nhân AIDS là
d4T, 3TC, NVP và d4T, 3TC, EFV chưa được
nghiên cứu nhiều về tác dụng phụ. Do đó, vấn
đề xác định tác dụng phụ của 2 phác đồ này
trên người Việt Nam là cần thiết nhằm cung
cấp những thông tin giúp các thầy thuốc lâm
sàng có kinh nghiệm trong điều trị ARV cho
bệnh nhân Việt Nam bị AIDS.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Xác định tác dụng phụ của các thuốc ARV
ở bệnh nhân AIDS được điều trị hai phác đồ
d4T + 3TC + NVP và d4T + 3TC + EFV.
Mục tiêu chuyên biệt
2.1. Xác định tác dụng phụ của ARV ở
bệnh nhân AIDS điều trị hai phác đồ d4T +
3TC + NVP và d4T + 3TC + EFV.
2.2. Xác định tác dụng của ARV ở bệnh
nhân điều trị phác đồ d4T + 3TC + NVP.
2.3. Xác định tác dụng phụ của ARV ở
bệnh nhân điều trị phác đồ d4T + 3TC + EFV.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả hàng loạt trường hợp.
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân nhiễm HIV ở giai đoạn AIDS, có
chỉ định điều trị ARV một trong 2 phác đồ d4T +
3TC + NVP (1a) hoặc d4T + 3TC + EFV (1b).
Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu bắt đầu từ tháng 12 năm 2006
đến tháng 08 năm 2007, tại phòng khám HIV
của Khoa Khám Bệnh Theo Yêu Cầu và Phòng
Khám của CDC, BV Bệnh Nhiệt Đới TP Hồ Chí
Minh.
Tiêu chí chọn bệnh
Tiêu chí đưa vào
- Bệnh nhân bị nhiễm HIV ở giai đoạn
AIDS ≥ 18 tuổi, có chỉ định ARV.
- Có hay không có lao phổi và viêm gan B,
viêm gan C kèm theo ALT < 120 UI/L.
- Bắt đầu được điều trị bằng phác đồ: d4T +
3TC + NVP hoặc d4T + 3TC + EFV.
- Đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chí loại ra
- Bệnh nhân đã được điều trị trước đó với
cùng công thức.
- Bệnh nhân không tuân thủ hoặc bỏ điều trị.
Phương pháp tiến hành
Bệnh nhân hội đủ tiêu chuẩn sẽ được đưa
vào danh sách nghiên cứu. Trước khi được
điều trị bằng thuốc ARV, bệnh nhân được
tham vấn, nhân viên y tế sẽ hướng dẫn bệnh
nhân cách tuân thủ điều trị, các lợi ích của việc
điều trị bằng thuốc ARV và các khó khăn gặp
phải khi điều trị, các tác dụng phụ của thuốc
và nên làm gì khi gặp các bất lợi này.
Sau khi được tham vấn đầy đủ, bệnh nhân
được kiểm tra kiến thức về việc tự bảo vệ mình
và tránh lây lan cho cộng đồng, lợi ích, các vấn
đề có thể gặp khi sử dụng ARV và thời gian
uống thuốc. Khi bệnh nhân vượt qua được kỳ
kiểm tra sẽ được khám lâm sàng đầy đủ, đo
chiều cao, cân nặng hỏi các triệu chứng cơ
năng, tiền căn mắc bệnh lao hoặc đang điều trị
lao, tiền căn dị ứng, yếu tố nguy cơ nhiễm
HIV, khám thực thể để ghi nhận các triệu
chứng tương tự như tác dụng phụ của thuốc
ARV để làm bằng chứng loại trừ những triệu
chứng này khi ghi nhận tác dụng phụ của
thuốc sau điều trị.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 3
Bệnh nhân được tiến hành làm các xét
nghiệm cận lâm sàng trước khi tiến hành điều
trị. Các xét nghiệm gồm: công thức máu, số
lượng TCD4, men gan (ALT, AST), các dấu ấn
nhiễm siêu vi viêm gan B và C (HBsAg và
antiHCV), chụp X quang phổi, sinh thiết hạch
(nếu các triệu chứng trên lâm sàng nghi ngờ có
mắc lao).
Sau đó, nếu đủ tiêu chuẩn sử dụng thuốc,
bệnh nhân sẽ được cấp thuốc một trong 2 phác
đồ trên.
Bệnh nhân sẽ được hẹn tái khám để đánh
giá tình trạng lâm sàng và ghi nhận các tác
dụng phụ của thuốc xảy ra trong thời gian
điều trị. Trong vòng 4 tuần đầu, bệnh nhân sẽ
được thăm khám mỗi tuần 1 lần, trong 4 tuần
kế tiếp bệnh nhân sẽ được thăm khám mỗi 2
tuần 1 lần. Tổng cộng 6 lần theo dõi.
Bệnh nhân sẽ được thử lại AST và ALT
trong tuần thứ 4 sau điều trị ARV để đánh giá
xem có xảy ra tình trạng viêm gan do ARV hay
không.
Thu thập và phân tích số liệu
Mỗi bệnh nhân sẽ có một bộ hồ sơ theo dõi
từ lúc bắt đầu đến lúc kế thúc.
Phân tích số liệu
- Số liệu xử lý bằng hệ thống phần mềm xử
lý thống kê SPSS phiên bản 11.5 for Windows.
- Các biến số được tính theo tỷ lệ phần
trăm.
- Phép kiểm chi bình phương (χ2) có hay
không hiệu chỉnh Fisher’s (Fisher’s exact test)
dùng cho mẫu nhỏ để so sánh các tỷ lệ.
- Tỷ số chênh (OR) và khoảng tin cậy 95%
(KTC 95%) cũng được đánh giá để ghi nhận
mức độ tương quan. Giá trị p được xem có ý
nghĩa thống kê ở mức < 0,05.
KẾT QUẢ
Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Từ tháng 12/2006 đến 8/2007, tại phòng
khám HIV Bệnh Viện Nhiệt Đới, TPHCM có
135 bệnh nhân AIDS được điều trị bằng ARV
theo 2 phác đồ trên, chúng tôi ghi nhận được
một số đặc điểm sau:
Trong những bệnh nhân tham gia nghiên
cứu nam giới chiếm ưu thế: 110 trường hợp
(81,5%), nữ có 25 trường hợp (18,5%).
Trong 135 bệnh nhân này, số bệnh nhân
không mắc bệnh lao 90 trường hợp (66,7%),
đang điều lao trị 27 trường hợp (20%) và 18
(13,3%) bệnh nhân có tiền căn mắc bệnh lao.
Có 68 bệnh nhân (50,4%) nhiễm viêm gan
C và 8 bệnh nhân (5,9%) đồng nhiễm viêm gan
B. Chỉ có 52 bệnh (38,8%) không có biểu hiện
nhiễm HBV hoặc HCV.
Tác dụng phụ của thuốc ARV chung ở 2
phác đồ
Bảng 1: Tác dụng phụ của ARV chung cho 2 phác
đồ 1a và 1b
Tác dụng phụ Số trường hợp n Tỷ lệ %
Toàn thân 77 57
Mệt mỏi 33 24,5
Mất ngủ 26 19,2
Triệu chứng sốt 18 13,3
Sốt 9 6,7
Sốt, ớn lạnh 6 4,4
Sốt, lạnh run 3 2,2
Sốc phản vệ 0 0,0
Da 31 22,9
Nổi mẫn da khu trú 22 16,3
Đỏ da toàn thân 6 4,4
Hội chứng Steven-Johnson 3 2,3
Tiêu hóa 95 70,4
Chán ăn 32 23,7
Buồn nôn 33 24,5
Nôn 10 7,4
Đau bụng 12 8,9
Tiêu chảy 8 5,9
Gan 15 11,1
Vàng mắt vàng da 4 3,0
Tăng men gan (ALT, AST,
GGT) 15 11,1
Thần kinh 78 57,7
Đau đầu 34 25,2
Chóng mặt 18 13,3
Tê tay chân 13 9,6
Tạm ngưng ARV hoặc đổi
phác đồ khác 13 9,6
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 4
Tác dụng phụ của thuốc xuất hiện theo
thời gian
Bảng 2: Tác dụng phụ của ARV chung cho 2 phác
đồ 1a và 1b theo thời gian
Thời gian xảy ra
Tác dụng phụ 4 tuần
đầu n, %
4 tuần
sau
n,%
P OR
Toàn thân
Mệt mỏi 29 (21,5) 4 (3) 0,00 4,6 (1,8 - 11,5)
Mất ngủ 25 (18,7) 1 (0,7) 0,00 14,3 (2 - 98)
Triệu chứng sốt 18 (13,3) 0 (0) 0,00 10,1 (1,5 - 68,6)
Sốt 9 (6,7) 0 (0) 0,02 5,2 (0,8 - 33,2)
Sốt, ớn lạnh 6 (4,4) 0 (0) 0,013 3,6 (0,6 - 22)
Sốt, lạnh run 3 (2,2) 0 (0) 0,082 2 (0,4 - 11)
Da
Nổi mẫn da khu
trú 22 (16,3) 0 (0) 0,00 12,5 (1,8 - 85)
Đỏ da toàn thân 6 (4,4) 0 (0) 0,013 3,6 (0,6 - 22)
Steven-Johnson 3 (2,3) 0 (0) 0,156 1,5 (0,3 - 7,5)
Tiêu hóa
Chán ăn 24 (17,8) 8 (5,9) 0,03 2,1 (1,2 - 4)
Buồn nôn 29 (21,5) 4 (3) 0,00 4,6 (1,8 - 11,5)
Nôn 9 (6,7) 1 (0,7) 0,01 5,2 (0,8 - 33)
Đau bụng 12 (8,9) 0 (0) 0,00 6,8 (1 - 44,7)
Tiêu chảy 8 (5,9) 0 (0) 0,004 4,5 (0,7 - 29,4)
Gan
Vàng mắt vàng
da 4 (3) 0 (0) 0,044 2,5 (0,4 - 14,7)
Thần kinh
Đau đầu 34 (25,2) 0 (0) 0,00 20 (2,9 - 183,2)
Chóng mặt 18 (13,3) 0 (0) 0,00 10,1 (1,5 - 68,6)
Tê tay chân 8 (5,9) 5 (3,7) 0,394 1,3 (0,7 -2,6)
Tạm ngưng
ARV 13 (9,6) 0 (0) 0,00 7,3 (1,1 - 48,6)
Tác dụng phụ của ARV theo từng phác
đồ
Bảng 3: Tác dụng phụ củA ARV theo từng phác đồ
hoặc 1a hoặc 1b
Tác dụng
phụ
Công
thức 1a,
n = 99
Công
thức 1b,
n =36
P OR
Toàn thân
Mệt mỏi 23 (23,2) 10 (27,8) 0,587 1,3 (0,5 - 3)
Mất ngủ 9 (9,1) 17 (47,2) 0,00 8,9 (3,5 – 23,1)
Triệu chứng
sốt 17 (17,2) 2 (2,8) 0,03 0,1 (0,1 - 1)
Sốt 9 (9,1) 0 (0) 0,061 0,7 (0,6 – 0,8)
Sốt, ớn lạnh 5 (5,1) 1 (2,8) 0,571 0,5 (0,1 – 4,8)
Sốt, lạnh run 3 (3) 0 (0) 0,291 0,7 (0,7 – 0,8)
Tác dụng
phụ
Công
thức 1a,
n = 99
Công
thức 1b,
n =36
P OR
Da 24 (24,5) 6 (16,7) 0,336 0,6 (0,2 – 1,7)
Nổi mẫn da
khu trú 16 (16,2) 6 (16,7) 0,962 1 (0,4 – 2,9)
Đỏ da toàn
thân 6 (6,1) 0 (0) 0,129 0,7 (0,6 – 0,8)
Steven-
Johnson 3 (3) 0 (0) 0,388 0,7 (0,7 – 0,8)
Tiêu hóa
Chán ăn 25 (25,3) 7 (19,4) 0,483 0,7 (0,3 – 1,8)
Buồn nôn 26 (26,2) 7 (19,4) 0,415 0,68 (0,3 – 1,7)
Nôn 7 (7,1) 3 (8,3) 0,804 1,2 (0,3 – 4,9)
Đau bụng 9 (9,1) 3 (8,3) 0,891 0,9 (0,2 – 3,6)
Tiêu chảy 4 (4) 4 (11,1) 0,124 3 (0,7 – 12,6)
Gan
Vàng mắt
vàng da 2 (2) 2 (5,6) 0,284 2,9 (0,9 - 21)
Tăng men gan
(ALT, AST) 9 (9,1) 6 (16,7) 0,215 2 (0,7 – 6,1)
Thần kinh
Đau đầu 22 (22,2) 12 (33,4) 0,188 1,8 (0,8 – 4,1)
Chóng mặt 1 (1) 17 (47,2) 0,00 87,7 (11 - 699)
Tê tay chân 9 (9,1) 4 (11,1) 0,725 1,3 (0,4 – 4,3)
Tạm ngưng
ARV 11 (11,1) 2 (5,6) 0,169 0,3 (0 - 2)
BÀN LUẬN
Tác dụng phụ của thuốc ARV ở 2 phác đồ
135 bệnh nhân đưa vào nghiên cứu, trong
quá trình theo dõi 8 tuần từ khi bắt đầu điều
trị ARV, 91 bệnh nhân (67,4%) có ít nhất một
tác dụng phụ (hơn 2/3 số bệnh nhân tham gia
nghiên cứu).
Theo Bonfanti P, Duran S, Fellay J,
Menezes de Páudua và cộng sự, trong các tác
dụng phụ thường gặp của ARV, tác dụng phụ
trên đường tiêu hóa thường gặp nhiều hơn
cả(1,6,7,9).
Trong nghiên cứu này, xét về tác dụng phụ
của ARV cho tất cả các bệnh nhân điều trị ở
hai phác đồ 1a và 1b, tác dụng phụ thường gặp
nhất là mất ngủ, mệt mỏi, chóng mặt, buồn
nôn, nôn, đau đầu, biểu hiện dị ứng da chiếm
tỷ lệ từ 19,2% tới 24,5%, trong đó các triệu
chứnG thuộc về tiêu hóa nói chung chiếm tỷ lệ
cao nhất (70,4%).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 5
Theo y văn, dị ứng da xảy ra ở các thuốc ARV
thuộc nhóm NNRTIs chiếm tỷ lệ từ 10% tới 20%(9).
Trong đó các dị ứng da từ nhẹ tới vừa chiếm
khoảng 16%, các dị ứng nặng như hội chứng
Stevens – Johnson chiếm từ 1% tới 6,5%. Các biểu
hiện dị ứng da thường xuất hiện trong vòng vài
tuần đầu sau khi điều trị(8).
Trong nghiên cứu này kết quả tương tự y
văn. Các triệu chứng về da xảy ra ở 31 bệnh nhân
(22,9%). Trong đó nổi mẩn da khu trú chiếm ưu
thế với 22 bệnh nhân (16,3%), hội chứng Stevens –
Johnson có 3 bệnh nhân (2,3%).
Số bệnh nhân phải tạm ngưng điều trị do
tác dụng phụ là 13 bệnh nhân chiếm 9,6%.
Những bệnh nhân phải tạm ngưng điều trị là
do hội chứng Steven – Johnson, viêm gan.
Các triệu chứng mệt mỏi, mất ngủ, đau
đầu, chán ăn, buồn nôn là những tác dụng phụ
chiếm tỷ lệ cao, nhưng không có trường hợp
nào phải ngưng điều trị do tác dụng phụ này.
Tuy nhiên đây là các tác dụng phụ gây khó
chịu cho bệnh nhân và do đó có thể làm cho
bệnh nhân không tuân thủ điều trị.
Tác dụng phụ theo thời gian
Tác dụng phụ của thuốc ARV hầu như xảy
ra chủ yếu trong 4 tuần đầu sau khi bắt đầu
điều trị. Đặc biệt, triệu chứng đau đầu xảy ra
trong 4 tuần đầu cao hơn 20 lần so với 4 tuần
sau (p=0,000).
Các biểu hiện toàn thân như mệt mỏi, mất
ngủ và sốt trong 4 tuần đầu lần lượt là 21,5%,
18,7% và 13,3% trong khi đó ở 4 tuần sau chỉ là
4%, 0,7% và 0%, sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê (p < 0,05). Các triệu chứng này ở 4
tuần sau cao hơn 4 tuần đầu theo thứ tự là 4,6
lần, 14,3 lần và 10,1 lần.
Triệu chứng mất ngủ xảy nhiều trong vòng
4 tuần đầu có thể đó thực sự là tác dụng phụ
của thuốc, cũng có thể là do tâm lý bất ổn của
bệnh nhân. Trước khi bắt đầu điều trị, bệnh
nhân được tư vấn về lợi ích và các tác dụng
phụ có thể xảy ra trong thời gian đầu và tác
dụng phụ khi điều trị lâu dài. Vì vậy có thể
làm cho bệnh nhân lo lắng trong thời gian bắt
đầu điều trị và gây ra tình trạng mất ngủ.
Các biểu hiện dị ứng da trong nghiên cứu
này chỉ thấy xảy ra trong vòng 4 tuần đầu sau
khi điều trị ARV và nguy cơ xảy ra các dị ứng
da trong 4 tuần đầu gấp từ 1,5 tới 12,5 lần 4
tuần sau.
Ngoài ra các biểu hiện ở đường tiêu hóa và
biểu hiện thần kinh đều xảy ra trong vòng 4
tuần đầu sau điều nhiều hơn hẳn 4 tuần sau và
đều có ý nghĩa thống kê.
Cho nên cần quan tâm nhiều đến các tác
dụng phụ trong vài tuần đầu sau khi điều trị
ARV do khả năng xảy ra các tác dụng phụ
trong vài tuần đầu cao.
Tác dụng phụ theo công thức điều trị
Trong 135 bệnh nhân được theo dõi trong
nghiên cứu này, có 99 bệnh nhân được điều trị
bằng công thức 1a, 36 bệnh nhân được điều trị
bằng công thức 1b.
Ta thấy có sự khác biệt rõ rệt về biểu hiện
của tác dụng phụ chóng mặt, mất ngủ và triệu
chứng sốt (gồm sốt, sốt kèm ớn lạnh, sốt kèm
lạnh run) ở hai nhóm bệnh nhân này.
Triệu chứng chóng mặt ở nhóm bệnh nhân
được điều trị bằng công thức 1a là 1% trong
khi ở nhóm bệnh nhân được điều trị bằng
công thức 1b thì triệu chứng này gặp ở 47,2%
(p<0,05).
Triệu chứng mất ngủ ở nhóm điều trị công
thức 1a là 9.1% và ở nhóm điều trị công thức
1b là 47,2% (p<0,05).
Ở nhóm điều trị bằng công thức 1b có biểu
hiện triệu chứng sốt là 2,8%, trong khi ở nhóm
điều trị bằng công thức 1a triệu chứng này là
17,2% (p < 0,05).
Tuy biểu hiện dị ứng da tương đối giống
nhau ở cả hai phác đồ điều trị, nhưng ta thấy
rằng các biểu hiện dị ứng da nặng như: đỏ da
toàn thân và hội chứng Steven – Johnson chỉ
xảy ra ở những bệnh nhân điều trị bằng phác
đồ 1a. Tỷ lệ bệnh nhân bị dị ứng da nặng ở
phác đồ 1a là 10% so với phác đồ 1b là 0%, p =
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 6
0,05. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống
kê có thể là do số bệnh nhân đưa vào nghiên
cứu chưa đủ lớn.
Theo nghiên cứu của AK Patel, tỷ lệ bệnh
nhân điều trị bằng phác đồ 1a bị dị ứng da cao
hơn so với nhóm bệnh nhân điều trị bằng phác
1b (6,6% so với 2,32%) và rối loạn về thần kinh
như chóng mặt thì nhóm bệnh nhân điều trị
bằng phác đồ 1a thấp hơn hẳn so với nhóm
bệnh nhân điều trị bằng phác đồ 1b (0,93% so
với 20,15%).
Kết quả này cũng tương tự như nghiên cứu
của chúng tôi và giống như mô tả tác dụng
phụ trong một số y văn khác(2,5,8).
Tuy nhiên, có một điểm khác biệt giữa
nghiên cứu của chúng tôi với nghiên cứu của
AK Patel. Trong nghiên cứu của AK Patel, tác
dụng phụ viêm gan ở những bệnh nhân điều
trị bằng phác đồ 1a nhiều hơn phác đồ 1b
(3,2% so với 0%) giống như mô tả trong y
văn(3,4,5,8). Trong khi nghiên cứu của chúng tôi
thì ngược lại, tỷ lệ bệnh nhân tăng men gan ở
bệnh nhân được điều trị ở phác đồ 1b lại nhiều
hơn bệnh nhân được điều trị bằng phác đồ 1a
(16,7% so với 9,1%).
Sự khác biệt này là do trong nghiên cứu
của chúng tôi có tới 50% bệnh nhân điều trị
bằng phác đồ 1b đang điều trị cùng lúc với lao.
Trong khi đó ở phác đồ 1a chỉ có 8,1% bệnh
điều trị cùng lúc với lao. Do tác dụng phụ của
ARV và thuốc chống lao xảy ra cùng lúc nên
giải thích được tại sao trong nghiên cứu này tỷ
lệ bệnh nhân có tăng men gan lại cao ở những
bệnh nhân được điều trị bằng phác đồ 1b.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bonfanti P, Valsecchi L, Parazzini F et al (2000), Incedence
of adverse reactions in HIV patients treated with protease
inhibitors: a cohort study, Journal of Acquired Immune
Deficiency Syndromes 23: 236-245.
2. Brunton LL., Lazo JS, Parker KL., (2006), Goodman and
Gilman's the Pharmacological basis of Therapeutics- 11th
Ed: Chapter 50 antiretroviral agents and treatment of HIV
infection, McGraw-Hill.
3. Calmy A, Hirschel B, Cooper DA, Carr A (2007), “Clinical
update: adverse effects of antiretroviral therapy”, The
Lancet 370: 12-14.
4. de Pádua M, César, Bonolo, Acurcio and Guimarães
(2006), High incidence of adverse reaction to initial
antiretroviral therapy in Brazil, Brazilian Journal of
Medical and Biological Research 39: 495-505.
5. Dolin R, Masur H, Saag MS. (2003), AIDS therapy,
Churchill Livingstone 2:21-263.
6. Duran S, Spire B, Raffi Fetal (2001), Self reported
symptoms after initiation of a protease inhibitor in HIV
infected patients and their impact on adherence to
HAART, HIV Clinical Trial 2: 38-45.
7. Fellay J, Boubaker K, Ledergerber B et al (2001),
Prevalence of adverse events associated with potent
antiretroviral treatment: Swiss HIV Cohort Study, Lancet
358: 1322-1327.
8. Montessori V, Press N, Harris M, Akagi L, Montaner JSG
(2004), Adverse effects of antiretroviral therapy for HIV
infection, CMAJ 170(2):229-38.
9. Patel AK, Pujari S, Patel K, Patel J, Shah N, Patel B, Gupte
N (2006), Nevirapine Versus Efavirenz Based
Antiretroviral Treatment in Naive Indian Patients:
Comparison of Effectiveness in Clinical Cohort, JAPI
54:915-18.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 7
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 8
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tac_dung_phu_cua_cac_thuoc_dieu_tri_hiv_o_benh_nhan_nhiem_hi.pdf