Tài liệu Các khái niệm về du lịch bền vững

Điểm điển cứu: Một tầm nhìn về du lịch bền vững của Vườn Quốc gia Komodo Vườn Quốc gia Komodo bao gồm một số đảo lớn nhỏ trong vùng đảo Lesser Sunda của Indonesia. Vườn xuất phát được xây dựng là khu bảo vệ Rồng Komodo (loài bò sát lớn nhất thế giới) vào những năm của thập niên 1980. Trong những năm xây dựng đầu tiên, Vườn đã thu hút được khoảng 150 du khách hàng năm. Vườn trở nên phổ biến hơn với việc nhìn ngắm các động vật hoang dã, và các trải nghiệm lặn có khí tài và ống thở. Số du khách đã vượt qua 30.000 du khách/năm vào cuối thập niên 1990, và bây giờ (với việc nổ bom Bali) có khoảng 11.000 du khách/năm. 80% du khách đến cùng mong muốn nhìn thấy các con Rồng Komodo hoang dã, nhưng một số lượng đang tăng lên quan tâm đến các điểm bơi lặn đặc biệt. Vườn cũng thu hút một số nhóm làm phim hàng năm để thực hiện các phim về vùng nhiệt đới và các nhà khoa học sử dụng các kính lúp ở đây trong nhiều tháng. Sự đa dạng trong du khách được tăng lên thúc đẩy việc quản lý Vườn Quốc gia Komodo phát triển một tầm nhìn chi tiết và tổng thể về du lịch bền vững của Vườn. Xem chi tiết ở tài liệu kèm theo

pdf42 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 11/01/2022 | Lượt xem: 203 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu Các khái niệm về du lịch bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ư dân địa phương một cách sâu sắc nhất. Các cộng đồng truyền thống và những người bản xứ có thể đóng vai trò chính trong việc bảo tồn đang dạng sinh học, nhưng chỉ được nhận ra trong thời gian gần đây và vấn đề quan trọng liên quan đến sự tham gia, sử dụng đất và nguồn lợi và vấn đề dân chủ cũng cần được xác định trong hoàn cảnh phát triển du lịch. Chính quyền địa phương có vai trò lớn như một người hoà giải và hướng dẫn cho việc trao quyền cho cộng đồng địa phương. Kinh nghiệm với các cách tiếp cận trên-xuống để quản lý các KBT chứng minh rằng nếu bị bỏ ra ngoài, cộng đồng địa phương có thể huỷ hoại những nỗ lực bảo tồn đa dạng sinh học (ví dụ: việc bắn động vật hoang dã ở trong Vườn Quốc gia Amboseli, Kenya để phản ứng việc không đuợc sử dụng nước và thả động vật ăn cỏ trong Vườn). Tương tự như vậy, các cách tiếp cận đối với phát triển du lịch không bao gồm mức độ ưu tiên của cộng đồng có thể bị huỷ hoại bởi các sự xáo động, phản đối ở trong dân chúng đối với du khách và làm giảm sự an toàn cho du khách. Công đồng địa phương thường không phân biệt lớn nhưng bao gồm nhiều tầng lớp kinh tế khác nhau, các bè phái hoặc các nhóm gia đình, nhóm dân tộc, cả giới và những nhóm quan tâm đặc biệt khác. Mỗi một cộng đồng thì khác nhau và có bao gồm nhiều nhóm tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp với các nguồn lợi ven biển như các nhóm ngư dân khai thác, nhóm ngư dân thương mại, nông dân và những ai tham gia vào giao thông và du lịch. Những nỗ lực khuyến khích cộng đồng tham gia nên được nhận ra và tôn trọng những nhóm khác nhau và tính đa dạng của các nhóm trong cộng đồng. Hơn nữa, các nhân viên KBTB nên quan tâm và xác định 2 định nghĩa khác nhau của cộng đồng trong việc khuyến cáo quá trình lâp kế hoạch KBTB: • Nhóm cộng đồng địa lý – là nhóm người sinh sống trong cùng một vùng địa lý. • Cộng đồng chức năng — Là nhóm người có thể không cùng sinh sống trong một vùng địa lí, nhưng họ cùng chia sẻ những khía cạnh ý nghĩa khác nhau về cuộc sống, như tập quán, truyền thống, tính cách và ngôn CÁC KHÁI NIỆM VỀ DU LỊCH BỀN VỮNG 24 HỌC PHẦN 1 ngữ. Ví dụ: nhóm ngư dân, nông dân, các thành viên của nhóm tôn giáo, các thành viên của một bộ tộc. Tranh thủ hỗ trợ và nuôi dưỡng mối quan hệ Việc đảm bảo được những hỗ trợ của cộng đồng địa phương đòi hỏi nhiều hơn so với việc nâng cao nhận thức của họ về các vấn đề. Trong thực tế, nếu khi họ được yêu cầu, họ hoàn toàn thể hiện những nhận thức rất sâu về các vấn đề và có những ý kiến tốt về các giải pháp cho các vấn đề (thường làm ngạc nhiên các cán bộ quản lý và những nhà tư vấn). Nhưng cộng đồng cũng cần tin rằng quyền quản lý và các KBTB được thiết lập là để giúp họ - chứ không chỉ đưa ra những hạn chế đối với họ hoặc để lấy phí cấp phép, thuế và những hối lộ từ họ. Họ cũng cần tự tin rằng những rủi ro với những thay đổi là có thể quản lý được và có ý nghĩa trong hoàn cảnh trước mắt về các nhu cầu của họ (có thể là ngay hiên tại). Cộng đồng nên biết rằng những nguồn lợi được quản lý bởi họ và bởi những xác nhận chính thức về vai trò của họ trong việc quản lý và thu hoạch nguồn lợi. Các cộng đồng có thể hưởng lợi từ việc tổ chức hệ thống dựa vào làng xã để lập kế hoạch và quản lý những hoạt động ven biển của họ trong hướng bền vững. Họ cũng có thể hưởng lợi từ những thông tin về các phương tiện hiệu quả để điều khiển các nhóm bên ngoài khai thác nguồn lợi một cách không bền vững. Ví dụ: các nhà điều hành lặn từ bên ngoài, ngư dân bên ngoàiCộng đồng cũng sẽ hưởng lợi từ những hỗ trợ về việc chuyển đổi các hoạt động hoặc nguồn lợi thay thế. Ví dụ: ngư dân có thể thể hiện những hiểu biết và nhận thức về hiện trạng của nguồn lợi ven biển của họ, nhưng họ thường thiếu những biện pháp thay thế phù hợp cho những hoạt động còn gây hại của họ. Cộng đồng nên tham gia vào tất cả các giai đoạn của việc lập kế hoạch bao gồm việc đánh giá nguồn lợi, xác định các vấn đề và định nghĩa những hành động để giải quyết chúng. Điều quan trọng là làm thay đổi những nhận thức của họ về nguồn lợi với những quan sát tự do, do những quan điểm thường dựa vào những ấn tượng không đúng. Cộng đồng nên được tham gia vào các kết quả và quyết định cuối cùng của kế hoạch quản lý KBTB (bao gồm việc phân vùng, ranh giới và những điều khiển). Vùng bảo vệ nên được tổng hợp, nếu có thể, với những cấu trúc thể chế cộng đồng hiện có, với những định nghĩa rõ ràng về vai trò và trách nhiệm quản lý của cộng đồng và tránh những cấu trúc chồng chéo nhau. Với những cử chỉ tôn trọng, những đại diện của cộng đồng nên được mời chứng kiến các hoạt động cộng đồng liên quan đến việc lập kế hoạch hoặc quản lý như các hội thảo, cuộc họp với các nhà tài trợ, các sự kiện truyền thông CÁC KHÁI NIỆM VỀ DU LỊCH BỀN VỮNG 25 HỌC PHẦN 1 Nói chung, sự tham gia của cộng đồng nên bao gồm 4 bước sau: 1. Xác định các bên liên quan và hình thành mối quan hệ. bước đầu tiên trong cách tiếp cận cộng đồng quản lý hoặc quản lý dựa vào cộng đồng là việc các nhân viên KBTB xác định các bên liên quan chính và những người tham gia tiềm năng. 2. Tổ chức cộng đồng. Một tổ chức Phi chính phủ hoặc đơn vị chính quyền địa phương có thể hỗ trợ cộng đồng trong việc xác định những tổ chức cộng đồng được huấn luyện phù hợp. Các bên liên quan được tiếp cận nhiều hơn và có nhiều cơ hội để tham gia nếu họ được tổ chức, như với một nhóm nhỏ các đại diện là những người có thể dự các cuộc họp và đưa các thông tin đến nhóm còn lại trong cộng đồng. Những tổ chức cộng đồng đó có thể cũng giúp nâng cao mức độ tham gia của các thành viên cộng đồng. 3. Tham gia của cộng đồng trong quá trình lập kế hoạch. Sự tham gia của cộng đồng trong những giai đoạn đầu của việc lập kế hoạch của bất cứ hoạt động nào (du lịch bền vững hoặc các hoạt động quản lý khác) sẽ gắn các hoạt động với những mục đích và lợi ích do cộng đồng xác định và sẽ làm cho cộng đồng có cảm giác được tham gia ngay từ đầu. Sau đó, các đánh giá/giám sát tiếp theo đảm bảo rằng kế hoạch tiếp tục đáp ứng được những mục đích đã được xác định bởi cộng đồng. 4. Những thông tin, giáo dục và giao tiếp liên tục. Để giữ cho cộng đồng được tham gia và nhận thức được những gì đang diễn ra trong KBTB và nó có những lợi ích như thế nào đến cộng đồng, KBTB cần phải có các thông tin, các dự án giáo dục cộng đồng liên tục cho các thành viên của cộng đồng. Điều cần thiết nữa là ghi nhớ rằng các bên liên quan có thể thay đổi và bên liên quan mới cũng chưa được tham gia vào các bước đầu tiên của quá trình lập kế hoạch. Ví dụ: một khách sạn mới mở, một nhà điều hành du lịch mới hoặc chính quyền địa phương hoặc quốc gia mới được tổ chức lại tất cả đều được tham gia. Những quan tâm chính trong suốt quá trình tham gia của cộng đồng Sự thay đổi quan điểm của các nhân viên KBTB có thể là rất quan trọng giúp đỡ họ xây dựng sự giao tiếp với cộng đồng. Việc huấn luyện các nhân viên trong Ban quản lý về các kỹ thuật đánh giá nông thôn, vì thế họ có thể thực hiện những nghiên cứu về kinh tế xã hội, là một bước rất hữu ích để cải thiện mối quan hệ giữa họ với cộng đồng. Bằng cách tìm hiểu với/từ cộng đồng, họ trở nên tôn trọng những hiểu biết của người dân địa phương, những người được khuyến khích mà các nhân viên ban quản lý muốn lắng nghe và học từ họ. CÁC KHÁI NIỆM VỀ DU LỊCH BỀN VỮNG 26 HỌC PHẦN 1 Nền tảng tốt là việc thực hiện đánh giá nguồn lợi và kinh tế xã hội có sự tham gia của cộng đồng ngay từ lúc bắt đầu việc lập kế hoạch du lịch bền vững. Nói cách khác, sự tham gia của cộng đồng khi thực hiện đánh giá giúp mọi người làm rõ được những vấn đề và các ưu tiên ngay từ ban đầu. (Phần này sẽ được thảo luận chi tiết vào ngày mai). Các khảo sát có sự tham gia cộng đồng là những bước đi đầu tiên hữu ích. Các thành viên cộng đồng tham gia trong các khảo sát có thể tư vấn những thành viên khác và ban chỉ đạo địa phương về hiện trạng nguồn lợi trong suốt qúa trình lập kế hoạch. Cần nhận biết được sự khác nhau về “sự lấn át xã hội” trong một số cuộc họp, mà thường có thể che khuất những nhu cầu và ưu tiên của các thành viên nghèo hơn. Cấu trúc của cộng đồng có thể là rất phức tạp và có thể được che đậy bởi những người mà có thu nhập ổn định hơn, bởi vì họ có nhiều thời gian để tham vào những cuộc họp, tiếp cận dễ dàng hơn thông qua một số phương pháp giao tiếp (như thư điện tử, điện thoại hoặc việc di chuyển đến một số vùng tổ chức cuộc họp) hoặc có thể họ tự tin hơn trong việc nói trước đám đông. Vấn đề ưu tiên của những người nghèo có thể khác với những người khá hơn. Việc quan tâm cẩn thận đến sự giàu nghèo và hồ sơ về đói nghèo của cộng đồng có thể giúp xác định những người nghèo nhất và những ưu tiên của họ. Đánh giá nguồn lợi và kinh tế xã hội cũng cần chú ý đến nhạy cảm giới. Những cách sử dụng nguồn lợi và các hoạt động của người đàn ông và phụ nữ là khác nhau, cũng như khả năng tiếp cận và điều khiển các nguồn lợi và sự rủi ro. Việc đánh giá cộng đồng nên ghi lại những khác nhau này. Các số liệu khảo sát cộng đồng thường nên được xác định như sự trả lời về giới. Điều này sẽ cho phép xác định những quan điểm và tác động khác nhau của các hành động trong KBTB lên phụ nữ và nam giới. Đánh giá nhanh cung cấp các thông tin đầy đủ và quan trọng cho những quyết định quản lý nhanh chóng, nhưng cũng cần phải kiểm tra chéo và xác định với những nghiên cứu dài hạn khác. Khi sử dụng các kỹ thuật đánh giá nhanh, cố gắng làm rõ giá trị bằng cách “kiểm tra chéo” hoặc “phép kiểm tra tam giác” như sử dụng một số phuơng pháp khác nhau xác minh thêm những kết quả. Những nguồn thông tin thứ cấp, thống kê và những quan sát trực tiếp là những nguồn thông tin có giá trị mà không phụ thuộc vào những nhận thức của cộng đồng. Những công cụ hữu ích cho việc xác định và tìm hiểu bao gồm phỏng vấn theo bảng câu hỏi, thảo luận nhóm, lập bản đồ sự tham gia, khảo sát và xếp hạng. Chúng ta sẽ thảo luận về một số công cụ này chi tiết hơn vào ngày mai. Điều cần thiết là phải giám sát một cách liên tục và điều chỉnh những công cụ này trong suốt quá trình đánh giá để đảm bảo thu được những thông tin cần thiết một cách chính xác và không bị lỗi. CÁC KHÁI NIỆM VỀ DU LỊCH BỀN VỮNG 27 HỌC PHẦN 1 Ranh giới cộng đồng thường tương ứng với ranh giới sử dụng nguồn lợi (rừng hoặc rạn san hô). Vì thế, những mâu thuẫn về các ranh giới cần được giải quyết sớm khi phân chia trách nhiệm quản lý vùng bảo vệ. Điều thú vị, các vấn đề quản lý mà được xác định trong các cuộc họp với cộng đồng thường là khác rất nhiều với kết quả do các nhà quản lý KBTB xác định. Điều này phản ánh được tính thực tế rằng các cộng đồng địa phương thường biết được những điều kiện trong và xung quanh KBTB và những hành động của cộng đồng và độ lành mạnh của hệ sinh thái KBTB có quan hệ một cách chặt chẽ. Kết quả là những vấn đề được nhận thức bởi cộng đồng, những tác động và giải pháp của họ có thể được sử dụng để xác định những mục tiêu tổng thể, những kết quả và những hoạt động cho việc lập kế hoạch quản lý. Điểm điển cứu: Những bài học từ Tanga (Salm et al., 2000) Ở vùng Tanga của Tanzania, các rạn san hô trở nên xuống cấp từ những vùng tốt nhất của Tanzania vào năm 1968 và trở thành những vùng bỏ hoang với những san hô bể và một vài con cá. Việc khai thác quá mức kèm theo với việc sử dụng một số phương pháp khai thác có tính huỷ diệt (bao gồm cả thuốc nổ) đã phá huỷ những vùng rạn này và để lại cho ngư dân với những tuyệt vọng đang lớn dần lên. Các ngư dân nhận ra được các vấn đề, nhưng miễn cưỡng xác định nó do nhu cầu thức ăn và thu nhập cơ bản hàng ngày của họ, cho dù ít bao nhiêu đi nữa. Những sinh kế thay thế trở thành gánh nặng quá lớn với những rủi ro cho những người này, nhu cầu của họ là cấp bách và họ đang sống ở mức nghèo hoặc dưới mức nghèo đói. Một chương trình xác định những nhu cầu của cộng đồng địa phương cũng như môi trường được thiết kế và thực hiện với sự hỗ trợ của IUCN theo sự đòi hỏi của chính quyền địa phương. Khi các cán bộ chính quyền và cộng đồng vượt qua những nghi ngờ lẫn nhau và nhận thức về nhau, họ có thể làm việc hiệu quả với nhau, cộng đồng đã chứng minh được sự quan tâm và khả năng để đầu tư thời gian và nỗ lực trong việc giải quyết những vấn đề khó khăn của việc quản lý và cưỡng chế. Người dân địa phương đã tự phát triển một kế hoạch quản lý cho những vùng biển và rừng ngập mặn mà bao gồm cả những giới hạn về khai thác và đóng cửa một số vùng nhất định để xây dựng các vùng bảo vệ dựa trên cơ sở của cộng đồng. Những vùng này và những vấn đề luật liên quan đã được cộng nhận chính thức bởi chính quyền địa phương và quốc gia, do đó đảm bảo loại bỏ những tiếp cận cho các thành viên của cộng đồng thực hiện quản lý theo những quy định mà họ đã tự áp đặt dựa trên đó. CÁC KHÁI NIỆM VỀ DU LỊCH BỀN VỮNG HỌC PHẦN 1 28 Khái niệm về người sử dụng và quyền tiếp cận trong việc trả lại trách nhiệm quản lý là một khuyến khích mạnh cho cộng đồng tham gia trong việc quản lý các khu bảo vệ. Cách tiếp cận có sự tham gia của cộng đồng trong việc quản lý các khu bảo vệ biển và ven bờ có thể đòi hỏi hạn chế những nhận thức tiêu cực của cộng đồng về các ban quản lý và ngược lại. Các cộng đồng có thể nhìn nhận các nhân viên của Ban quản lý như những người thu thuế, cảnh sát, vô dụng, ăn hối lộ và lười biếng; trong khi đó thì các cán bộ của ban quản lý thì nhìn nhận cộng đồng như là người hay đổ lỗi, mất lịch sự và tham lam. Cần phải có thời gian để thay đổi những nhận thức này và xây dựng được mối quan hệ tốt tin cậy và hợp tác lẫn nhau. Tạo được mối quan hệ như ở Tanga, Tanzania cũng mất hết 8 tháng và những thời gian này được đầu tư thật tốt. Cần xây dựng khung thời gian thực tế để xây dựng niềm tin và đưa cộng đồng về cùng một chiến tuyến là bài học kinh nghiệm quan trọng. Những bài học khác thông qua chương trình Tanga được liệt kê trong tài liệu kèm theo. Tài liệu 1.5 - Những bài học kinh nghiệm từ Tanga Thảo luận: Những lợi ích và cái giá phải trả của du lịch cho cộng đồng 1. Trong nhóm lớn, thảo luận về tất cả các lợi ích và đe doạ mà du lịch mang lại hoặc có thể mang lại cho cộng đồng địa phương. Liệt kê các lợi ích và những đe doạ trên một tờ giấy lớn ở trước lớp để tất cả mọi người có thể nhìn thấy. Một số lợi ích/đe doạ có thể được tạo ra cho tất cả cộng đồng, những cái khác có thể là chỉ đúng cho một số vùng nhất định. 2. Thảo luận những kết quả của Bạn với cả lớp. Làm thế nào để tăng cường các lợi ích và hạn chế những đe doạ? 3. So sánh kết quả này với những lợi ích và đe doạ trong KBTB của Bạn như đã thảo luận trước đây. Những cái tương đồng và khác nhau giữa quan điểm của KBTB và của cộng đồng? Có những vùng mà ở đó các nhà quản lý KBTB, điều hành tour và cộng đồng địa phương không đồng ý về những hiệu quả của du lịch là có lợi hay phải trả giá? nếu có, làm thế nào để hoà giải những quan điểm khác nhau này? CÁC KHÁI NIỆM VỀ DU LỊCH BỀN VỮNG HỌC PHẦN 1 29 Tài liệu 1.6 - Những lợi ích và đe doạ của du lịch đến cộng đồng (Tài liệu này có thể được phát sau khi thảo luận, do đó mọi người có thể bổ sung những ý mới được đưa ra từ thảo luận.) Những quan tâm chính cho việc phát triển du lịch bền vững ở cộng đồng Xây dựng mối quan hệ. du lịch bền vững được tổ chức bởi cộng đồng địa phương đòi hỏi sự hỗ trợ và hợp tác của các nhà điều hành du lịch, là người thường xuyên có nhiều mối quan hệ tốt với thị trường, hiểu biết nhiều hơn về nhu cầu của du khách và có kỹ năng ngôn ngữ và giao tiếp. Tránh đặt tất cả các quả trứng trong cái rổ du lịch. việc chỉ dựa duy nhất vào du lịch là không thông minh, do nhu cầu du lịch thay đổi không thể dự đoán được và nếu chỉ có du lịch không thì không thể cung cấp đủ các công việc để bền vững cho cả một cộng đồng. Du lịch bền vững cần phải được nhìn nhận là một trong những chiến lược trong việc phát triển của cộng đồng. Những hợp phần quan trọng khác là giáo dục, tiếp cận với thông tin, quản lý KBTB và nâng cao những cơ hội kinh tế trong những lĩnh vực khác (không phải là du lịch). Liên kết những lợi ích của du lịch bền vững với những mục đích của bảo tồn. dùng du lịch bền vững để khuyến cáo việc bảo tồn, người dân địa phương cần phải hưởng lợi rõ ràng từ du lịch bền vững và phải hiểu mối liên kết giữa những lợi ích mà họ đang nhận được và sự tồn tại của KBTB. Ví dụ: nhiều cư dân địa phương không nhận ra rằng một số thu nhập của họ là được gắn chặt với du lịch ở xung quanh KBTB. Điểm điển cứu: Những người tìm kiếm việc ở Bahia, Brazil Christ et al. 2003 Một hiệu quả quan trọng của việc tuyển dụng trong du lịch là nó có thể thu hút nhiều người tới vùng này. Điều này thường xảy ra trong những vùng có nhiều khu nghỉ mát, nơi tạo ra được số lượng lớn công việc. Nếu người tìm việc di chuyển đến vùng lấn chiếm những cơ sở hạ tầng hiện có, dòng người này có thể gây ra sự phá huỷ môi trường và xã hội - sự mọc lên các khu nhà ổ chuột không được điều khiển mà có thể lấn chiếm các vùng nhạy cảm về môi trường, sử dụng quá mức các nguồn nước và thải chất thải ra bên ngoài, những căng thẳng xã hội và đói nghèo là kết quả của những vùng đông đúc và có điều kiện sống nghèo nàn. Ví dụ, Bang Brazilian của Bahia chứa những điểm nóng bảo tồn bị đe doạ lớn - rừng Amazon. Dự án PRODETUR 1 trị giá 400 triệu USD, được tài trợ bởi Ngân CÁC KHÁI NIỆM VỀ DU LỊCH BỀN VỮNG 30 HỌC PHẦN 1 hàng Phát triển Liên bang Mỹ từ năm 1994-2001, tập trung vào việc cải thiện cơ sở hạ tầng để hỗ trợ du lịch. Kết quả là 800 km đường cao tốc và những con đường nhỏ đã được cải thiện, nước và các cơ sở hạ tầng xử lý chất thải được nâng cấp và hơn 4 triệu USD được đầu tư cho du lịch. Tuy nhiên, dự án đã không tính đến việc di cư của con người đến vùng này để tìm việc làm trong ngành du lịch phát triển. Sự định cư không được quản lý của những người tìm việc này đã gây ra việc xây dựng tư nhân ở những vùng nhạy cảm về môi trường, sự xâm lấn các vùng rừng nhiệt đới và rừng ngập mặn và các tác động đến những rạn san hô và những hệ sinh thái ven biển khác. Trước những áp lực lớn của cộng đồng địa phương và các tổ chức phi chính phủ, các nhóm đầu tư và các cán bộ chính phủ về phát triển đã dành một phần kinh phí bảo tồn để tập trung vào việc xây dựng tư nhân ở một số vùng nhất định và bảo vệ những vùng khác. Kết quả là bảo tồn được 22 điểm di tích lịch sử và khởi đầu những nỗ lực bảo tồn hơn 70.000 hecta của các hệ sinh thái ven bờ và những vùng được bảo vệ khác, bao gồm cả việc tạo ra Công viên Quốc gia Serra do Conduru mới. Những bài học này đang được áp dụng ở những dự án mới của Ngân hàng Phát triển Liên bang Mỹ. Bài học tổng thể là phải ghi nhớ rằng du lịch có thể gây ra những thay đổi trong cộng đồng và môi trường không dự đoán trước được mà chỉ có thể mở rộng những phương tiện du lịch đã được lên kế hoạch. Điểm điển cứu: các cộng đồng địa phương quan hệ với các khách sạn ở Tanzania Một chủ đề thường diễn ra trong việc tham gia của cộng đồng trong du lịch bền vững là sự thống nhất trong việc phát triển các mối quan hệ có lợi giữa cộng đồng địa phương và các bên liên quan khác. Ở đảo Chole, quận Mafia (Tanzania), cộng đồng địa phương đã có mối quan hệ chặt chẽ với chủ của một khách sạn du lịch sinh thái nhỏ. Thông qua việc trao đổi về việc cho phép xây dựng và điều hành khách sạn, các chủ khách sạn đồng ý sẽ cung cấp các nguồn lợi tài chính cho những dự án phát triển ưu tiên của cộng đồng. Đến nay, cộng đồng này đã xây dựng được chợ mới, trạm xá và trường phổ thông. Những sáng kiến khác đã được phát triển như các lớp học tiếng Anh, thư viện, một dự án lịch sử, và những nghiên cứu dấu vết của khảo cổ học của đảo. Cộng đồng cũng phát triển chế độ phí để thu tiền từ du khách đến thăm đảo. Những lợi tức từ sáng kiến này được chuyển đến các nguồn phát triển cộng đồng dưới sự giám sát của 2 ban được bầu chọn hằng năm. Vì thế, cả khách sạn và cộng đồng địa phương đang hưởng lợi từ mối quan hệ tốt này và nó đang phát triển trong 8 năm qua. Ở Ushongo, quận Pangani (Tanzania), 3 khách sạn nhỏ trên bãi biển đã đồng ý cam kết với cộng đồng địa phương. 2 trong số 3 khách sạn này đã đồng ý chính thức tài trợ một phần lợi tức của họ cho cộng đồng thực hiện những dự án ưu tiên khi có được đất và giấy phép xây dựng. Khách sạn thứ 3 cũng đồng ý tham gia vào chương trình này trong khi chưa được trở thành như một phần của cam CÁC KHÁI NIỆM VỀ DU LỊCH BỀN VỮNG HỌC PHẦN 1 31 kết chính thức này. Bảng cam kết giữa cộng đồng và khách sạn đã thống nhất rằng những nguồn tiền này sẽ được sử dụng để cải thiện cơ sở vật chất các trường học của cộng đồng. Tuy nhiên, số tiền tài trợ cho cộng đồng này sử dụng tiền mặt và vì thế mà khó giám sát việc sử dụng chúng. Một vài cản trở nhỏ cần được vượt qua để mối quan hệ này được thành công, như vấn đề cung cấp lợi tức trong suốt mùa ít khách, việc đầu tư cải thiện đường do khách sạn và sự loại bỏ của chính quyền địa phương trong những cam kết này. Từ 2 trường hợp điển cứu nhỏ này, có thể kết luận rằng việc xây dựng và duy trì các mối quan hệ tốt có thể cần đến nhiều năm và đòi hỏi những nỗ lực liên tục của cả 2 bên. Điều quan trọng là càng chi tiết càng tốt, cả những vấn đề lớn và nhỏ đều được giải quyết càng sớm và càng dân chủ càng tốt để tránh những vướng mắc trong tương lai. Cuối cùng, việc xây dựng và duy trì mối quan hệ tốt giữa khách sạn và cộng đồng là một quá trình lâu dài và liên tục, và vấn đề cơ bản nhất là có thể tạo ra lợi ích cao nhất cho cả hai bên. Nguồn: Phân tích hiện trạng du lịch ven biển Tanzania, 2001. 1.3 TÌM HIỂU CÁC BÊN LIÊN QUAN KHÁC Cộng đồng địa phương là bên liên quan quan trọng, nhưng nó không phải là duy nhất. Chúng ta sẽ xem xét một số bên liên quan khác ở đây. Bạn có thể nghĩ thêm một số bên liên quan khác mà được áp dụng trong vùng của Bạn. Vai trò của chính quyền trong du lịch bền vững Mặc dù du lịch có thể được điều khiển bởi khu vực tư nhân, các công cụ chính trị chính quyền như việc đòi hỏi những đánh giá tác động môi trường (EIAs) và các kế hoạch quản lý, mà có thể có hiệu quả một cách đặc biệt để đảm bảo rằng việc phát triển được thực hiện phù hợp. Ở nhiều quốc gia có một số điểm đa dạng sinh học cao, các điểm du lịch bị ảnh hưởng của nhiều bên chính quyền khác nhau, những bên liên quan này được quản lý bao gồm di sản lịch sử, văn hoá, các vườn quốc gia, vùng bảo vệ biển, phát triển kinh tế, quản lý thuỷ sản và rừng. Sự điều phối suôn sẻ của các sở này và tính chặt chẽ giữa chính sách du lịch và các chính sách khác của chính quyền bao gồm cả bảo tồn đa dạng sinh học thường không theo một quy định, vì thế các chính sách khác nhau có thể phá hoại nhau nhiều hơn là hỗ trợ lẫn nhau. Chính quyền quốc gia thường hình thành một sơ đồ cho việc phát triển du lịch và bảo tồn đa dạng sinh học thông qua các chính sách và luật. Một số ví dụ bao gồm: • Luật và quy chế xác định các tiêu chuẩn cho các phương tiện du lịch, CÁC KHÁI NIỆM VỀ DU LỊCH BỀN VỮNG 32 HỌC PHẦN 1 tiếp cận với các nguồn lợi đa dạng sinh học và quy chế sử dụng đất, phân vùng. Điều này có thể đòi hỏi những hiện trạng về tác động môi trường (EIS’s) trước khi phát triển. • Cơ sở hạ tầng: thiết kế, phát triển và quy chế (nước, năng lượng, đường, sân bay) • Công cụ kinh tế được xác định trong các chính sách, ví dụ như: những động cơ cho việc đầu tư du lịch bền vững và việc tạo ra các khu bảo vệ tư nhân. • Tiêu chuẩn về sự lành mạnh và độ an toàn, bao gồm những quản lý chất lượng và quy chế các hoạt động kinh doanh; mục đích là bảo vệ người tiêu dùng và thoả mãn những nhu cầu của cư dân – bao gồm các cộng đồng truyền thống và người bản xứ - và bảo vệ cách sống của họ. • Hình thành và duy trì các khu bảo vệ và các hành lang bảo tồn của các mối quan tâm về du lịch. Các nhà quản lý của các khu bảo vệ công cộng thường là những người thực hiện hiệu qủa nhất cho những lợi ích bảo tồn từ việc phát triển du lịch. • Phân chia các lợi tức thuế cho việc bảo vệ các điểm thu hút du lịch dựa trên đa dạng sinh học như các Công viên Quốc gia và các khu Bảo tồn. Tại điểm du lịch, chính quyền địa phương thường chịu trách nhiệm thực hiện chính sách liên quan đến du lịch và công tác bảo tồn. Chính quyền địa phương iosng vai trò tốt để đàm phán giữa các mối quan tâm của địa phương và các đơn vị kinh doanh từ bên ngoài, xã hội và các cơ quan trung ương, và họ nắm giữ quyền điều chỉnh cần thiết và uỷ nhiệm phân vùng mà cho phép thực hiện cưỡng chế theo các hướng dẫn và tiêu chuẩn. Mặt khác, năng lực của chính quyền địa phương để quản lý ngành phức tạp và rời rạc này một cách hiệu quả cũng như đảm bảo những đóng góp tích cực của nó đến các chiến lược của cộng đồng cho việc phát triển bền vững là còn phụ thuộc vào việc soạn thảo các chính sách địa phương phải gắn kết với các công cụ và các cơ quan luật quốc gia. Ở nhiều nước đang phát triển, chính quyền có thể đóng vai trò trực tiếp của nhà điều hành du lịch và quản lý khách sạn để có thể khởi động các tiêu chuẩn chất lượng hoặc tạo ra lợi tức. Ví dụ: Suriname có nhà điều hành du lịch là chính quyền (METS) và cùng có những nhà điều hành du lịch cấp tỉnh tương tự như ở Trung Quốc và Việt Nam. Điểm điển cứu: Áp lực lên chính quyền ở Cancun, Mexico Tất nhiên, các chính phủ thường không cưỡng chế các quy chế của chính họ. Ví du: Chính quyền Mexico đã bị phê bình về việc “không lưu ý” các quy chế phân vùng và các cơ chế điều khiển phát triển khác trong sự phát triển quá lớn tại Cancun. Tuy nhiên, gần đây với các áp lực từ bên ngoài đáng quan tâm, chính CÁC KHÁI NIỆM VỀ DU LỊCH BỀN VỮNG 33 HỌC PHẦN 1 phủ tạm dừng các việc xây dựng một số khu nghỉ mát phức tạp trên đất liền do các nhà đầu tư tư nhân sở hữu vì chúng được đặt gần các bãi làm ổ đẻ của rùa. Vai trò của ngành du lịch trong du lịch bền vững Du lịch là một ngành rất lớn. Nó được xem là ngành lớn nhất trên thế giới. Nó bao gồm một số lượng khổng lồ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, và gồm cả những tập đoàn đa quốc gia rất lớn mà điều khiển sự tăng lên tỷ lệ phần trăm của cả thị trường. Ví dụ: ở Châu Âu, có 5 công ty điều khiển hơn 60% của số chuyến bay đi các nước (bao gồm cả những du khách được lên kế hoạch trước). Nó chiếm một số lượng lớn nhân viên bao gồm cả các nhà điều hành du lịch, các văn phòng du lịch những người mà tập trung các chuyến; các nhân viên phục vụ trên máy bay và tàu thuỷ; tài xế lái xe; nhân viên của các khách sạn lớn và những nhà nghỉ gia đình; những người thợ thủ công mỹ nghệ và tất cả những người cung cấp các dịch vụ và trang thiết bị cho du khách khác. Sự phức tạp của ngành này chỉ ra những thách thức có thể đối với nhân viên KBTB và cộng đồng địa phương để học và xây dựng các mối quan hệ với ngành du lịch. Các thành viên của ngành du lịch là rất quan trọng đối với du lịch bền vững do nhiều nguyên nhân. Trước hết, họ hiểu về xu hướng di chuyển. Họ biết những du khách phản ứng như thế nào và họ muốn gi. Thứ hai, ngành du lịch có thể ảnh hưởng du khách bằng cách khuyến khích các ứng xử tốt và hạn chế các tác động tiêu cực đối với KBTB. Thứ ba, ngành du lịch đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến cáo và thực hiện du lịch bền vững. Các thành viên của ngành biết làm thế nào để tiếp cận được du khách thông qua các ấn phẩm, internet, phương tiện thông tin đại chúng và các phương tiện quảng cáo khác, do đó cung cấp được các mối liên kết giữa các điểm du lịch bền vững và khách hàng. Ngành du lịch là ai? Để vận hành guồng máy du lịch quốc tế đòi hỏi một tập hợp sắp xếp phức tạp để giúp du khách chọn điểm đến và sau đó có thể đi đến đó. Du khách có thể giao lưu với một chuỗi kinh doanh bao gồm: văn phòng du lịch, người làm hợp đồng với nhà điều hành xuất cảnh ra nước ngoài (ở các nước của du khách), người hợp đồng với các nhà điều hành nhập cảnh (ở điểm đến), người có thể hợp đồng với người cung cấp dịch vụ địa phương. Về cơ bản, những người cung cấp dịch vụ địa phương chỉ tham gia vào khâu cuối của chuỗi này, khi mà chuyến du lịch được thực hiện. Tuy nhiên, các du khách thích mạo hiểm bây giờ có thể liên hệ trực tiếp với những người cung cấp dịch vụ địa phương thông qua Internet, những trường hợp đặc biệt khác là người cung cấp dịch vụ địa phương được liên kết với hướng dẫn viên du lịch (như Rough Guide, Lonely Planet, .). Nhà điều hành xuất cảnh ra nước ngoài đóng vai trò quan trọng - họ có thể đảm bảo các chuyến bay sẵn sàng cho du khách và có thể ảnh hưởng đến CÁC KHÁI NIỆM VỀ DU LỊCH BỀN VỮNG 34 HỌC PHẦN 1 những lựa chọn của hành khách, thông thường ngay cả việc xác định bao nhiêu du khách sẽ đuợc xuất cảnh. Tuy nhiên, các nhà điều hành xuất cảnh ra nước ngoài không sống và làm việc ở trong nước, và không có gắn kết bền vững với một điểm riêng biệt nào đó. Điều này hoàn toàn đúng đối với các tập đoàn đa quốc gia - nếu du lịch được lên kế hoạch một cách nghèo nàn gây ra các điều kiện môi trường để làm xấu đi vùng nào đó, họ có thể dễ dàng di chuyển sang vùng khác. Rất nhiều người không nhận thức các tác động văn hoá và môi trường của các hoạt động này. Tuy nhiên, một số công ty du lịch lớn nhận ra rằng việc khuyến cáo bảo tồn và phát triển bền vững có thể duy trì tính nguyên vẹn sinh học và văn hoá của các điểm mà họ đến thăm và nâng cao chất lượng sản phẩm mà họ đang bán và cải thiện được danh tiếng và kinh doanh thường xuyên của họ. Một sự phát triển có ý nghĩa gần đây là những sáng kiến môi trường tự nguyện bởi chuỗi các khách sạn, điều hành du lịch . Bao gồm các hệ thống chứng nhận xanh, giải thưởng bảo tồn và “nhãn hiệu sinh thái”. Do đó bản thân ngành du lịch đang tự tham gia vào các vấn đề nhằm cải thiện tính bền vững. (chúng ta sẽ thảo luận sâu hơn vào học phần sau). Việc liên kết của các nhà điều hành với các mạng lưới này có thể đặt các nhà quản lý KBTB trong mối liên lạc trực tiếp với các thành viên của ngành du lịch, những người đã quan tâm về tính bền vững và họ có thể hăng hái làm việc với KBTB của Bạn trong việc đối xử bền vững. Gộp các nhà điều hành du lịch và phát triển tour vào trong kế hoạch của Bạn Việc thực hiện du lịch bền vững là dự án rất tốn kém và nhiều thách thức. Sự thành công sẽ cao hơn nếu ngành du lịch là một phần của quá trình này ngay từ lúc bắt đầu. Vì thế các nhà điều hành du lịch nên được xem xét như là những bên liên quan chính, là người quan trọng cho sự thành công của cả dự án. Kinh nghiệm của nhà điều hành du lịch tư nhân hoặc những nhà phát triển tour là rất có giá trị và có thể cung cấp những thông tin quan trọng như: • Thông tin về thị trường tiềm năng • Tư vấn những ý thích của các du khách về các điểm thu hút, nơi lưu trú, thức ăn và giao thông • Thị trường • Cung cấp các dịch vụ để hướng dẫn du khách tiếp cận và đánh giá cao điểm du lịch • Huấn luyện các hướng dẫn viên và doanh nghiệp địa phương • Đầu tư vào việc điều hành du lịch bền vững địa phương • Điều hành các điều hành du lịch bền vững CÁC KHÁI NIỆM VỀ DU LỊCH BỀN VỮNG 35 HỌC PHẦN 1 Làm thế nào mà ngành du lịch phát triển các điểm du lịch một cách truyền thống Điều hữu ích cho các nhà quản lý KBTB để hiểu rằng làm thế nào du lịch đại chúng di chuyển vào các vùng mới, khi một số bước tương tự có thể được gộp vào trong việc phát triển du lịch bền vững. Năm 2001, Chương trình môi trường Liên hợp quốc đã xem xét 12 điểm điển cứu về phát triển các khu nghỉ mát du lịch trong các hệ sinh thái khác nhau để nghiên cứu những quyết định ảnh hưởng đến đa dạng sinh học như thế nào. Cơ bản của phân tích này, quá trình có xu hướng mở ra như sau: 1. Hình thành các nhóm địa phương. Nhóm các nhà đầu tư địa phương, thường sở hữu vùng đất giàu đa dạng sinh học, liên kết với các nhà xây dựng các khu nghi mát tiềm năng và thuê người đứng trung gian chuyên nghiệp được gọi là nhà phát triển có vai trò đưa các nguồn lợi và các bên tham gia lại với nhau để xác định tính khả thi của khu nghỉ mát. 2. Tìm kiếm các nhà đầu tư từ bên ngoài. Nhà phát triển tìm kiếm các nhà đầu tư tư nhân ở bên ngoài và quan sát các mối quan tâm của các bên như các nhà điều hành tour và các công ty vận chuyển hàng không và tàu thuỷ dựa trên các nhận biết về tiềm năng thị trường. 3. Tìm kiếm các hỗ trợ của chính quyền trung ương và địa phương. Nhóm liên lạc với chính quyền địa phương và trung ương để tìm sự hỗ trợ như: • Cơ sở hạ tầng (đất trống, sân bay, đường xá, cung cấp nước, quản lý chất thải/rác); • Các quy chế sử dụng đất linh hoạt (phù hợp với một nhóm các khu nghỉ mát); • Các khuyến khích và giảm thuế; như trợ giá các khoản vay; và • Các vùng đất công cộng thu hút hoặc các công viên mà có thể là cơ sở cho các sản phẩm tour. 4. Xây dựng các phương tiện. Khi các nguồn tài trợ vốn đã sẵn sàng, khu nghỉ mát được xây. Điều này có thể xảy ra khi có hoặc chưa có các đánh giá tác động môi truờng phụ thuộc vào các quy chế của địa phương. Điều không may, theo báo cáo của Chương trình môi trường Liên hợp quốc chỉ ra rằng các quyết định về địa điểm, thiết kế, kỹ thuật và phát triển các sản phẩm thường được làm từ những viễn cảnh của các mối quan hệ du khách và hiệu quả hợp tác; những mong đợi của cộng đồng và bảo tồn của đa dạng sinh học của vùng và địa phương thường không được quan tâm. Quá trình này đôi khi cũng được bắt đầu từ các nhà chính trị địa phương và/hoặc các nhà phát triển gây áp lực lên chính quyền để cung cấp những hỗ trợ và sau đó thu hút các nhà đầu tư bên ngoài. Các hiệp hội thương mại (đại diện CÁC KHÁI NIỆM VỀ DU LỊCH BỀN VỮNG 36 HỌC PHẦN 1 cho các nhà điều hành tour, chuỗi các khách sạn và công ty vận chuyển hàng không) thường liên kết trong việc vận động chính quyền mà có các mối quan tâm trong việc tạo ra các công việc làm tinh khiết và những lợi tức về thuế trong tương lai, nhưng không tập trung vào tính bền vững. Trong một số trường hợp, việc phát triển du lịch được tài trợ bởi các cơ quan phát triển đa phương thông qua các khoản vay phát triển trợ cấp. Tuy nhiên, những điều khoản của các khoản vay này có thể hoặc không được sự hỗ trợ của công tác bảo tồn đa dạng sinh học. Việc tìm hiểu quá trình này có thể cho phép các nhà quản lý KBTB giao tiếp tốt hơn với các thành viên của ngành du lịch và để sử dụng một số bước tương tự trong việc lập kế hoạch du lịch – phần lớn các phân tích tập trung lên bảo tồn và có sự tham gia của cộng đồng địa phương. Vai trò của du khách trong du lịch bền vững Du khách là người tham gia cuối cùng trong việc đưa du lịch bền vững vào thực tiễn. Nếu du khách không chọn để đến thăm KBTB, hoặc không sẵn lòng trả phí để hỗ trợ cho du lịch bền vững, thì dự án này bị thất bại. Việc thu hút du khách đến với du lịch bền vững ở KBTB thông thường bao gồm 2 yếu tố. 1. Giới thiệu với du khách về sự tồn tại của KBTB và những điểm thu hút của nó. Điều này thể hiện kinh nghiệm thị trường của các nhà điều hành tour là rất quan trọng. Việc đưa các KBTB vào trong sách hướng dẫn chính cho du khách như Lonely Planet, Rough Guide,... là rất hữu ích. Những quyến sách hướng dẫn này có thể giúp thu hút những khách du lịch tự do (những người không đi theo các tour đã lập kế hoạch trước) đến các KBTB. 2. Khuyến khích các du khách bảo trợ cho du lịch bền vững hơn du lịch đại chúng. Du khách có thể sẽ sẵn lòng trả phí để tham quan những điểm được xem là bền vững hơn là tham dự những hoạt động du lịch tương tự ở một số nơi khác nhưng không thân thiện với môi trường. Điều may mắn là, các cuộc khảo sát du khách chỉ ra rằng, nhìn chung, dù du khách muốn nghỉ ngơi vào những kỳ nghỉ nhưng họ lại không muốn thực hiện nó mà lại không ảnh hưởng đến người dân địa phương và môi trường của họ. Như chúng ta biết trong ngày hôm qua, một số cuộc khảo sát ở Châu Âu xác định rằng du khách sẵn sàng trả thêm 5% chi phí (so với chi tiêu của cả hành trình) cho những chi phí phụ thêm như phí vào cửa KBTB, nếu họ biết những khoản tiền này sẽ hỗ trợ môi trường và cộng đồng địa phương. Tuy nhiên, du khách, cũng giống như bao nhiêu người khác, bị giới hạn về tài chính và họ sẽ không trở lại những vùng mà các khoản phí này là quá cao CÁC KHÁI NIỆM VỀ DU LỊCH BỀN VỮNG 37 HỌC PHẦN 1 Các sách hướng dẫn du lịch, tạp chí và báo chí có thể có những đóng góp lớn trong việc nâng cao nhận thức cho du khách về các vấn đề quan trọng mà ngành du lịch đang đối mặt và giúp khuyến khích thay đổi nhu cầu. Ví dụ: Tạp chí National Geographic Traveler thường xuyên nhấn mạnh các vấn đề du lịch bền vững và giới thiệu các công ty du lịch mà dẫn đầu việc thực hiện các hoạt động du lịch bền vững. Tạp chí Audubon phát triển mã số hướng dẫn “bước đi nhẹ nhàng” (“Tread Lightly”) cho du lịch đến các vùng tự nhiên. Việc tìm đến một số mãng thị trường riêng biệt của du khách gồm những người quan tâm đến du lịch bền vững thì có nhiều lợi ích hơn là việc quảng cáo tràn lan ở thị trường tự do. Vai trò của các Tổ chức phi chính phủ trong du lịch bền vững Nhiều Tổ chức Phi chính phủ quan tâm đến bảo tồn như Conservation International, Rainforest Alliance,... bao gộp cả du lịch bền vững vì nó liên quan trực tiếp đến bảo tồn. Các Tổ chức phi chính phủ về bảo tồn thường thực hiện như: • Người hướng dẫn cho các bên liên quan, ví dụ: cộng đồng và ngành du lịch. • Người hợp tác với các công ty du lịch bền vững, cho dù có hoặc không có sự sở hữu của địa phương. • Người huấn luyện, cung cấp nguồn thông tin và các chuyên gia • Người hợp tác với các bộ phận hành chính của các KBTB để giúp tìm kiếm các nguồn tài trợ hoặc thực hiện một số hoạt động như giáo dục cộng đồng hoặc các chương trình thuyết minh. • Người quản lý của các khu vực bảo vệ do tư nhân quản lý hoặc đôi khi do chính phủ quản lý • Hiếm khi, các Tổ chức phi chính phủ có thể cung cấp các dịch vụ du lịch trực tiếp như quảng cáo, nơi lưu trú, giao thông và thức ăn. Tuy nhiên, các hoạt động này có thể làm sao lãng các Tổ chức phi chính phủ về những nhiệm vụ cơ bản của mình và có thể loại bỏ những cơ hội của các công ty kinh doanh dựa vào cộng đồng hoặc khối tư nhân. Những Tổ chức phi chính phủ không quan tâm đến bảo tồn Các Tổ chức phi chính phủ mà về cơ bản không quan tâm đến bảo tồn cũng đóng vai trò quan trọng trong du lịch bền vững. Các Tổ chức phi chính phủ này có thể nằm trong 2 nhóm chính sau: các Tổ chức phi chính phủ khuyến khích phát triển kinh tế và các Tổ chức phi chính phủ thương mại của một số ngành nhất định như các hiệp hội của các nhà điều hành tour tư nhân, các chủ khách sạn hoặc các công ty hàng không. Những Tổ chức phí chính phủ này là những người thực hiện quan trọng vì họ cung cấp diễn đàn để thảo luận, cung cấp các phương tiện truyền thông với số lượng lớn những người quan tâm. Họ thường tổ chức các hội nghị hoặc những buổi họp định kỳ và truyền thông về các ngành CÁC KHÁI NIỆM VỀ DU LỊCH BỀN VỮNG HỌC PHẦN 1 38 quan tâm thông qua các ấn phẩm in ấn như các bản tin. Các thành viên thường được yêu cầu đăng ký theo một số tiêu chí nhất định hoặc “mã số về đạo đức”. Các bên liên quan khác Chúng ta vừa thảo luận chính về những hiệu quả của du lịch lên các KBTB và cộng đồng địa phương, các Tổ chức phi chính phủ và bản thân ngành du lịch. Đây chưa phải là một danh sách hoàn thiện về các bên liên quan mà bị tác động bởi du lịch. Xuyên suốt phần còn lại của học phần này, chúng ta sẽ tiếp tục suy nghĩ về các tổ chức, các mãng kinh tế và các cơ quan chính quyền khác mà có thể bị du lịch trong vùng của Bạn tác động đến và có thể đóng vai trò trong việc phát triển du lịch bền vững. Thực hành: Xác định các bên liên quan Chúng ta vừa thảo luận về các cộng đồng địa phương ở trên và xem xét một số các nhóm của các bên liên quan chính khác. Bây gìơ chúng ta sẽ thảo luận và xác định từng bên liên quan trong vùng của Bạn. • Thảo luận và xác định các nguồn lợi bị đe doạ trong vùng của Bạn và xem xét tầm nhìn du lịch được phát triển trong học phần 3 • Xác định các nhóm hoặc cá nhân liên quan cho vùng của Bạn mà bạn có thể và liệt kê họ trên biểu mẫu của Bạn. Thảo luận về vai trò mà mỗi bên liên quan có thể thực hiện dựa trên các mối quan tâm của họ. • Sử dụng các vòng tròn màu được người hướng dẫn cung cấp để biểu diễn cho các nhóm/bên liên quan khác nhau. Chú ý đến kích thước của các vòng tròn về các mối quan tâm của các bên liên quan. Vòng tròn lớn hơn cho các nhóm có mối quan tâm lớn hơn. • Dán các vòng tròn này lên bảng do người hướng dẫn cung cấp. • Trình bày kết quả của cả nhóm Bạn. Mỗi nhóm sẽ có 10-15 phút để trình bày. Điểm điển cứu: Galapagos, Ecuador Tài liệu 1.7 – Phí du khách đến Galapagos (Phần dưới đây được trích từ tài liệu phí du khách đến Galapagos:) Vườn Quốc gia Galapagos được hình thành trên đảo Galapagos và nằm trên đường xích đạo khoảng 1000 km từ bờ biển của Ecuador. Cả phần Vườn Quốc gia ở trên cạn và vùng bảo tồn biển Galapagos đã được thế giới công nhận về những hệ sinh thái đặc biệt, hiện trạng bảo tồn khác thường, các quá trình tiến CÁC KHÁI NIỆM VỀ DU LỊCH BỀN VỮNG 39 HỌC PHẦN 1 hoá có thể dễ dàng quan sát, sự đa dạng sinh học cao và mức độ đặc hữu cao của các loài động thực vật tại đây. Mặc dù Vườn Quốc gia được thành lập từ 1959, Ban quản lý chủ động của Vườn và các hoạt động du lịch chưa được phát triển cho mãi đến 1968. Cả ban quản lý Vườn và đại diện của ngành du lịch nhanh chóng nhận ra rằng nếu họ không hợp tác với nhau để đảm bảo rằng du lịch được thực hiện một cách có trách nhiệm thì các đặc điểm độc đáo của hệ sinh thái của Galapagos có thể bị phá huỷ một cách nhanh chóng. Một kế hoạch quản lý tổng thể cho Vườn đã được soạn thảo vào 1974, bao gồm danh sách của những vùng du khách được vào tham quan và hệ thống phân vùng xác định ở đâu các hoạt động du lịch (và những hoạt động khác) được thực hiện. Phòng Dịch vụ của Vườn cùng với Trạm Nghiên cứu Charles Darwin (CDRS), xây dựng hệ thống hướng dẫn về tự nhiên vào năm 1975. Tất cả các nhóm du khách được đòi hỏi di chuyển với hướng dẫn viên và tất cả các hướng dẫn viên đều đòi hỏi phải vượt qua các khoá huấn luyện để nhận chứng chỉ được làm việc trong Vườn. Những đòi hỏi này đã khích lệ được cộng đồng địa phương tham gia vào du lịch và thông qua các khoá huấn luyện và những kinh nghiệm của họ về Vườn Quốc gia để nâng cao giá trị bảo tồn của các nguồn lợi trong vườn và khu bảo tồn. Hệ thống hướng dẫn này đã giúp công tác cưỡng chế các quy chế Vườn và nâng cao sự hiện diện của công tác quản lý Vườn trên cả 7000 Km2 của vùng đất trên cạn. Các hướng dẫn viên này là công cụ để đảm bảo rằng các du khách được giáo dục về những giá trị bảo tồn lạ thường mà các đảo đang sở hữu. Kế hoạch quản lý đầu tiên đã thiết lập được sức chứa cao nhất của Vườn là 12.000 du khách/năm, con số này nhanh chóng được vượt qua do sự phát triển quá nhanh của du lịch đến mức tương ứng ngày nay khoảng 100.000 du khách/năm. Trong khi những nỗ lực trải qua nhiều năm để thiết lập sức tải của Vườn, thì cũng là điều khó khăn đối với công tác cưỡng chế để hạn chế số du khách do sự phức tạp và một số yếu tố đóng góp vào du lịch của Vườn Quốc gia Galapagos. Điều trở nên dễ dàng hơn là việc quản lý về sức chứa của từng vùng du khách riêng rẽ cũng như giám sát các tác động của du khách là các hiệu qủa nhất để quản lý số lượng du khách. Hiện tại không có giới hạn về số lượng tổng thể du khách đến các đảo Galapagos, thay vào đó thì có giới hạn số lượng du khách tại từng vùng riêng lẻ. Ban lãnh đạo Vườn Quốc gia điều chỉnh các hành trình tàu để đảm bảo rằng số lượng du khách được giữ trong giới hạn số lượng được thiết kế của từng vùng. Ban đầu phí vào cửa là US$6 bây giờ đã tăng lên đến US$100. Điều này không làm hạn chế dòng du khách đến tham quan các đảo, nhưng nó cho phép chính phủ Ecuador nhận được những phần chia sẻ lớn của các khoản chi tiêu của du khách tại vùng này. Trải qua nhiều năm, tất cả các khoản thu được từ CÁC KHÁI NIỆM VỀ DU LỊCH BỀN VỮNG HỌC PHẦN 1 40 Vườn Quốc gia Galapagos đều được đóng góp vào ngân khố quốc gia. Với việc xây dựng khu bảo vệ biển và những trách nhiệm lớn hơn tiếp theo cho việc bảo vệ phần biển của các đảo Galapagos, điều đó sẽ không thể đạt được nếu không có những hỗ trợ và tham gia của một số cơ quan chính quyền, việc thu nhận các phí vào cửa được chia sẻ giữa Vườn Quốc gia, các cộng đồng địa phương, CDRS và các cơ quan chính quyền khác. Điều này được mong đợi rằng với việc phân chia tài chính sẽ tạo ra được cách tiếp cận phù hợp hơn cho việc bảo vệ môi trường tại các đảo Galapagos. Khai thác phi pháp gần đây trong các khu bảo vệ biển đã tạo ra những mâu thuẫn lớn giữa các nhà bảo tồn và các bên quan tâm đến khai thác nguồn lợi. được sự hướng dẫn của Vườn và CDRS các bên liên quan đã xây dựng được quá trình giải hoà các mâu thuẫn và việc lập kế hoạch có sự tham gia cho các hệ sinh thái biển được gọi là quản lý có sự tham gia (chúng ta sẽ thảo luận sâu hơn vào học phần sau). Các bên liên quan cơ bản đã ngồi lại trong cùng một bàn và đạt được kết luận về kích thước khai thác, địa điểm khai thác và các vấn đề liên quan khác. Những nỗ lực đầu tiên này đã đóng góp vào Luật đặc biệt của Galapagos vào năm 1998, và giúp giải quyết một số vấn đề liên quan đến khu bảo vệ biển cũng như vấn đề du lịch ở các đảo. Có thể tránh được nhiều mâu thuẫn nếu kế hoạch quản lý có sự tham gia được hình thành khi du lịch bắt đầu. Du lịch ở các đảo Galapagos bắt đầu khi “du lịch sinh thái” và “du lịch bền vững” chưa tồn tại. Thông qua các thử nghiệm và sửa đổi, các nhà quản lý Vườn và đại diện của các ngành du lịch từng bước tạo ra một hoàn cảnh gần với những gì mà du lịch sinh thái đại diện như: có lợi cho cộng đồng, khu vực tư nhân và bảo tồn nguồn lợi; giáo dục du khách; bền vững kinh tế cho Vườn Quốc gia; và quản lý tác động du khách. Đây không phải là điều dễ dàng để có một hoàn cảnh hiện tại hoàn thiện. Một nhóm quan trọng bao gồm những mối quan tâm đặc biệt đã tạo ra để đảm bảo những chất lượng độc đáo của các đảo Galapagos sẽ được tiếp tục bảo vệ. Các học viên sẽ có các bài trình bày về hiện trạng du lịch ở trong và xung quanh KBTB của mình Thảo luận: So sánh các điểm điển cứu So sánh các điểm điển cứu được trình bày bởi các thành viên. Những điểm giống và khác nhau? Về mức độ và nhu cầu mà du lịch có thể tác động đến các chiến lược quản lý? Những khó khăn nào xuất hiện trong mỗi trường hợp và Bạn nghĩ làm thế nào để tránh được nó? 1.4 CÁC BÁO CÁO HIỆN TRẠNG TỪ CÁC VÙNG TRONG BIỂN ĐÔNG CÁC KHÁI NIỆM VỀ DU LỊCH BỀN VỮNG HỌC PHẦN 1 41 1.5 PHÁT TRIỂN TẦM NHÌN CHO DU LỊCH Một hợp phần quan trọng trong việc lập kế hoạch cho du lịch là “tầm nhìn” – hình ảnh về một hoàn cảnh lý tưởng cho du lịch bền vững trong vùng của Bạn. Hình thành tầm nhìn là một quá trình tưởng tượng về những kết quả tốt nhất có thể và định nghĩa các mục đích du lịch mà Bạn muốn KBTB và cộng đồng của Bạn sẽ hướng tới. Phần xây dựng tầm nhìn được xoáy quanh 3 câu hỏi dưới đây: 1. Chúng ta đang ở đâu? Thảo luận về hiện trạng du lịch trong KBTB và cộng đồng của Bạn và những mối liên quan khác (bao gồm các yếu tố kinh tế, xã hội và chính trị) 2. Chúng ta muốn sẽ đi đến đâu? Hỏi tất cả các học viên họ “mơ” gì về hoàn cảnh lý tưởng của việc phát triển du lịch trong cộng đồng của KBTB của họ? Nếu việc tiếp cận tài chính, chính sách, thị trường không là vấn đề thì viễn cảnh tốt nhất của du lịch trong tương lai sẽ là gì? Đó chính là tầm nhìn của Bạn. 3. Làm thế nào để chúng ta đạt được? So sánh hoàn cảnh hiện tại và hoàn cảnh mong ước trong tương lai. Những bước nào cần thiết để đạt được tầm nhìn mong ước? Tài liệu 1.8 – Xây dựng tầm nhìn của các điểm du lịch Điểm điển cứu: Một tầm nhìn về du lịch bền vững của Vườn Quốc gia Komodo Vườn Quốc gia Komodo bao gồm một số đảo lớn nhỏ trong vùng đảo Lesser Sunda của Indonesia. Vườn xuất phát được xây dựng là khu bảo vệ Rồng Komodo (loài bò sát lớn nhất thế giới) vào những năm của thập niên 1980. Trong những năm xây dựng đầu tiên, Vườn đã thu hút được khoảng 150 du khách hàng năm. Vườn trở nên phổ biến hơn với việc nhìn ngắm các động vật hoang dã, và các trải nghiệm lặn có khí tài và ống thở. Số du khách đã vượt qua 30.000 du khách/năm vào cuối thập niên 1990, và bây giờ (với việc nổ bom Bali) có khoảng 11.000 du khách/năm. 80% du khách đến cùng mong muốn nhìn thấy các con Rồng Komodo hoang dã, nhưng một số lượng đang tăng lên quan tâm đến các điểm bơi lặn đặc biệt. Vườn cũng thu hút một số nhóm làm phim hàng năm để thực hiện các phim về vùng nhiệt đới và các nhà khoa học sử dụng các kính lúp ở đây trong nhiều tháng. Sự đa dạng trong du khách được tăng lên thúc đẩy việc quản lý Vườn Quốc gia Komodo phát triển một tầm nhìn chi tiết và tổng thể về du lịch bền vững của Vườn. Xem chi tiết ở tài liệu kèm theo. CÁC KHÁI NIỆM VỀ DU LỊCH BỀN VỮNG HỌC PHẦN 1 42 Tài liệu 1.9 - Tầm nhìn của Vườn Quốc gia Komodo Thực hành: Xây dựng tầm nhìn cả điểm du lịch cho KBTB và vùng của Bạn Chia thành các nhóm nhỏ theo các KBTB và phát triển tầm nhìn du lịch cho mỗi vùng. Trong vòng 30 phút, trình bày cho nhau. Phần tiếp theo là phát triển tầm nhìn của cả vùng Biển Đông. Bắt đầu bằng việc xác định một số tầm nhìn chung giữa các vùng. Bây giờ, các Bạn đã có tầm nhìn cho KBTB, đây là thời gian để đánh giá những điểm mạnh, yếu và các khía cạnh độc đáo của mỗi KBTB và các cộng đồng tại đó. Chính xác những gì mà KBTB cung cấp cho du khách? tại sao du khách nên đến và tham quan cùng này? Đây sẽ là phần tập trung của học phần tới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftai_lieu_cac_khai_niem_ve_du_lich_ben_vung.pdf