Tài liệu Cây thuốc người Dao Ba Vì (Phần 1)

Tên khác: Mâm xôi32, Ngấy là những tên gọi hay được dùng để gọi lẫn lộn khá nhiều loài cây thuộc chi Mâm xôi. Chúng cùng thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae) và có kết cấu quả hạch tập hợp thành một quả kép rất giống nhau, tuy nhiên có thể phân biệt được dựa trên hình thái lá hay màu sắc của hoa, quả. Tên tiếng Dao: Khìng púa pẹ/ G’hìm gô Tên khoa học: Loài được đề cập ở đây có tên khoa học là Robus alceaefolius Poir. Mô tả: Cây nhỡ thân leo, cành nhiều lông và gai, lá đơn có lông, phiến lá chia 5 thuỳ hình chân vịt. Hoa mọc thành chùm, có 5 cánh màu trắng, nhiều nhị và nhiều noãn đỏ (chi chín tạo thành quả hạch tập hợp thành quả kép màu đỏ). Quả chín có vị chua, ăn được33. Phân bố: Mọc hoang dại ở khắp vùng đồi núi rừng miền Bắc nước ta. Bộ phận dùng làm thuốc: Rễ, thân Công dụng: Các loài trong chi Mâm xôi đều là vị thuốc dân gian dùng chữa tiêu hóa kém, giúp ăn ngon miệng; mát gan tiêu độc. Các nhà khoa học thế giới phát hiện trong hạt quả Mâm xôi có hàm lượng kẽm rất cao, được cơ thể hấp thụ tốt. Kẽm giúp kiểm soát hàm lượng testosteron, giúp phụ nữ nhanh chóng hưng phấn và tăng cường sức mạnh của tinh trùng. Trong quả Mâm xôi còn có hàm lượng chất chống oxy hoá rất cao, giúp máu lưu thông tốt hơn tới cơ quan sinh dục.

pdf51 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 8 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu Cây thuốc người Dao Ba Vì (Phần 1), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nào. Khi thấy mình đã quá yếu, tôi nói với chồng “Dành lần này tôi chết”. Nói xong tôi thiếp đi, nằm mơ thấy mình sinh được một đứa con trai nhưng sinh xong thì nhau không ra được. Tôi tưởng mình sắp chết thì bỗng có tiếng nói của một cụ già vẳng đến, bảo tôi: “Con đừng lo, cứ lấy nắm lá Nhằm Nhò Nha mà uống thì nhau sẽ ra hết. Sáng hôm sau, tôi làm theo lời cụ già trong giấc mơ. Đun thuốc uống xong, tôi lên gác hai phơi lúa thì thấy cửa mình ào máu ra, trong đó lẫn một cục gì dai, đen ra theo. Sau đấy, tôi hết hẳn rong kinh. Thế là tôi dùng cây thuốc ấy chữa cho không biết bao nhiêu người bị giống như tôi. Từ kinh nghiệm ấy, tôi dần dần khám phá thêm rằng, cây này cũng chữa được cả sỏi thận vì nó có khả năng “đẩy” ra rất mạnh. Tôi đã áp dụng và chữa sỏi thận cho chính bản thân mình và nhiều bệnh nhân khác. Điển hình là tôi đã chữa thành công cho một ca khó. Đó là ông Lý ở Từ Liêm, Hà Nội. Ông bị sỏi thận, bệnh viện kết luận ông có ba viên sỏi san hô (ba cạnh), bệnh tình rất nặng. Ông lên tìm đến nhà tôi, tôi bốc thuốc có sử dụng cây Nhằm Nhò Nha chữa cho ông. Ông uống năm thang đầu, thấy bệnh đỡ, ông đi kiểm tra thấy chỉ còn 2 viên sỏi. Tôi tiếp tục bốc cho ông mười thang nữa, ông uống đều đặn đến một hôm ông đi tiểu thì cảm giác có vật cứng mắc ở đầu dương vật. Ông đi bệnh viện gắp ra thì hóa ra đó là một phần của viên sỏi thận. Bệnh viện kiểm tra lại thì thấy những viên sỏi thận của ông hoàn toàn biến mất. Từ bấy đến nay, ông Lý vẫn thường xuyên dẫn người quen lên nhà tôi nhờ bốc thuốc chữa bệnh. Thế mới nói, nghề thuốc Nam của dân tộc Dao mang đầy tính linh thiêng, ông bà tổ tiên không chỉ truyền lại cho con cháu những bài thuốc hay mà còn báo mộng để con cháu biết tìm cây thuốc quý để tự chữa bệnh và cứu người. Người Dao rất tin vào tâm linh, tôi thì cho rằng, phải là những người có tâm thì những lúc khó khăn, tổ tiên mới hiển linh về chỉ bảo như thế. Giữa sự phát triển của xã hội, thuốc Nam của dân tộc Dao vẫn luôn là nét văn hóa quý giá, là kết tinh của tri thức và vốn sống từ ngàn đời. (Theo lời kể của Lương y Triệu Thị Hòa – Chủ tịch Hội Đông y xã Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội CÂY THUỐC NGƯỜI DAO BA VÌ19 Nghề làm thuốc được người Dao truyền miệng, không ghi chép vào sách vở. Người Dao Ba Vì trước đây sống trên núi cao, ít va chạm với người miền dưới, khi bị bệnh chỉ dùng thuốc Nam và làm lễ cúng bái. Một số bài thuốc phổ biến thì có cách chế biến và liều lượng giống nhau, nhưng cũng có bài thuốc lại khác nhau do cách phối hợp vị thuốc của mỗi gia đình theo bí quyết riêng. Bởi vậy thuốc Nam của dân tộc Dao gọi là cổ truyền cũng được mà gia truyền cũng đúng. Dùng thuốc Nam rất ít có tác dụng phụ, chữa được nhiều bệnh nan y. Với bệnh nhiễm trùng, trong Tây y có thể phải tháo khớp, nhưng dùng thuốc Nam chỉ đắp ngoài là khỏi. Bệnh trĩ: Tây y phải cắt, còn dùng thuốc Nam chỉ uống là tự nó co lên. Bệnh sỏi thận: Tây y phải mổ còn dùng thuốc Nam chỉ cần uống là sỏi tự tiêu tự tan. Bệnh hậu sản thì không thể dùng thuốc Tây mà phải dùng thuốc Nam mới khỏi được. Thuốc Nam còn hiệu nghiệm với nhiều bệnh khác như cam sài ở trẻ em, bệnh ho hen, ho lao, viêm gan B, vàng da, đại tràng, phong tê thấp Bản thân tôi khi 13 tuổi đã theo mẹ lên rừng hái thuốc và đi chợ. Khi 16 tuổi tôi đã bốc thuốc cứu người. Từ năm 1995 về trước, hầu hết tôi chỉ chữa bệnh cứu người mà không lấy tiền, ai khỏi bệnh họ chỉ đến trả lễ tổ tiên. Sau khi nghỉ hưu, từ 2006 đến nay, tôi làm vừa ươm, bảo tồn cây thuốc tại vườn nhà, vừa hành nghề bốc thuốc Nam làm kế sinh nhai. Tôi luôn trăn trở phải làm thế nào để giữ gìn lấy những cây thuốc quý báu này, để những bài thuốc của người Dao sẽ được lưu truyền mãi cho con cháu. Có lẽ đó cũng là mong muốn của tất cả bà con người Dao, những người sinh ra đã gắn bó với từng cái cây, ngọn cỏ ở Ba Vì. CÂY THUỐC NGƯỜI DAO BA VÌ 20 Theo lời kể của Lương y Triệu Thị Thanh – Thôn Hợp Sơn, xã Ba Vì “...Tôi luôn trăn trở phải làm thế nào để giữ gìn lấy những cây thuốc quý báu này, để những bài thuốc của người Dao sẽ được lưu truyền mãi cho con cháu...” CÂY THUỐC NGƯỜI DAO BA VÌ21 Thuốc tắm: Các bài thuốc tắm của dân tộc Dao có từ rất lâu đời, vốn được người Dao sử dụng trong chính đời sống của mình, công dụng thực sự hiệu nghiệm. Tuy nhiên, ngày nay loại thuốc tắm ít được người tiêu dùng ưa chuộng hơn vì nó không tiện dùng. Chỉ số ít bệnh nhân có điều kiện sử dụng hoặc bệnh khá nặng muốn chóng khỏi mới dùng thuốc tắm (có thể kết hợp cùng thuốc uống). - Thuốc tắm đẻ: Gồm các cây thuốc như: Đìa sản, Sùi liềm, Lồ lào vâm, Puồng ton,... Mỗi vị có công dụng khác nhau. Đìa sản là vị chính có tác dụng phục hồi nhanh chóng sức khỏe cho sản phụ; Sùi liềm giúp làm mát trong người; Lồ lào vâm có tác dụng giảm lượng huyết chảy ra; Puồng ton giúp sản phụ chóng sạch máu. Bốn cây thuốc này được phối với tỷ lệ nhất định, tùy vào thể trạng người dùng, đun với khoảng 20 – 30 lít nước cho thật sôi rồi đề nguội từ từ đến khi còn ấm khoảng 30 độ C thì tắm. Sản phụ tắm đều đặn khoảng 7 – 10 ngày cơ thể sẽ hoàn toàn phục hồi, có thể lao động bình thường. - Thuốc tắm phong tê thấp: Gồm: Cù đài, Ìn bọt, Chày lau, Lá lốt leo, Bưởi bung. Nấu như nước tắm đẻ, nhưng sau khi sôi, người bệnh phải xông hơi nóng từ thuốc khoảng 10 phút rồi mới tắm. Cứ tắm khoảng 10 thang là bệnh sẽ khỏi. Cao lá: Cách đây 50 năm trở về trước, người dân tộc Dao vẫn chỉ biết dùng cây thuốc dưới dạng tươi hoặc phơi khô. Vì vậy việc vận chuyển thuốc đi xa gặp rất nhiều khó khăn. Người dân tộc Dao bắt đầu nghĩ cách chế biến thuốc theo dạng khác để làm thuốc “gọn, nhẹ” hơn mà vẫn giữ được công dụng của thuốc. Cao lá ra đời từ đó. Để ra đời được một mẻ cao thuốc, phải mất tới nhiều tuần liền đun nấu liên tục. Ban đầu, cao lá được nấu từ 100 loại lá khác nhau (Cao lá bách thảo) như: Pù chặt mau, Tầm kha mhây, Ngồng chan, Dào kía, Dào xí, Dào bay, Dào chan, Lồ lào nhạu. để chữa bệnh đau xương khớp, dây thần kinh. Sau này, người Dao còn nấu cao rất nhiều loại thuốc khác. Theo bà Triệu Thị Hòa, chủ tịch hội Đông Y xã Ba Vì, thì loại thuốc nào cũng nấu cao được mà không lo bị giảm công dụng thuốc. Bà đã và đang chế biến nhiều bài thuốc dưới dạng cao, như thuốc chữa dạ dày, thận, trĩ công dụng tốt và rất tiện cho người dùng. Loại thuốc dạng cao này có thể uống cùng rượu, hoặc nuốt, ngậm hay hấp vào nồi cơm cho chảy ra rồi uống đều được. - Thuốc chữa bệnh thận: thường dùng Chuối rừng, Kim tiền thảo, Hoàn ngọc để chữa bệnh thận. Ngoài ra còn dùng Nhầm nhỏ nha vô cùng hiệu quả giúp làm tan sỏi thận hoàn toàn. - Thuốc chữa bệnh trĩ: Dùng Cùng kẹt, Thầu dầu tía, Xà lậu lọ đem nấu cao uống, kết hợp dùng ngoài rất hiệu quả. Một số cách thức SỬ DỤNG THUỐC NAM THÔNG DỤNG CỦA NGƯỜI DAO - BA VÌ CÂY THUỐC NGƯỜI DAO BA VÌ23 NHỮNG CÔNG ĐOẠN CHÍNH CỦA NGHỀ THU HÁI THUỐC NAM Những vị thuốc quý thường ẩn mình trong tận rừng sâu núi thẳm, để tìm lấy được chúng từ núi Tản Viên hùng vĩ quả là cả một kì công. Những loại dược liệu sẽ được chính tay người làm thuốc đi thu hái, chọn lựa. mang về băm, chặt nhỏ với từng kích cỡ phù hợp với mỗi loại dược liệu. 1 2 3 CÂY THUỐC NGƯỜI DAO BA VÌ 24 Sau khi rửa sạch, các loại dược liệu được đem phơi hay sấy cho khô, mỗi loại có cách phơi sấy khác nhau để giữ trọn vẹn công năng của chúng. Sau cùng là khâu bốc thuốc theo từng thang hay đóng gói bảo quản. Một số thành phẩm thuốc Nam của dân tộc Dao ở Ba Vì. 4 5 6 CÂY THUỐC NGƯỜI DAO BA VÌ25 GIỚI THIỆU NHỮNG CÂY THUỐC QUÝ Trong khuôn khổ cuốn sách này, chúng tôi xin giới thiệu một số cây thuốc quý mà người Dao ở Ba Vì thường xuyên sử dụng trong những bài thuốc của mình, kèm theo một số thông tin về công dụng và cách dùng đơn giản, dễ ứng dụng trong đời sống hàng ngày. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng cố gắng sưu tầm và giới thiệu những bài thuốc Nam phổ biến gắn với mỗi loại cây thuốc mà người Dao Ba Vì thường sử dụng nhằm cung cấp thông tin tham khảo cho những người làm nghề y đặc biệt là những người Dao làm thuốc nam cổ truyền ở Ba Vì. Tên khác: Ba gạc Cu ba, La phu mộc. Tên tiếng Dao: Gàm chụa. Tên khoa học: Rauvolfia tetraphylla L., họ Trúc đào (Apocynaceae). Ba gạc có nhiều loại khác nhau: R. vomitoria Afz. (Ba gạc Phú Thọ); R. cambodiana Pierre (Ba gạc lá to); R. serpentina (L.) Benth. ex Kurz. (Ba gạc Ấn Độ),... Mô tả: Cây nhỏ, cao 1-1,5m; thân nhẵn, có những nốt sần nhỏ màu lục sau xám. Lá mọc vòng 3 có khi 4-5; phiến lá hình ngọn giáo dài 4-16cm, rộng 1-3cm, gốc thuôn, chóp nhọn. Hoa nhỏ màu trắng, hình ống phình ở họng, mọc thành xim dạng tán kép dài 4-7cm. Quả dài xếp từng đôi, hình trứng, khi chín có màu đỏ tươi rồi chuyển sang màu tím đen. Ra hoa tháng 3-12, có quả tháng 5 trở đi. Ở đồng bằng, có khi hoa nở quanh năm. 6 Thuốc Đông dược ( Phân bố: Cây mọc hoang ở Hà Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Thanh Hoá, Lào Cai. Bộ phận dùng: Vỏ rễ và rễ. Vào mùa Thu, Đông, đào rễ về, rửa sạch đất, phơi hoặc sấy khô. Cần chú ý bảo vệ lớp vỏ vì lớp vỏ chứa nhiều hoạt chất nhất. Công dụng: Thanh nhiệt hoạt huyết, giải độc, giáng huyết áp. Nước sắc Ba gạc có tác dụng làm giảm huyết áp, làm tim đập chậm, lại có tác dụng an thần và gây ngủ. Chế biến: Có thể dùng tươi, khô hoặc nấu thành cao. Liều dùng: 3 - 5 gam /1 ngày BA GẠC BỐN LÁ6 CÂY THUỐC NGƯỜI DAO BA VÌ 28 Tên khác: Dây ruột già; Chẩu phóng xì (Quảng Ninh), Sáy cáy (Thái), Thau tày cáy (Tày), Ba kích thiên (Trung Quốc). Tên tiếng Dao: Ba kích Tên khoa học: Morinda officinalis How., họ cà phê (Rubiaceae). Mô tả: Là cây dây leo bằng thân quấn, sống nhiều năm. Ngọn có cạnh, màu tím, có lông, khi già thì nhẵn. Lá mọc đối, hình mác hoặc bầu dục thuôn nhọn; phiến lá cứng có lông tập trung ở mép và ở gân, khi già ít lông hơn, màu trắng mốc, dài 6-15cm, rộng 2,5-6cm, cuống ngắn. Lá kèn mỏng ôm sát vào thân. Hoa nhỏ tập trung thành tán ở đầu cành, lúc mới nở màu trắng, sau hơi vàng; tràng hoa liền ở phía dưới thành ống ngắn. Quả hình cầu có cuống riêng rẽ, khi chín màu đỏ. Mùa hoa tháng 5-6, mùa quả tháng 7-10. Phân bố: Ở một số tỉnh trung du và núi thấp phía Bắc (Quảng Ninh, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Tuyên Quang,...). Bộ phận dùng: Là rễ phơi hay sấy khô của cây Ba kích. Cây trồng 3 năm trở lên có thể thu hoạch rễ làm dược liệu. Chế biến: Rễ cây đào về cắt bỏ cổ rễ và rễ con, chỉ lấy chỗ có đường kính 0,5cm trở lên, phơi nắng cho héo rồi dùng chày gỗ đập nhẹ cho bẹp phần thịt (tránh dập nát) tiếp tục phơi, sấy khô, thịt sẽ biến thành màu tím hoặc hồng tím, có nhiều chỗ đứt sâu để lộ lõi gỗ nhỏ bên trong, cắt thành đoạn ngắn 10cm. Khi sử dụng, ủ mềm, rút bỏ lõi, thái mỏng, phơi khô hoặc tẩm rượu sao qua. Ba kích nhục là Ba kích đã bào chế bằng cách tẩm nước muối 5%, ngâm 30 phút rồi đem đồ chín, rút lõi, phơi khô. Công dụng: Theo Đông y, Ba kích vị cay, chát, ngọt, tính ôn, vào kinh thận. Có tác dụng ấm thận, tráng dương, khỏe gân cốt, trừ phong thấp. Dùng cho các trường hợp liệt dương di tinh, đau bụng do hư hàn lãnh thống, đau lưng mỏi gối, tiểu tiện không kìm (di niệu bất cấm), phong hàn thấp tý. Nước sắc Ba kích có tác dụng làm hạ huyết áp, tăng sức dẻo dai, tăng sức đề kháng của cơ thể, chống viêm. Kiêng kỵ: Người âm hư hỏa vượng (sốt nhẹ về chiều) táo kết không dùng. BA KÍCH7 7 Các bài thuốc từ cây Ba Kích - Tạp chí cây thuốc quý ( CÂY THUỐC NGƯỜI DAO BA VÌ 30 BA KÍCH - BÀI THUỐC8 1. Chữa thận hư: Nam giới liệt dương, xuất tinh sớm, phụ nữ khó thụ thai, dương hư: Bài 1: Ba kích, Đảng sâm, Phúc bồn tử, Thỏ ty tử, Thần khúc (tất cả 300g), Củ mài núi khô 600g. Đem các vị trên, tán bột mịn làm hoàn 10g với mật ong. Ngày uống 2-3 lần/ 1 hoàn. Bài 2: Ba kích, Cốt toái bổ, Đảng sâm, Nhục thung dung, Long cốt tất cả 300g; Ngũ vị tử 150g. Làm hoàn mềm 10g với mật ong. Ngày uống 2-3 lần/1 hoàn. Bài 3: Hoàn ba kích thiên: Ba kích 16g, Ngũ vị tử 6g, Đảng sâm12g, Thục địa 12g, Nhục thung dung 12g, Long cốt 12g, Cốt toái bổ 12g. Nghiền thành bột mịn, luyện với mật ong làm hoàn. Ngày uống 2 - 3 lần, mỗi lần 12g, chiêu với nước. Trị thận hư, đau lưng, hoạt tinh. Bài 4: Ba kích 12g, Đảng sâm 12g, Phúc bồn tử 12g, Thỏ ty tử 12g, Củ mài 24g, Thần khúc 12g. Tán thành bột, luyện với mật ong làm hoàn. Ngày 2 lần, mỗi lần 12g, chiêu với nước. Trị nam giới liệt dương, xuất tinh sớm, nữ giới dương hư không có thai. Bài 5: Ba kích 15g, Thục địa 15g, Sơn thù 12g, Kim anh 12g. Sắc uống. Trị thận hư, di tinh, nam giới liệt dương. 2. Chữa suy nhược, gầy còm hoặc béo bệu, kém ăn, kém ngủ, chân tay đau nhức, huyết áp cao: Ba kích 150g (chế cao 1/5 để khử chất gây ngứa cổ), Hà thủ ô trắng chế đậu đen 150g (chế cao 1/5), Ngưu tất 150g (chế cao 1/5), lá Dâu non 250g (chế cao 1/5), vừng đen chế 150g (sao thơm), Rau má thìa 500g (làm bột mịn), mật ong 250g. Đem các vị trên chế hoàn mềm 10g. Ngày uống 3 lần/1 hoàn. 3. Trường hợp gân cốt mềm yếu, lưng và đầu gối đau buốt. Bài 1: Hoàn kim cương: Ba kích 50g, Tỳ giải 50g, Nhục thung dung 50g, Đỗ trọng 50g, Thỏ ty tử 50g, Lộc thai 1 bộ. Tán thành bột, luyện với mật làm hoàn. Ngày 2 - 3 lần, mỗi lần 8g, chiêu với nước đun sôi. Bài 2: Rượu Ba kích - Ngưu tất: Ba kích 30g, Ngưu tất sống 30g, rượu 500ml, ngâm 7 ngày, bỏ bã, uống với nước nóng, mỗi lần 30 - 60ml. Không được uống say. Dùng cho các trường hợp liệt dương; đau lưng mỏi gối, chân yếu run chân. Bài 3: Rượu Dương hoắc Huyết đằng Ba kích: Dâm dương hoắc 40 - 60g, Kê huyết đằng 40 - 60g, Ba kích 40 - 60g, đường phèn 30g, rượu trắng 750ml. Ngâm sau 7 ngày. Dùng mỗi lần 20 - 30ml, ngày 2 lần. Dùng cho các trường hợp thận hư, phong thấp có các triệu chứng đau nhức xương khớp, đau lưng mỏi gối. 4. Dùng cho các trường hợp muốn cai rượu: Ba kích 15g, Đại hoàng chế với rượu 30g. Ba kích thái lát, sao với gạo nếp cho đến khi gạo cháy đen, bỏ gạo cháy, lấy Ba kích tán thành bột mịn trộn với bột mịn Đại hoàng (hoặc tán cả 2 thứ cùng lúc). Mỗi lần lấy 3g bột uống với nước đường hoặc mật. Mỗi ngày 1 lần 8 CÂY THUỐC NGƯỜI DAO BA VÌ31 BÌNH VÔI Tên khác: Củ một, Dây mối trơn, Ngải tượng, Tử nhiên, Cà tòm (Tày), Co cáy khẩu (Thái). Tên tiếng Dao: Đìa đòi pẹ Tên khoa học: Stephania glabra (Roxb.) Miers, họ Tiết dê (Menispermaceae) Mô tả: Dây leo, dài 2-6m. Rễ phình to thành củ nạc bám vào núi đá, có khi nặng tới hơn 20kg. Da thân củ màu nâu đen, xù xì giống như hòn đá, hình dáng thay đổi tuỳ theo nơi củ phát triển. Nếu mọc ở đất thì củ nhỏ hơn. Từ thân củ mọc lên những thân màu xanh, nhỏ, mềm. Lá mọc so le, có cuống dài, phiến mỏng hình khiên hoặc tam giác gần tròn, đường kính 8-9cm, với mép thường lượn sóng tai bèo; cuống lá dài 5-8cm. Hoa nhỏ, khác gốc, màu vàng cam tụ tập thành tán kép. Hoa đơn tính khác gốc. Hoa cái có cuống tán ngắn, còn hoa đực có cuống tán dài. Quả hình cầu dẹt, khi chín màu đỏ, có một hạt hình móng ngựa có gai9. Phân bố: Cây của Đông Dương và Ấn Độ, mọc hoang chủ yếu ở vùng núi đá vôi các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai,... Bộ phận dùng làm thuốc: Củ Thu hái: Có thể thu hái quanh năm, đào lấy củ, rửa sạch, cạo bỏ vỏ đen, thái mỏng, phơi hay sấy khô. Công dụng: Làm thuốc trấn kinh, an thần, chữa mất ngủ, sốt nóng, nhức đầu, khó thở, chữa đau dạ dày. Chú ý: Để tránh bị “say”, tức ngộ độc, chỉ nên sử dụng với liều nhỏ: Người lớn ngày uống từ 3 đến 6g. Trẻ nhỏ dùng với liều lượng 0,02 - 0,025g đối với trẻ 1-5 tuổi; 0,03-0,05g đối với trẻ 5-10 tuổi. CÂY THUỐC NGƯỜI DAO BA VÌ 32 BÌNH VÔI - BÀI THUỐC 1. Chữa hen, ho lao, lỵ, sốt, đau bụng: Củ bình vôi khô sắc uống hoặc ngâm rượu uống. Ngày 3-6g. Hoặc tán bột ngâm rượu 40 độ với tỷ lệ 1 bột/5 rượu, uống 5-15ml mỗi ngày. Có thể thêm đường cho dễ uống10. 2. Thuốc an thần: Y học hiện đại dùng toàn cây, cao hoặc alcaloid bào chế thành dạng thuốc thích hợp để làm thuốc an thần. Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 3-6g bột củ hoặc 10-15ml rượu thuốc 10%11. 9 Cổng thông tin điện tử Học Viện Quân y ( 10 GS.TS. Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – NXB Y học, 2004 11 Thuốc Đông dược ( CÂY THUỐC NGƯỜI DAO BA VÌ33 Tên khác: Có hai loại bồ công anh: bồ công anh Việt Nam còn có tên là rau Bồ cóc, Diếp dại, Mũi mác, Rau bao12 . Bồ công anh Trung Quốc còn gọi là Hoàng địa đinh, Nãi chấp thảo13. Tên tiếng Dao: Lày mày dày/ Lày mày im. Tên khoa học: Bồ công anh Việt Nam: Lactuca indica L.; Bồ công anh Trung Quốc: Taraxacum officinale Wigg., họ Cúc (Asteraceae). Mô tả: Bồ công anh Việt Nam là loại cây nhỏ, thường cao 0,6-1 m, đôi khi cao tới 3 m, thân mọc thẳng, nhẵn, không cành hoặc rất ít cành. Lá cây có nhiều hình dạng: lá phía dưới dài 30 cm, rộng 5-6 cm, gần như không có cuống, chia thành nhiều thùy hay răng cưa to, thô; lá trên ngắn hơn, không chia thùy, mép có răng cưa thưa. Nếu ta bấm vào lá và thân đều thấy tiết ra nhũ dịch màu trắng đục như sữa, vị hơi đắng. Hoa màu vàng, có loại màu tím, cả hai loại đều dùng làm thuốc được14. Bồ công anh Trung quốc có lá mọc thành hoa thị ở gốc, phiến lá cắt thành nhiều thùy nhỏ. Cụm hoa màu vàng, khi già ra quả có lông màu trắng xếp thành hình cầu. Phân bố: Bồ công anh Việt Nam có mặt ở khắp mọi nơi nên được nhiều người biết đến. Bồ công anh Trung Quốc chỉ mọc ở Đà Lạt và Sa Pa. Cây thường mọc ở nơi đất ẩm, trong vườn, ven đường đi, bãi sông hoặc trên các thửa ruộng, nương rẫy đã bỏ hoang. Bộ phận dùng: Rễ, thân, lá. Lá có thể ăn tươi hằng ngày, hoặc cắt nhỏ phơi khô cùng thân, rễ để dùng dần. Người Dao ở Ba Vì có cách chế biến thành dạng cao đặc để dùng rất tiện dụng (1ml cao tương đương 10 g dược liệu). Thu hái: Vào khoảng tháng 5 - 7, lúc cây chưa ra hoa hoặc bắt đầu ra hoa. Công dụng: Công dụng cả hai loại bồ công anh trên tương đối giống nhau. Theo Y học cổ truyền: Bồ công anh vị đắng ngọt, tính lạnh, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tiêu thũng, chữa các bệnh mụn nhọt, lở loét, viêm dạ dày - tá tràng, viêm gan, viêm họng. Ở Ba Vì, người Dao gọi bồ công anh là Lày may, trồng trong vườn nhà, ngoài dùng làm thuốc, còn dùng như một món rau trong bữa cơm hằng ngày. Theo các thầy lang người Dao, Lày may là món ăn có tác dụng thanh nhiệt giải độc, lọc máu, phòng một số bệnh về gan, mật, có khả năng kích thích tiêu hóa, tăng sự thèm ăn. Trong dân gian, Bồ công anh được dùng nhiều để chữa bệnh sưng vú, tắc tia sữa, các chứng viêm nhiễm, mụn nhọt đang sưng mủ, hay bị mụn nhọt, đinh râu, bệnh đau dạ dày. Kiêng kỵ: Các chứng âm hư hoặc tràng nhạc, ung nhọt đã vỡ cấm dùng. BỒ CÔNG ANH CÂY THUỐC NGƯỜI DAO BA VÌ 34 BỒ CÔNG ANH - BÀI THUỐC15 1. Mắt đau sưng đỏ: Bồ công anh 40g, Dành dành 12g. Sắc uống ngày một thang. 2. Viêm tuyến vú, tắc tia sữa: Dùng 50 g Bồ công anh tươi rửa sạch, thêm chút muối, giã nhỏ, vắt lấy nước uống, bã đắp vào vùng sưng đau; mỗi ngày uống 2 lần, sau 2-3 ngày sẽ thấy tác dụng. 3. Khí huyết hư (Lượng kinh ít, sắc mặt hơi tối, người mệt mỏi): Đương qui, Bạch thược, Đảng sâm mỗi thứ 10 g, Xuyên khung, Tử hà xa (sấy khô nghiền bột), Phục linh, Bạch truật mỗi thứ 8 g, Cam thảo 6 g, Bồ công anh 12 g, Thục địa 16 g, Sơn giáp 6 g. Đổ ngập nước, sắc còn 300 ml, ngày chia 3 lần, uống nóng. Uống đến khi kinh nguyệt bình thường. 4. Tỳ vị hư nhược (Đau trướng ở vị quản, thường kém hấp thu, rối loạn kinh nguyệt, sắc lưỡi đỏ, rêu lưỡi trắng dày, mạch hơi huyền): Phật thủ, Hoắc hương, Mạch nha mỗi thứ 8 g; Mộc thông, vỏ Dừa khô, Đương quy mỗi thứ 10 g, Bồ công anh 12 g, Cam thảo 6 g. Đổ ngập nước, sắc còn 300 ml, chia làm 3 lần uống trong ngày. Uống đến khi thấy kinh nguyệt đều. 5. Mụn nhọt: Bồ công anh 40g, Bèo cái 50g, Sài đất 20g. Sắc uống ngày một thang. 6. Ăn uống kém tiêu, hay bị mụn nhọt: Lá Bồ công anh khô 10-15 g; nước 600 ml (khoảng 3 bát con); sắc còn 200 ml (1 bát) (có thể đun sôi kỹ và giữ sôi trong vòng 15 phút); uống liên tục trong vòng 3-5 ngày, có thể kéo dài hơn. 7. Viêm họng: Bồ công anh 40g, Kim ngân hoa 20g, Cam thảo Nam 10g. Sắc uống ngày một thang. 8. Viêm loét dạ dày, tá tràng: Bồ công anh 40g, lá Khôi, Nghệ vàng 20g, Mai mực 10g, Cam thảo 5g. Sắc uống ngày một thang. 9. Chữa đau dạ dày: Lá Bồ công anh khô 20 g; lá Khôi 15 g; lá Khổ sâm 10 g; thêm 300 ml nước, đun sôi trong vòng 15 phút, thêm ít đường vào, rồi chia 3 lần uống trong ngày. Uống liên tục trong vòng 10 ngày, sau đó nghỉ 3 ngày rồi uống tiếp cho đến khi khỏi. 10. Viêm phổi, phế quản: Bồ công anh 40g, vỏ rễ Dâu 20g, hạt Tía tô 10g, Kim ngân hoa 20g, Cam thảo Nam 10g. Sắc uống ngày một thang. 11. Người có các bệnh về gan: Bồ công anh 20 g, Nhân trần 12 g, Chi tử 8 g sắc với 200 ml nước, còn 100 ml, chia làm hai lần uống trong vòng 15- 20 ngày (có thể sử dụng lâu dài). Viêm gan virus: Bồ công anh 30g, Nhân trần 20g, Chó đẻ răng cưa 20g, Rau má 30g, Cam thảo Nam 20g. Sắc uống ngày một thang. Đối với người bị viêm gan, xơ gan, thiểu năng gan, ăn khó tiêu, viêm đường tiết niệu (đái tắc, buốt, ra máu): Bồ công anh tươi 50 g giã nhỏ, vắt lấy nước uống như trên. 12. Với người bị viêm đường tiết niệu: Bồ công anh 20 g, Cỏ mực khô 20 g, Kim ngân hoa 8 g, sắc với 200 ml nước, còn lại 100 ml, uống 2 lần trong ngày, kéo dài. 13. Trị gai đâm hoặc bị nhằm nước đái của con cáo làm cho thịt sưng phù: Bồ công anh giã nát lấy nước cốt bôi vào nhiều lần thì khỏi. 12 Tạp chí cây thuốc quý, Hội Dược liệu Việt Nam ( 13 Bảo Trân, Cây rau, thuốc quý Bồ công anh, Trang tin nhanh Việt Nam ra thế giới, 27/11/2007 ( 14 GS.TS. Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – NXB Y học, 2004 15 GS.TS. Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – NXB Y học, 2004 CÂY THUỐC NGƯỜI DAO BA VÌ35 Tên khác: Bái bài, Cứt sát, Bí bài cái, cây Lưỡi ba, Mác thao sang (Tày), Co dọng dạnh (Thái), Cô nèng (K’ho). Tên tiếng Dao: Bưởi bung Tên khoa học: Acronychia laurifolia Blume, họ Cam (Rutaceae). Mô tả: Cây bụi hoặc gỗ nhỏ, phân cành nhiều, cao 1-3m hoặc hơn. Cành ngoằn ngoèo, khi non màu lục sau màu nâu đỏ. Vỏ hơi nhăn, có mùi xoài. Lá mọc đối , có cuống dài 2-3cm, thuôn, mép nguyên, gốc hẹp, đầu tù hơi nhọn, mặt trên bóng, lúc non có lông, sau nhẵn, vò nát có mùi thơm. Cụm hoa hình ngù, mọc ở kẽ lá hoặc đầu cành; hoa màu trắng, rất thơm, lưỡng tính. Quả hạch hình cầu, đường kính 1,5-2cm, khi chín màu vàng nhạt, ăn được, hạt dài có vỏ cứng màu đen. Mùa hoa: Tháng 7-9; Quả: Tháng 10- 11.Tránh nhầm với cây cơm rượu (Glycosmis pentaphylla Correa), cũng có nơi gọi là bưởi bung16. Phân bố: Mọc hoang ở miền núi và trung du. Bộ phận dùng: Rễ và lá, thu hái quanh năm. Rễ đào lên, bỏ rễ con, rửa sạch, chặt thành đoạn ngắn, phơi khô. Lấy lá bánh tẻ, không sâu hay vàng úa, phơi hay sấy khô. Vỏ thân để dùng ngoài. Công dụng: Theo Đông y bưởi bung có vị ngọt, tính bình, có tác dụng hành khí, hoạt huyết, kiện tỳ, chỉ khái. BƯỞI BUNG CÂY THUỐC NGƯỜI DAO BA VÌ 36 BƯỞI BUNG - BÀI THUỐC17 16 Diễn đàn Đông trùng hạ thảo Tây Tạng, 22/3/2011 ( 17 Rễ Bưởi bung chữa phong thấp, Sức khỏe và Đời sống, 18/6/2007 ( 1. Chữa phong thấp, đau nhức mình mẩy và khớp xương: Bài 1: Rễ bưởi bung 20g, rễ cốt khí 16g, rễ cỏ xước 20g, dây đau xương 24g, hoa kinh giới 20g, rễ hoàng lực, mỗi thứ 20g. Cách dùng: cho 600ml nước sắc còn 200ml nước, ngày uống 1 thang, chia làm 2 lần. Bài 2: Uy linh tiên 16g, rễ gắm 12g, thiên niên kiện 16g. Nhức xương nhiều thêm rễ tầm xuân 12g, thân cà gai leo 20g, rễ bưởi bung 16g. Cách dùng: cho 600ml nước sắc còn 200ml nước, ngày uống 1 thang, chia làm 2 lần. Bài 3: Rễ bưởi bung 20g, rễ xấu hổ 20g, rễ cúc tần 20g, rễ và lá đinh lăng 10g, rễ và lá cam thảo dây 10g. Tất cả sao qua. Cách dùng: cho 600ml nước sắc còn 200ml nước, ngày uống 1 thang, chia làm 2 lần, dùng từ 3-5 ngày. 2. Chữa phụ nữ kém ăn, da vàng: Lá bưởi bung sao vàng 10g, rễ bưởi bung 8g, chi tử 8g, nhân trần 6g. Cách dùng: cho thêm 400ml nước sắc còn 200ml nước, ngày uống 1 thang, chia làm 2 lần. 3. Chữa mụn ổ gà mọc ở bẹn, nách: Lá bưởi bung 5g, búp ổi 5g, lá thổ phục linh 3g, lá táo chua 10g. Tất cả rửa sạch, giã nhỏ, trộn với 5g muối ăn, bọc trong lá chuối non, có châm lỗ áp vào vết thương. CÂY THUỐC NGƯỜI DAO BA VÌ37 Tên khác: Ngưu tất nam. Tên tiếng Dao: Kèng pầy lẹng. Tên khoa học: Achyranthes aspera L., họ Rau dền (Amaranthaceae). Mô tả: Cây thảo cao khoảng 1m. Rễ nhỏ, cong queo, bé dần từ cổ rễ đến chóp rễ. Lá mọc đối, mép lượn sóng. Hoa nhiều, mọc thành bông dài 20-30cm ở ngọn cây. Quả nang, có lá bắc tồn tại thành gai nhọn. Hạt hình trứng dài 18. Phân bố: Mọc hoang khắp nơi trên các bãi cỏ, ven đường đi, bờ bụi. Cũng được trồng bằng hạt. Bộ phận dùng: Toàn thân, chủ yếu là rễ. Thu hái rễ cỏ xước vào mùa Hè, rửa sạch, thái nhỏ, dùng tươi, phơi hay sấy khô làm thuốc. Ở Ấn Ðộ người ta dùng toàn cây trị bệnh phù, bệnh trĩ, nhọt, phát ban da, đau bụng và rắn cắn. Rễ được dùng sắc để thu liễm. Hạt được dùng trong chứng sợ nước. Công dụng: Theo Đông y, Cỏ xước có vị chua, đắng, tính bình (có tài liệu nói tính mát), tác dụng thanh nhiệt, tiêu viêm, lợi tiểu, làm lưu thông huyết, còn có khả năng chống viêm tốt ở giai đoạn mạn và cấp tính, tác dụng bổ gan thận, mạnh gân cốt, được sử dụng để chữa viêm khớp, phụ nữ sau sinh máu hôi không sạch, làm giảm cholesterol trong máu, chữa tăng huyết áp, xơ vữa động mạch... Liều dùng trung bình mỗi ngày cho dạng thuốc sắc là 3,9g. CỎ XƯỚC CÂY THUỐC NGƯỜI DAO BA VÌ 38 CỎ XƯỚC - BÀI THUỐC19 Ngọn và lá non vò kỹ, thái nhỏ, chần qua nước sôi, có thể xào hay nấu canh. Còn rễ cây và các bộ phận khác được dùng trị: Cảm mạo phát sốt, sổ mũi; Sốt rét, lỵ; Viêm màng tai, quai bị; Thấp khớp dạng khớp; Viêm thận phù thũng; Tiểu tiện không lợi, đái rắt, đái buốt; Ðau bụng kinh, vô kinh, kinh nguyệt không đều; Ðòn ngã tổn thương. 1. Chữa chứng sổ mũi, sốt: Cỏ xước 30g, Đơn buốt 30g, sắc uống ngày 1 thang, chia 2 - 3 lần. Chữa sổ mũi do viêm mũi dị ứng: Rễ cỏ xước 30g, Lá diễn, Đơn buốt mỗi vị 20g sắc với 400ml nước còn 100ml. Uống trong ngày, nên uống khi thuốc còn ấm. Dùng trong 5 ngày. 2. Chữa quai bị: Lấy Cỏ xước giã nhỏ chế thành nước súc miệng và uống trong; còn bên ngoài lấy lượng vừa đủ giã đắp vào nơi quai bị sưng đau. 3. Chống co giật (kể cả bại liệt, phong thấp teo cơ, xơ vữa mạch máu): rễ Cỏ xước 40 – 60g sắc lấy nước thuốc uống nhiều lần trong ngày. 4. Chữa viêm gan, viêm thận (kể cả viêm bàng quang, đái vàng thẫm, đái đỏ, đái ra sỏi): Cỏ xước 15g, Cỏ tháp bút 15g, Mộc thông 15g, Mã đề 15g, Sinh địa 15g, rễ Cỏ tranh 15g, sắc lấy nước uống với bột hoạt thạch 15g, chia ba lần. 5. Chữa trị viêm cầu thận, phù thũng, đái đỏ, đái són, viêm gan virus, đái vàng thẫm, da vàng, viêm bang quang, đái ra máu: Rễ Cỏ xước 25g, rễ Cỏ tranh, Mã đề, Mộc thông, Huyết dụ, Lá móng tay, Huyền sâm, mỗi vị 10g. Sắc với 600ml nước còn 200ml, chia uống 2 lần vào buối sáng và trưa sau các bữa ăn. Mỗi liệu trình điều trị 10 ngày. Nghỉ 15 ngày lại tiếp tục sử dụng đơn thuốc này (phải theo chỉ định của thầy thuốc). Hoặc rễ Cỏ xước sao vàng 30g, Mã đề cả cây 20g, Cúc bách nhật cả cây 25g, Cỏ mực 20g, sắc ngày uống 1 thang, chia 2 – 3 lần, uống liền trong 10 ngày. 6. Chữa các chứng bốc hỏa (nhức đầu, chóng mặt, đau mắt, ù tai, tăng huyết áp, rối loạn tiền đình, khó ngủ, đau nhức dây thần kinh, rút gân, co giật, táo bón): Rễ Cỏ xước 30g, hạt Muồng sao 20g, sắc uống mỗi ngày 1 thang chia 3 lần; thuốc có công hiệu an thần. 7. Chữa thấp khớp đang sưng: Rễ Cỏ xước 16g, Nhọ nồi 16g, Hy thiêm thảo 16g, Phục linh 20g, Ngải cứu 12g, Thương nhĩ tử 12g, sao vàng sắc lấy ba lần nước thuốc, sau trộn chung cô sắc đặc chia 3 lần uống. Ngày uống 1 thang trong 7 – 10 ngày liền. Hoặc Cỏ xước 40g, Hy thiêm 30g, Thổ phục linh 20g, Cỏ mực 20g, Ngải cứu 12g, quả Ké đầu ngựa 12g, sắc lấy nước thuốc đặc uống trong ngày. 8. Viêm đa khớp dạng thấp: Rễ Cỏ xước tẩm rượu sao 20g, Độc hoạt 12g, Tang ký sinh 16g, Dây đau xương 16g, Tục đoạn 12g, Đương quy 12g, Thục địa 12g, Bạch thược 12g, Đảng sâm 12g, Tần giao 12g, Quế chi 8g, Xuyên khung 8g, Cam thảo 6g, Tế tân 6g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần, trong 10 ngày. 9. Chữa bệnh gút: Lá lốt 15g, rễ Bưởi bung 15g, rễ cây Vòi voi 15g, tất cả thái mỏng sao vàng, rồi sắc lấy nước đặc chia ba lần uống trong ngày. Ngày dùng 1 thang, trong 7 – 10 ngày liền. 10. Chữa kinh nguyệt không đều, huyết hư: Rễ Cỏ xước 20g, Cỏ cú (tứ chế) 16g, Ích mẫu 16g, Nghệ xanh 16g, rễ Gai (Gai lá làm bánh) 30g, sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần, uống 10 ngày. Không dùng cho người có thai. 11. Chữa suy thận, phù thũng, nặng chân, vàng da: Rễ Cỏ xước sao 30g, Mã đề cả cây 30g, Cúc bách nhật cả cây 30g, Cỏ mực 30g, sắc ngày uống 1 thang, chia 2 – 3 lần, uống liền trong 7 – 10 ngày. 12. Chữa trị mỡ máu cao (kể cả xơ vữa động mạch, huyết áp cao, nhức đầu chóng mặt, ù tai, mờ mắt): Cỏ xước 16g, hạt Muồng sao vàng 12g, Xuyên khung 12g, Hy thiêm 12g, Nấm mèo 10g, Đương quy 16g, Cỏ mực 20g, sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần, khi uống vớt bã nấm mèo ra ăn, nhai kỹ chiêu với nước thuốc. Cần uống liên tục 20 – 30 ngày./ 13. Chữa các chứng nhức đầu, chóng mặt, đau mắt, ù tai, rối loạn tiền đình, khó ngủ: Rễ cỏ xước 25g, hạt Muồng sao 20g, sắc uống mỗi ngày 1 thang chia 3 lần. Bài thuốc này có tác dụng an thần, dễ ngủ, giúp giảm đau đầu, chóng mặt nhanh chóng. 18 Rễ cỏ xước lợi tiểu tiêu viêm, Tin sức khỏe, 15/6/2011 ( 19 BS. Hoàng Xuân Đại, Cỏ xước lưu thông huyết, Sức khỏe và Đời sống, 12/2/2011 ( CÂY THUỐC NGƯỜI DAO BA VÌ39 Tên khác: Điền thất, Hổ trượng căn, Ban trượng căn. Tên tiếng Dao: Cốt khí củ: Vièng lìn; cốt khí leo: Tầm kha m’hây. Tên khoa học: Cốt khí củ: Reynoutria japonica Houtt., họ rau răm (Polygonaceae); Cốt khí leo: Ventilago leiocarpa Benth., họ Táo ta (Rhamnaceae). Mô tả: Cốt khí củ: Cây thảo sống nhiều năm, cao 1-1,5m. Rễ phình thành củ cứng màu vàng nâu. Thân có những đốm màu tím hồng. Lá mọc so le, có bẹ chìa ngắn. Hoa nhỏ, màu trắng, mọc thành chùm ở nách lá. Quả khô có 3 cạnh. Hoa tháng 6-7, quả tháng 9-1020. Cốt khí leo: Bụi leo, cành xám xám. Lá dạng lá Sao, nhẵn, dày, dài 10-20cm, gốc tròn đầu thon, lúc khô màu nâu, gân phụ 6-8 cặp; cuống dài 4-5mm. Cụm hoa ở nách lá và ngọn nhánh; chùm cao 4-8cm; cuống có lông; lá đài 5, hình tam giác, cành hoa 5, dài gấp đôi lá đài; nhị 5; bầu có lông, vòi nhuỵ 2. Quả có cánh màu nâu gỗ, nhẵn bóng, dài 3,5cm, mang đài tạo thành vòng đến nửa quả; cánh tròn ở đỉnh21. Phân bố: Cây mọc hoang khắp mọi miền rừng núi hay trên những đồi trọc ở nước ta cũng như tại các nước thuộc vùng Đông Á ôn đới. Mọc hoang ở vùng đồi núi nước ta và thường được trồng ở nhiều nơi để lấy củ làm thuốc. Thu hái: Rễ củ quanh năm, tốt nhất là vào mùa thu đông, rửa sạch, thái phiến, dùng tươi hay phơi khô trong râm. Bộ phận dùng làm thuốc: Cốt khí củ: Dùng củ, rễ. Cây cốt khí thường được thu hoạch rễ củ quanh năm nhưng tốt nhất là vào mùa Thu, Đông khi phần trên mặt đất của cây đã tàn lụi, đào lấy rễ rửa sạch, cắt bỏ rễ con thái phiến, thuốc có thể dùng sống hay phơi khô trong râm hoặc sấy khô ở nhiệt độ thấp 40 – 45oC. Cốt khí leo: Rễ và thân (dây) Công dụng: Hoạt huyết, tiêu viêm, kháng sinh, chống virus, lợi tiểu, lợi sữa, chống ho, tiêu đờm. Thường dùng trị phong thấp tê bại, đau nhức gân xương, ngã ứ huyết; Viêm gan cấp, viêm ruột, lỵ; Viêm amygdal, viêm hầu; Viêm khí quản, viêm phổi nhẹ; Viêm ruột cấp, nhiễm trùng đường niệu; Kinh nguyệt khó khăn, vô kinh, huyết hôi không ra (đẻ xong ứ huyết); Táo bón. CỐT KHÍ CÂY THUỐC NGƯỜI DAO BA VÌ 40 CỐT KHÍ - BÀI THUỐC22 1. Trị chứng phong tê thấp (biểu hiện đau nhức gân xương khớp, đau gối, vai, lưng, các khớp ngón tay, ngón chân): Rễ cốt khí 20g, rễ Tầm soọng 20g, rễ Cỏ xước 20g, Lá lốt 20g, Cam thảo dây 20g, Dây đau xương 20g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 2 – 3 lần, cần uống liền 2 – 3 tuần. Hoặc: Củ cốt khí, Gối hạc, lá Bìm bìm, Mộc thông, mỗi vị 15-20g sắc uống. 2. Trị đau gối, sưng mu bàn chân: Rễ cốt khí 12g, rễ Gối hạc 12g, Mộc thông 20g, lá Bìm bìm 20g, sắc uống ngày 1 thang, chia 2 – 3 lần. 3. Trị viêm gan cấp tính: Rễ cốt khí 15g, Chút chít 15g, Lá móng 20g, sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần. Cần uống liền 3 – 4 tuần. Hoặc Cốt khí củ 30g, Nhân trần 30g, sắc uống ngày 1 thang, chia 2 lần. 4. Trị viêm gan, viêm túi mật, sỏi mật, sỏi tiết niệu: Kim tiền thảo 12 – 16g, Xa tiền tử 12 – 16g, Tỳ giải 12 – 16g. 5. Trị thương tích, ứ máu: Cốt khí củ 20g, Lá móng 30g, sắc với 300ml nước còn 150ml chia 2 lần uống trong ngày, mỗi lần uống hòa thêm 20ml rượu. 6. Trị táo bón: Cốt khí củ 30g, sắc uống ngày 1 thang, chia 2 lần. Chú ý: Khi dùng phải sao kỹ để giảm bớt anthranoid, nếu dùng sống dễ bị đi ngoài. 20 Cốt khí củ, Thuốc Đông dược ( 21 Dây cốt khí, Y học cổ truyền, Viện Thông tin – Thư viện Y học Trung ương ( 22 Cốt khí trị bệnh viêm khớp ( CÂY THUỐC NGƯỜI DAO BA VÌ41 Tên khác: Cù dòm, Củ gà ấp, Củ ngỗng. Tên tiếng Dao: Đìa đòi sli’ Tên khoa học: Stephania dielsiana Y.C. Wu, họ Tiết dê (Menispermaceae). Mô tả: Cây thảo leo, sống nhiều năm. Củ thuôn dài hơn củ Bình vôi, mọc nổi, ngang mặt đất, vỏ ngoài nhăn nheo, củ cắt ngang có màu vàng rõ hơn, ít xơ hơn, có vị đắng và tê hơn so với củ Bình vôi. Thân già màu nâu bạc, thân non màu tím nhạt. Thân, lá, cụm hoa đều không lông. Phiến lá hình khiên, mọc so le, dài 9-13cm, rộng 8-12cm; nửa cuống lá phía dính vào phiến lá, gân lá ở mặt sau có màu tím hồng, bấm lá thấy có nhựa màu tím hồng. Hoa nhỏ, đơn tính khác gốc, hoa đực tụ họp thành tán giả, hoa cái thành dạng đầu, lá đài màu tím, cánh hoa màu vàng cam. Quả hạch, hình cầu, hơi dẹt, khi chín màu đỏ24. Hoa tháng 5-6, quả tháng 7-9. Củ dòm rất dễ lẫn với các loài Bình vôi cũng có nơi gọi là Củ gà ấp, nhưng khác ở chỗ Bình vôi có củ hình tròn và ngắn, lá mặt sau chỉ một màu xanh lục nhạt. Phân bố: Củ dòm ưa sáng, ẩm, mát, có thể sống cả ở vùng núi đá lẫn rừng núi đất, cả ở nơi có nhiều đá lộ đầu, độ cao 300-500m, thuộc các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Hà Nội (Ba Vì), Bắc Giang, Quảng Ninh. Còn phân bố ở Trung Quốc, Nhật Bản. Trồng và sống được ở Hà Nội. Bộ phận dùng làm thuốc: Củ Thu hái: Thu hái củ quanh năm, rửa sạch dùng tươi hay thái phiến và phơi khô. Công dụng: Vị đắng, gây tê, có tác dụng lợi tiểu, giảm đau, tiêu viêm, an thần. Dùng uống chữa đau lưng, mỏi nhức chân, đau lưng, đau bụng, lại giúp ngủ rất say. Còn dùng đắp chỗ sưng bắp chuối, nhọt cứng, apxe do tiêm. Người ta thường giã lẫn với muối và gừng. Nhân dân ở Thái Nguyên, Ba Vì (Hà Nội) thường dùng củ thái nhỏ nấu nước uống chữa kiết lỵ ra máu, đau bụng kinh niên và đau dạ dày. Nói chung, công dụng của loài này cũng tương tự như Bình vôi. Ở Trung Quốc, cây được dùng chữa: Thủy thũng, giảm niệu; Phong thấp tê đau; Ðau dạ dày, loét hành tá tràng; Viêm dạ dày ruột cấp tính, lỵ; Viêm tuyến nước bọt, sưng amydal. Ðau thần kinh; Bệnh đường niệu sinh dục, bạch đới; Huyết áp cao. Dùng ngoài trị rắn cắn, mụn nhọt, cụm nhọt. Liều dùng 5- 15g. Dạng thuốc sắc. Tình trạng: Nguồn gen quý, hiếm, mới phát hiện được ở Việt Nam, tình trạng Sẽ nguy cấp, mức độ đe doạ: Bậc V. (Sách đỏ Việt Nam - trang 262). CỦ DÒM23 CÂY THUỐC NGƯỜI DAO BA VÌ 42 CỦ DÒM - BÀI THUỐC24 1. Chữa đau đầu, sốt rét, phù thũng, đau lưng, chân tay nhức mỏi, đau bụng, đau dạ dày, kiết lỵ, đại tiện ra máu: Củ dòm 4-8g sắc với 200ml nước còn 50ml, uống làm một lần trong ngày. Có thể ngâm rượu uống với tỷ lệ 1/10. 2. Tiêu viêm, tán ứ chữa nhọt độc, bắp chuối, áp-xe do tiêm: Củ dòm để tươi, giã với ít muối và gừng, đắp chỗ đau. 23 Củ dòm - Vị thuốc an thần gây ngủ, Sức khỏe và Đời sống, 7/3/2007 ( 24 Phấn phòng kỷ, Thầy thuốc của bạn ( CÂY THUỐC NGƯỜI DAO BA VÌ43 Tên khác: Tục cốt đằng, Khoan cân đằng (tiếng Trung Quốc có nghĩa là làm cho xương cốt được thư giãn khoẻ mạnh); Đậu sương, Nam tục đoạn. Tên tiếng Dao: Pù chặt mau Tên khoa học: Tinospora sinensis Merr., họ Tiết dê (Menispermaceae). Mô tả: Dây đau xương là một loại dây leo, dài 7-8 m có cành dài rũ xuống, lúc đầu có lông, sau thì nhẵn lớp vỏ không sần sùi. Lá cũng có lông nhất là ở mặt dưới làm cho mặt dưới có màu trắng nhạt, phần lá hình tim, mọc so le, phía cuống tròn và hõm lại, phía đỉnh hẹp lại thành mũi nhọn, dài 10-20 cm, rộng 8-10 cm có 5 gân rõ, toả hình chân vịt. Hoa màu vàng lục mọc thành chùm ở kẽ lá hoặc đơn độc, hoặc mấy lá chùm tụ lại, chùm dài khoảng 10cm, có lông măng màu trắng nhạt, quả khi chín có màu đỏ, có dịch nhày, hình bán cầu25 . Mùa hoa quả tháng 2 - 4. Phân bố: Mọc hoang khắp nơi ở miền núi cũng như đồng bằng ở Việt Nam, leo lên các cây nhỡ hay cây gỗ. Bộ phận dùng làm thuốc: Lá và thân, thân cây có tác dụng mạnh hơn. Thu hái thân già, thái nhỏ, phơi khô. Dùng sống hay tẩm rượu sao. Có thể thu hái quanh năm. Thu hái, sơ chế: Chọn cây già, thu hái quanh năm, tốt nhất vào cuối mùa Hè, đầu mùa Thu, lúc cây phát triển mạnh nhất, cho nhiều cành lá. Hoặc vào lúc cây tàn lụi (tháng 10- 12) để lấy dây là chủ yếu: Thân cành không có lá. Công dụng: Dây đau xương có tác dụng khu phong, hoạt huyết, trừ thấp, lợi gân cốt, là một vị thuốc được lưu truyền nhiều trong nhân dân để chữa những triệu chứng của bệnh tê thấp, đau xương, nhức mỏi toàn thân, chấn thương tụ máu, sốt rét kinh niên. Ngoài ra còn dùng làm thuốc bổ. Có thể dùng uống hay xoa bóp26. Kiêng kỵ: Có thai và sản hậu: không dùng (Trung Dược Học). DÂY ĐAU XƯƠNG CÂY THUỐC NGƯỜI DAO BA VÌ 44 CỦ DÒM - BÀI THUỐC27 1. Chữa nhức mỏi, đau người: Lấy Dây đau xương giã nhỏ, trộn với ít nước đắp lên những chỗ đau nhức. Hoặc: Thái nhỏ thân Dây đau xương, sao vàng ngâm rượu với tỷ lệ 1/5. Ngày uống 3 lần, mỗi lần một cốc nhỏ. Phụ nữ hoặc những người không uống được rượu, có thể sắc với nước uống. Thời gian 15-20 ngày. 2. Đau dây thần kinh hông: Dùng Dây đau xương, Lấu bò, Kê huyết đằng, Ngũ vị, Kim ngân, mỗi vị 15g. Đun sôi lấy nước uống. 3. Phong thấp gân xương đau nhức, chân gối rủ mỏi: Dùng Dây đau xương, Bưởi bung, Đơn gối hạc, Cỏ xước, Gấc (rễ), mỗi vị 20-30g sắc uống. 4. Trị lưng đau, gối mỏi do thận hư: Dây đau xương 12g, Cẩu tích 20g, rễ Gối hạc 12g, Củ mài 20g, Rễ cỏ xước 12g, Bổ cốt toái 16g, Thỏ ty tử 12g, Tỳ giải 16g, Đỗ trọng 16g. Sắc hoặc ngâm rượu uống (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam). 5. Đòn ngã tổn thương hoặc đi chạy nhiều sưng chân hay phong thấp sưng đầu gối: Dùng lá Dây đau xương giã nát chế rượu (hoặc giấm hay nước tiểu trẻ em) vào, vắt lấy nước cốt uống, bã thì chưng nóng bóp và đắp vào chỗ đau. 6. Trị rắn cắn: Lá Dây đau xương, lá Thài lài, lá Thuốc lào, lá Tía tô, Rau sam. Dùng tươi, giã nát, vắt lấy nước uống, bã đắp. Tham khảo: “Theo tài liệu nước ngoài: Dây đau xương được dùng hầu như cùng 1 cách với Dây Thần thông (Tinospora cordifolia). Được dùng xông khói để trị trĩ và những vết thương bị loét và để bào chế những nước tắm thuốc dùng điều trị bệnh gan. Rễ luộc chín, ăn trị sốt. Lá và thân cây tươi dùng uống để trị thấp khớp mạn tính” (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam). “Dây của nó cắt rồi vứt vào đâu nó cũng không chết, vứt vào bụi tre hoặc cây cối nào đó nó vẫn xanh tốt như thường, miễn là nơi đâu có hơi sương, vì vậy người ta đặt tên là cây Đậu sương” (Kim Chỉ Nam Dược Tính). “Tên Dây đau xương là do người ta dùng cây này để trị bệnh đau xương” (Đỗ Tất Lợi, Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam). 25 Lương y Huỳnh Văn Thái, Khoan cân đằng, Phước sinh đường, 19/4/2011 ( 26 BS. Trang Xuân Chi, Dây đau xương, Tạp chí Cây thuốc quý ( 27 Dây đau xương, Thuốc Đông dược ( CÂY THUỐC NGƯỜI DAO BA VÌ45 Tên khác: Ðậu chiều, Ðậu săng, Ðậu cọc rào. Tên tiếng Dao: Phù quẩy tập. Tên khoa học: Cajanus cajan (L.,) Millsp., họ Ðậu (Fabaceae). Mô tả: Cây nhỏ, cao 1-2m. Lá kép mọc so le, có 3 lá chét, có lông, mặt trên xanh sẫm, mặt dưới nhạt, lá có gân dài ba cánh giống như điệp rừng, xếp thành hai hàng. Hoa màu vàng hay điểm những đường sọc tía, mọc thành chùm ở nách lá. Quả đậu dẹt, với 2-3 vết lõm chạy chéo trên quả, dài 4-6cm, màu xanh, hạt như đậu ván dẹp, màu sắc hạt có thể trắng ngà, điểm đen hay màu vàng nâu, nâu hay đỏ nhạt tuỳ loại28. Mùa hoa quả tháng 1-3. Phân bố: Phổ biến khắp Ðông Dương và Ấn Độ. Ở nước ta, Đậu chiều mọc hoang và cũng được trồng. Trồng bằng hạt vào đầu mùa mưa. Bộ phận dùng làm thuốc: Rễ, hạt và lá. Hạt là thực phẩm giàu protein như các loại đạu khác (có thể nấu chè, làm tương). Thu hái rễ và lá quanh năm. Ðào rễ về, rửa sạch, thái mỏng, phơi khô. Lá thường dùng tươi. Hạt lấy ở những quả già. Rễ dùng làm thuốc chữa sốt, giải độc, tiêu thũng và chứng hay đái đêm. Hạt cũng dùng như rễ; còn dùng chữa ho, cảm, nhức mỏi gân cốt. Lá dùng để gây nôn khi bị ngộ độc thuốc trừ sâu; lại dùng nấu tắm trị bệnh ngoài da. Dịch lá tươi cũng dùng uống trị lỵ; còn dùng phối hợp với dầu thầu dầu uống trị bệnh đau bụng. Dùng ngoài trị mụn nhọt, vết thương. Ở Ấn Độ, hạt và lá giã ra, hơ hay xào nóng đắp vào vú gây tiết sữa; hạt được dùng trị rắn cắn. Thường dùng rễ với liều 15g sắc uống; có thể thái mỏng để ngậm hoặc tán bột uống. Hạt cũng dùng sắc uống. Công dụng: Ðậu chiều có vị đắng, tính mát; có tác dụng ấm phế, trợ tỳ, tiêu thực, làm thông huyết mạch. Trong nha khoa, cây đậu chiều là phương thuốc nam thần diệu, được các lương y bào chế thành dược liệu chuyên trị đau, sưng, nhức lợi cho người lớn và trẻ em29. ĐẬU CHIỀU CÂY THUỐC NGƯỜI DAO BA VÌ 46 ĐẬU CHIỀU - BÀI THUỐC 1. Ho, cảm, cổ họng sưng đau: Dùng bột rễ Ðậu chiều, bột rễ Xạ can, thêm phèn chua, hoà nước sôi để nguội ngậm không nuốt nước; hoặc dùng hạt Ðậu chiều sao vàng sắc uống. 2. Cảm sốt, mụn nhọt và trẻ em lên sởi ho: Dùng rễ Ðậu chiều 15g, Sài đất và Kim ngân hoa, mỗi vị 10g, sắc nước uống. 3. Trị các loại ban trái có kèm theo các chứng no hơi, sình bụng, tiêu chảy: Dùng lá Bạc hà 100g, củ Bồ bồ 100g, hoa Kinh giới 100g, Trần bì lâu năm 100g, lá Ðậu chiều 100g, Lức cây 100g. Hương phụ sao 100g, Hậu phác sao 100g, củ Sả 100g. Các vị hoà chung, tán bột nhuyễn. Mỗi lần uống 1 muỗng cà phê, trẻ em nửa liều; ngày uống 2-3 lần (kinh nghiệm dân gian ở An Giang). 4. Trẻ em sốt, thức đêm khóc (vì mọc răng), bị té, bị gãy răng, sâu răng, ăn xương cứng mẻ răng, viêm nướu: Hái 15-20 lá đậu chiều (mặt trên đã chuyển màu tím thẫm) rửa sạch, cho vào ½ muỗng muối, giã nhuyễn (nếu trẻ con thì dùng 5-7 lá), vắt lấy nước uống. Sau 10 phút sẽ dứt nhức răng, đau răng, cầm máu. Nếu trẻ bị chấn thương răng, lược lấy nước pha vào 1 muỗng mật ong (hoặc đường) cho uống (khoảng 3ml). 5. Người cao tuổi chảy máu cam, đau nhức răng hàm: Hái 10 lá Đậu chiều rửa sạch, cho vào 1 muỗng muối, đâm nhuyễn, ngậm bã, nuốt nước. Sau 5 phút sẽ có tác dụng. Người cao tuổi răng yếu, ăn nhầm xương cứng, bị nhức nướu, bị trầy xước, khó ngủ: Chỉ cần hái 5 lá đậu chiều nhai dập, nuốt nước. 6. Đi rừng bị nhiễm nước, muỗi đốt, về nhà sốt: Hái một nhánh (gồm thân, cành, lá đậu chiều) khoảng 150-250g, cắt khúc 3cm, rửa sạch, sao khử thổ, nấu sôi trong 15 phút. Uống 3 lần/ngày sẽ hạ sốt. 7. Đi chơi xa, uống nước lạ bị đau bụng, tiêu chảy, nhiễm độc thực phẩm: Nấu từ 15-20 lá Đậu chiều trong 0,5 lít nước còn 150ml. Uống 2 lần vào buổi chiều (trước lúc ăn), tối (trước lúc ngủ) sẽ giải độc, dứt đau. 8. Trẻ nhỏ, người cao tuổi dương thận suy, tiểu đêm, mỏi hai bên hông: Sao 200g thân, rễ, lá Đậu chiều, nấu trong 750ml nước còn 150ml. Uống 3 lần/ngày. 9. Làm đẹp tóc: Quả, hạt Đậu chiều nấu trong 1 lít nước với 50g lá sả còn 250ml, gội đầu, lau khô, thêm 5ml nước cốt chanh 1 lần/tuần giúp tóc đen mượt óng ả và không sợ bị gầu (1 tuần/lần). 28 Đậu chiều, Danh mục cây thuốc Việt Nam ( 29 Cây đậu chiều chữa đau răng, Sức khỏe số, 5/2/2010 ( CÂY THUỐC NGƯỜI DAO BA VÌ47 Tên khác: Cây gỏi cá, Nam dương lâm. Tên tiếng Dao: Đinh lăng Tên khoa học: Polyscias fruticosa (L.) Harms, họ Ngũ gia bì (Araliaceae). Mô tả: Đinh lăng thuộc loại cây nhỏ, cao 0,8-1,5m. Cây có lá kép, mọc so le, lá 3 lần xẻ lông chim, dài 20 – 40 cm, mép khía có răng cưa. Lá chét có cuống gầy, dài 3 – 10 mm. Vò ra lá có mùi thơm. Lá đinh lăng phơi khô, nấu lên có mùi thơm đặc trưng, dân gian gọi nôm na là mùi “thuốc bắc”. Lá tươi không có mùi thơm này. Hoa nhỏ màu trắng, mọc thành tán. Cụm hoa hình chùy ngắn 7 – 18 mm gồm nhiều tán mang nhiều hoa nhỏ. Quả dẹt, dài 3-4mm, dày khoảng 1mm30. Phân bố: Được trồng phổ biến làm cảnh khắp nước ta, mọc cả ở Lào và miền nam Trung Quốc. Bộ phận dùng làm thuốc: Bộ phận dùng làm thuốc chủ yếu là rễ. Ngoài rễ ra, cả thân và lá Đinh lăng đều dùng được. Thu hái, sơ chế: Rễ Đinh lăng được thu hái ở những cây đã có từ 4 - 5 tuổi trở lên. Khi đào lấy rễ, rửa sạch, cắt bỏ phần rễ sát với gốc thân, rễ nhỏ thì dùng cả, nếu rễ to thì dùng phần vỏ rễ. Thái nhỏ, phơi khô chỗ râm mát, thoáng gió để giữ mùi thơm. Công dụng: Theo y học cổ truyền, rễ Đinh lăng có vị ngọt, hơi đắng, tính mát có tác dụng thông huyết mạch, bồi bổ khí huyết, lá có vị đắng, tính mát có tác dụng giải độc thức ăn, chống dị ứng, chữa ho ra máu, kiết lỵ. Nói chung, ngoài tác dụng lương huyết và giải độc thức ăn, những tính chất khác của Đinh lăng gần giống như Nhân sâm. Ngoài ra một số nghiên cứu còn cho thấy Đinh lăng có tác dụng an thần và làm tăng tác dụng của thuốc chống sốt rét. Chú ý: Không được dùng rễ Đinh lăng với liều cao, sẽ bị say, có hiện tượng mệt mỏi đối với cơ thể ĐINH LĂNG CÂY THUỐC NGƯỜI DAO BA VÌ 48 ĐINH LĂNG - BÀI THUỐC31 1. Bồi bổ cơ thể, ngừa dị ứng: Lá Đinh lăng tươi từ 150-200g, nấu sôi khoảng 200ml nước. Cho tất cả lá Đinh lăng vào nồi, đậy nắp lại, sau vài phút, mở nắp và đảo qua đảo lại vài lần. Sau 5-7 phút, chắt ra để uống nước đầu tiên, đổ tiếp thêm khoảng 200ml nước vào để nấu sôi lại nước thứ hai. Cách dùng lá tươi thuận tiện vì không phải dự trữ, không tốn thời gian nấu lâu, lượng nước ít, người bệnh dễ uống nhưng vẫn đảm bảo được lượng hoạt chất cần thiết. 2. Bồi bổ và khai vị: Chọn dùng một trong các cách như: Lấy rễ Đinh lăng khô thái lát 150g, không sao tẩm, tán bột, ngâm trong 1.000ml rượu gạo 35 - 40 độ, trong 7 - 10 ngày liền (hằng ngày lắc đều 1 lần) ngày uống 2 lần vào trước bữa ăn 30 phút, mỗi lần uống 5 - 10ml./ Lá Đinh lăng cũng được dùng để nấu canh với thịt, cá để bồi bổ cho sản phụ, người già hoặc người ốm mới dậy. 3. Chữa nổi mề đay, mẩn ngứa do dị ứng: Lá Đinh lăng khô 80g, đổ 500ml nước sắc còn 250ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày. 4. Chữa tắc tia sữa: Rễ Đinh lăng 40g, gừng tươi 3 lát, đổ 500ml nước sắc còn 250ml. Uống khi thuốc còn nóng, chia làm 2 lần uống trong ngày. Uống liền 2 - 3 ngày. 5. Ho suyễn lâu năm: Rễ Đinh lăng, Bách bộ, Đậu săn, rễ cây Dâu, Nghệ vàng, Rau tần dày lá tất cả đều 8g, củ Xương bồ 6g; Gừng khô 4g, đổ 600ml sắc còn 250ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày. Uống lúc thuốc còn nóng. 6. Phong thấp, thấp khớp: Rễ Đinh lăng 12g; Cối xay, Hà thủ ô, Huyết rồng, Cỏ xước, Thiên niên kiện tất cả 08g; Vỏ quít, Quế chi 04g (riêng vị Quế chi bỏ vào sau cùng khi sắp nhắc ấm thuốc xuống). Đổ 600ml nước sắc còn 250ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày. Uống khi thuốc còn nóng. 7. Chữa đau lưng mỏi gối (chữa cả tê thấp): Dùng thân cành Đinh lăng 20 - 30g, sắc lấy nước chia 3 lần uống trong ngày. Có thể phối hợp cả rễ cây Xấu hổ, Cúc tần và Cam thảo dây. 8. Chữa vết thương: Lá Đinh lăng giã nát đắp nơi bị thương. 9. Phòng co giật ở trẻ: Lấy lá Đinh lăng non, lá già cùng phơi khô rồi lót vào gối hay trải xuống giường cho trẻ nằm. Ngày xưa vào dịp hội hè thường tổ chức thi đấu vật, trước khi thi đấu các đô vật hay vò lá Đinh lăng với nước để uống cho tăng sức dẻo dai, vật lâu không mệt. 30 BS. Vũ Nguyên Khiết, Đinh lăng - Cây thuốc tăng lực, Sức khỏe và Đời sống, 24/3/2009 ( 31 Lương y Võ Hà, Đinh lăng – Cây cảnh và vị thuốc, website Y khoa Việt Nam ( CÂY THUỐC NGƯỜI DAO BA VÌ49 Tên khác: Mâm xôi32, Ngấy là những tên gọi hay được dùng để gọi lẫn lộn khá nhiều loài cây thuộc chi Mâm xôi. Chúng cùng thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae) và có kết cấu quả hạch tập hợp thành một quả kép rất giống nhau, tuy nhiên có thể phân biệt được dựa trên hình thái lá hay màu sắc của hoa, quả. Tên tiếng Dao: Khìng púa pẹ/ G’hìm gô Tên khoa học: Loài được đề cập ở đây có tên khoa học là Robus alceaefolius Poir. Mô tả: Cây nhỡ thân leo, cành nhiều lông và gai, lá đơn có lông, phiến lá chia 5 thuỳ hình chân vịt. Hoa mọc thành chùm, có 5 cánh màu trắng, nhiều nhị và nhiều noãn đỏ (chi chín tạo thành quả hạch tập hợp thành quả kép màu đỏ). Quả chín có vị chua, ăn được33. Phân bố: Mọc hoang dại ở khắp vùng đồi núi rừng miền Bắc nước ta. Bộ phận dùng làm thuốc: Rễ, thân Công dụng: Các loài trong chi Mâm xôi đều là vị thuốc dân gian dùng chữa tiêu hóa kém, giúp ăn ngon miệng; mát gan tiêu độc. Các nhà khoa học thế giới phát hiện trong hạt quả Mâm xôi có hàm lượng kẽm rất cao, được cơ thể hấp thụ tốt. Kẽm giúp kiểm soát hàm lượng testosteron, giúp phụ nữ nhanh chóng hưng phấn và tăng cường sức mạnh của tinh trùng. Trong quả Mâm xôi còn có hàm lượng chất chống oxy hoá rất cao, giúp máu lưu thông tốt hơn tới cơ quan sinh dục. ĐÙM ĐŨM HOA TRẮNG CÂY THUỐC NGƯỜI DAO BA VÌ 50 ĐÙM ĐŨM HOA TRẮNG - BÀI THUỐC 32 Hoàng Duy Tâm, Mâm xôi- Thuốc quý cho quý ông, Sức khỏe và Đời sống online, 27/3/2011 ( 33 Hải Linh, Cây mâm xôi cần cho quý ông, quý bà, Tạp chí Cây thuốc quý ( 1. Trị viêm gan mạn tính, sưng gan, viêm tuyến vú: dùng 30 - 40g cành lá cây mâm xôi, với cây ô rô, mộc thông, mỗi vị 15 - 20g, sắc uống. 2. Trị viêm gan cấp và mạn, viêm tuyến vú, viêm loét miệng: cành lá cây mâm xôi 30g, ba kích, kim anh, mỗi vị 10 - 15g, sắc uống CÂY THUỐC NGƯỜI DAO BA VÌ51

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftai_lieu_cay_thuoc_nguoi_dao_ba_vi_phan_1.pdf
Tài liệu liên quan