Sự kết năng giữa các khái niệm kinh tế sinh học và kinh tế tuần hoàn sẽ được
khai thác. Điều này sẽ cần sự kết hợp của các sáng kiến của khu vực công và tư
nhân. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều thách thức và mục tiêu chính sách để khu vực
công hành động trước, vì phần lớn những gì đã được mô tả được đánh giá là có nguy
cơ rủi ro cao đối với khu vực tư nhân thực hiện một mình.
Không thể kết luận rằng điều này thể hiện một quá trình chuyển đổi lịch sử
khác biệt với các quá trình chuyển đổi trước đó như từ sử dụng vật liệu gỗ sang than
hay than sang dầu, trong đó cần phải hành động quyết liệt và táo bạo để có thể tránh
được tác động nghiêm trọng nhất của biến đổi khí hậu, lương thực, năng lượng, an
ninh nguồn nước và cạn kiệt tài nguyên. Những chuyển đổi này đòi hỏi phải quản lý
quá trình chuyển đổi, cần đầu vào chính sách công rất rộng trong thời gian dài,
nhưng với sự hợp tác chặt chẽ của khu vực tư nhân và các bên liên quan khác cần
được khuyến khích bởi tính lâu dài của các chính sách đang được áp dụng.
Trong kế hoạch lớn của chính sách kinh tế sinh học, vai trò của đổi mới và
công nghệ sinh học thường bị bỏ qua. Nhiều mục tiêu ở nhiều cấp độ, từ phòng thí
nghiệm đến việc triên khai toàn diện, bao gồm cả thử nghiệm và trình diễn, tập trung
vào các vấn đề chính sách nghiên cứu và đổi mới (R&I).
46 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 273 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu Hiện thực hóa nền kinh tế sinh học tuần hoàn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sinh khối và kinh tế sinh học.
Tổng hợp các vấn đề tính bền vững thành một phép đo duy nhất đòi hỏi sự
đánh đổi phức tạp giữa, ví dụ, kilôgam khí thải cacbon dioxide và điều kiện lao
động. Sử dụng thông tin về giá được chấp nhận bởi các nhà hoạch định chính sách
và thị trường. Nhưng đặt các giá trị tiền tệ vào chi phí và lợi ích xã hội và đạo đức là
vấn đề gây tranh cãi. Sự khác biệt giữa các nước phát triển và đang phát triển đòi hỏi
phải xem xét và xử lý một cách cẩn trọng.
Hộp 3. Phương pháp tiếp cận Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đối với tính
bền vững sinh khối
Đây là một cách tiếp cận chỉ số để đánh giá tính bền vững của các chuỗi sản xuất sinh
khối dựa trên khái niệm TFP đã được sử dụng thường xuyên trong nông nghiệp. Ý tưởng
chung của TFP là nó phản ánh tốc độ chuyển đổi các yếu tố đầu vào (vốn, lao động, vật
liệu, năng lượng và dịch vụ) thành đầu ra (trữ lượng sinh khối), trong đó, các yếu tố xã
hội và sinh thái tiêu cực liên quan đến các vấn đề phát triển bền vững khác nhau được
xếp vào loại đầu ra “xấu”.
Lấy ví dụ, đầu ra của một hệ thống sản xuất đậu nành bao gồm dầu đậu nành và bột đậu
nành; đầu vào của hệ thống đậu nành có thể gồm đất, hạt giống, lực lượng lao động,
thuốc trừ sâu và nhiên liệu hóa thạch. Việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch dẫn đến phát
thải một lượng lớn khí GHG độc hại vào bầu khí quyển, góp phần làm nghiêm trọng thêm
tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu (sản phẩm cuối cùng này được coi là đầu ra xấu của
hệ thống sản xuất đậu nành). Việc định lượng đầu ra và đầu vào cần thiết cho chỉ số có
thể thu được một phần từ phân tích LCA. Chỉ số TFP đưa phân tích LCA tiến thêm một
bước, trong đó, nó hợp nhất một số vấn đề bền vững thành một thước đo duy nhất về
tính bền vững. Dựa vào chỉ số TFP, có thể kết hợp và so sánh các vấn đề bền vững ảnh
hưởng đến phúc lợi của con người ở các quy mô không gian và thời gian khác nhau. Do
đó, chuỗi sinh khối có hiệu suất bền vững tốt nhất, tức là điểm TFP cao nhất, là chuỗi tạo
ra tỷ lệ đầu ra cao nhất so với đầu vào, trong đó, đầu ra xấu làm giảm hiệu suất bền
vững. Ngoài ra, có thể so sánh những chuỗi phức tạp với các bộ đầu ra và đầu vào khác
nhau bằng cách sử dụng chỉ số TFP.
Để sử dụng chỉ số TFP, nhiều biến đầu vào - đầu ra phải được thể hiện bằng một mẫu
số chung. Giải pháp được đề ra là sử dụng mức giá phản ánh tầm quan trọng tương đối
của các biến đầu vào và đầu ra đối với tính bền vững.
5.4. Nền kinh tế sinh học hiệu suất tài nguyên: vai trò của việc sử dụng
phân tầng sinh khối
Trong một nền kinh tế tuần hoàn, sử dụng nhiều nguồn tài nguyên tái tạo, với
một số tái sử dụng và chu kỳ tái chế, nên được khuyến khích khi thích hợp. Các vật
liệu dựa trên sinh học, chẳng hạn như gỗ, có thể được sử dụng theo nhiều cách, và
việc tái sử dụng và tái chế có thể diễn ra nhiều lần. Điều này đi cùng với việc áp
dụng hệ thống phân cấp chất thải và, nói chung, các tùy chọn dẫn đến kết quả môi
trường tổng thể tốt nhất... Lĩnh vực dựa trên sinh học cũng cho thấy tiềm năng đổi
mới của nó trong các vật liệu, hóa chất và quy trình mới, có thể là một phần không
27
thể thiếu của nền kinh tế tuần hoàn. Nhận ra tiềm năng này phụ thuộc vào đầu tư vào
các nhà máy lọc sinh học tích hợp, có khả năng xử lý sinh khối và chất thải sinh học
cho các mục đích sử dụng khác nhau.
5.4.1. Khái niệm sử dụng phân tầng sinh khối
Mặc dù chưa có một định nghĩa chính thức được thống nhất bởi cộng đồng
quốc tế, trong khái niệm sử dụng phân tầng sinh khối, sinh khối được khai thác trước
tiên cho các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn trước khi sử dụng các vật liệu còn
lại làm nguồn năng lượng. Giá trị gia tăng ở đây có thể là tài chính, nhưng cũng có
thể là môi trường và xã hội. Lấy ví dụ, việc sản xuất đồ nội thất từ gỗ cô lập cacbon
trong thời gian dài có thể làm tăng giá trị gia tăng về môi trường của gỗ. Việc này
cũng có giá trị kinh tế cao hơn so với đốt gỗ để sản xuất điện và sản xuất đồ nội thất
cũng sẽ sử dụng nhiều lao động có tay nghề cao hơn. Trong khái niệm sử dụng phân
tầng, mọi sinh khối còn lại sau quá trình sản xuất đồ gỗ nội thất sau đó được sử dụng
cho mục đích năng lượng sinh học, từ đó tối đa hóa hiệu quả sử dụng sinh khối.
Điều này phù hợp với thành phần hiệu suất tài nguyên của khái niệm nền kinh tế
tuần hoàn.
Khía cạnh bổ sung quan trọng của việc sử dụng phân tầng đối với chính sách
trong tương lai là sự tương tác với các chuỗi giá trị khác nhau. Ví dụ, lignocellulose
sử dụng làm vật liệu (như ván sợi), sau đó, sử dụng hóa chất trong ngành công
nghiệp giấy và bột giấy; các sợi còn lại có thể được đốt để lấy năng lượng.
Một tỷ lệ lớn tăng trưởng thương mại toàn cầu viên nén gỗ hiện nay đang dành
cho lĩnh vực sản xuất năng lượng sinh học, tức là đốt viên nén để tạo ra điện và/hoặc
nhiệt. Sử dụng sinh khối theo cách này sẽ bỏ qua giá trị gia tăng có thể thu được từ
sinh khối mà tập trung vào dạng năng lượng. Ngoài ra, tạo việc làm cho các ứng
dụng năng lượng sinh học bị hạn chế so với sản xuất sinh học. Lý do chính cho việc
sử dụng viên nén gỗ trong các ứng dụng năng lượng sinh học là để các quốc gia đáp
ứng các yêu cầu khí hậu. Ở châu Âu, sản xuất năng lượng sinh học đang được triển
khai ở quy mô lớn: đến năm 2020 khoảng 10% nhu cầu năng lượng sơ cấp của EU
có thể đến từ sinh khối. Tuy nhiên, nhiều tranh luận đang diễn ra về việc giảm phát
thải GHG thực tế đạt được theo cách này.
Các mục tiêu của sản xuất năng lượng sinh học ít nhất là gấp đôi so với mức sử
dụng nguyên liệu thực vật của con người trên toàn cầu hiện nay, việc sản xuất này
đã đòi hỏi sự dụng khoảng 75% diện tích đất trồng cây và hơn 70% lượng nước tưới
tiêu. Tuy nhiên, đốt sinh khối để cung cấp năng lượng làm tăng lượng cacbon trong
không khí giống như đốt than, dầu hoặc khí đốt nếu việc thu hoạch sinh khối làm
28
giảm lượng cacbon lưu trữ trong thực vật và đất, hoặc làm giảm khả năng cô lập
cacbon, thậm chí dẫn đến những hậu quả bất lợi.
Nói cách khác, giả định rằng quá trình đốt sinh khối là trung tính cacbon, bất
kể nguồn cacbon hữu cơ nào, có thể là thiếu sót nếu tính toán bỏ qua CO2 được giải
phóng bằng cách đốt cháy sinh khối.
Trong nền kinh tế tuần hoàn, khái niệm phân tầng thường được nhắc đến và có
thể hiểu là một khái niệm trung tâm của tính tuần hoàn.
5.4.2. Sử dụng phân tầng liên quan đến các mục tiêu chính sách kinh tế tuần
hoàn như thế nào?
Tiềm năng tạo ra giá trị của quy tắc phân tầng được bắt nguồn từ chi phí cận
biên thấp hơn việc tái sử dụng vật liệu theo phân tầng thay thế cho nguồn nguyên
liệu nguyên thủy và chi phí trực tiếp (nhân công, năng lượng, vật liệu). Tuy nhiên,
về mặt kinh tế, điều này không thực sự rõ ràng. Trong thời điểm giá dầu thấp, chi
phí sản xuất nhựa nguyên gốc có thể thấp hơn quy trình tái chế, vì quá trình làm
sạch và chuẩn bị nhựa đã qua sử dụng đòi hỏi thêm đầu vào bao gồm nhân công lao
động, năng lượng và nước. Trong trường hợp không có cải cách trợ cấp nhiên liệu
hóa thạch và định giá cacbon rõ ràng, các yếu tố này có thể ảnh hưởng lớn đến ý
29
nghĩa kinh tế của việc sử dụng phân tầng một số vật liệu trong từng trường hợp cụ
thể.
Một trường hợp rõ ràng hơn về sử dụng phân tầng là ngành dệt may với các
vật liệu có nguồn gốc hóa thạch hoặc nhiên liệu sinh học. Các vật liệu sử dụng trong
ngành dệt may có thể được tái sử dụng nhiều lần. Tái sử dụng vải trong điều kiện tối
ưu, chi phí thấp và tiết kiệm. Có nhiều mô hình hoạt động, từ quyên góp, trao đổi
quần áo đến các hoạt động bán lại thương mại quy mô nhỏ và quy mô lớn được tổ
chức.
Việc sử dụng phân tầng sinh khối theo thuật ngữ thị trường diễn ra hoàn toàn
khác, vì nó đề cập thường xuyên đến lĩnh vực sơ cấp chứ không phải là lĩnh vực thứ
cấp (sản xuất và công nghiệp).
6. Cân nhắc chính sách
Về mặt chính trị, vai trò của nền kinh tế tuần hoàn đang dần trở nên quan trọng
hơn khi những thách thức lớn cho tương lai gắn liền với xã hội. Liên quan đến việc
tái sử dụng, tái sản xuất và tái chế, các khía cạnh chính sách của tính tuần hoàn vượt
qua nhiều ranh giới - chẳng hạn như thương mại, thuế, chính sách môi trường, công
nghiệp, chính sách đổi mới. Kinh tế sinh học là một vấn đề chính sách như vậy, bao
gồm các bên liên quan khác như nông dân và người trồng rừng. Vì vậy, khái niệm
kinh tế sinh học tuần hoàn trở nên phức tạp hơn đối với các nhà hoạch định chính
sách. Chú trọng vào chất thải làm nguyên liệu, và ý tưởng nâng cao giá trị gia tăng là
ưu tiên cao cho khát vọng của nền kinh tế sinh học.
Xử lý sinh học chất thải là sự kết hợp của quá trình ủ và phân hủy kỵ khí
truyền thống với xử lý sinh học xenlulo hiện đại. Điều này khiến cho việc tìm ra một
cơ chế chính sách duy nhất phù hợp để bao quát toàn bộ chủ đề là rất khó, mặc dù,
các thuật ngữ về tuần hoàn và tính bền vững rõ ràng là các chủ đề phổ biến. Ví dụ,
nhu cầu về R&D thượng nguồn đối với sản xuất phân bón ít hơn so với xử lý sinh
học xenlulo. Tương tự, quan hệ đối tác công - tư đối với ủ phân công nghiệp ít liên
quan hơn vì những rủi ro liên quan đến đầu tư tư nhân thấp hơn, với kinh nghiệm
hàng thế kỷ trong kỹ thuật ủ phân.
Tuy nhiên, một số “công cụ” có thể được áp dụng cho các công nghệ truyền
thống có khả năng giúp cải thiện khả năng dự đoán và hiệu suất. Đặc biệt, những
tiến bộ gần đây trong hệ gen học và ngành học mới về sinh học kỹ thuật có thể mở
ra con đường mới về nghiên cứu và khám phá.
30
Các cân nhắc chính sách ở đây là sự kết hợp giữa xem xét chung và cụ thể.
Xem xét chung có xu hướng nhắm vào những tác động lớn hơn xung quanh tính bền
vững và tạo ra quan điểm và tương lai tuần hoàn cho xã hội. Đối với các vấn đề cụ
thể, người ta sẽ xem xét cụ thể hơn, ví dụ: nhu cầu tiếp tục thực hiện R&D trong xử
lý sinh học hợp nhất.
6.1. Làm rõ các định nghĩa và thuật ngữ
Sự phát triển của các định nghĩa chung sẽ cho phép thu thập dữ liệu hiệu quả
hơn. Điều này sẽ giúp giải quyết vấn đề so sánh giữa các nguồn dữ liệu khác nhau
được đề cập ở trên.
Nhà máy sinh học: Cơ quan Năng lượng Quốc tế mô tả nhà máy xử lý sinh học
là “quá trình xử lý sinh khối bền vững thành một loạt các sản phẩm có thể bán được
(thực phẩm, thức ăn gia súc, nguyên liệu, hóa chất) và năng lượng (nhiên liệu, điện,
nhiệt)”. Định nghĩa này gợi ý rằng các nhà máy xử lý sinh học nên sản xuất cả các
sản phẩm năng lượng và phi năng lượng. Cả các sản phẩm sơ cấpvà các quy trình
dựa trên năng lượng đều được coi là phương pháp tiếp cận xử lý sinh học thực sự
với mục tiêu cuối cùng là xử lý sinh khối bền vững.
Kinh tế sinh học: việc chưa có một định nghĩa thống nhất là một trở ngại. Nó
phủ nhận đầu vào khoa học, khiến việc xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc tế trở nên
phức tạp và có thể tạo ra các rào cản thương mại. Khái niệm của OECD đưa ra năm
2009 đã dần trở nên phổ biến. Theo đó, kinh tế sinh học được định nghĩa là “tập hợp
các hoạt động kinh tế trong đó công nghệ sinh học đóng góp chủ yếu vào sản xuất
và công nghiệp sơ cấp, đặc biệt là khoa học sự sống tiên tiến được áp dụng để
chuyển đổi sinh khối thành vật liệu, hóa chất và nhiên liệu”. Chính ý nghĩa của việc
sử dụng sinh khối, từ khu vực đến toàn cầu, đã mở rộng lĩnh vực kinh tế sinh học
vượt ra ngoài những đóng góp của khoa học sự sống.
Chất thải sinh học: hầu hết các số liệu thống kê không phân biệt trọng lượng
ướt và khô, do đó việc so sánh là không thể. Điều quan trọng là phải làm rõ định
nghĩa chất thải sinh học. Theo Ủy ban Châu Âu: “Chất thải sinh học được định
nghĩa là chất thải trong vườn và công viên có thể phân hủy sinh học, chất thải thực
phẩm và chất thải từ nhà bếp của các hộ gia đình, nhà hàng, nhà cung cấp thực
phẩm, và chất thải tương tự từ các nhà máy chế biến thực phẩm. Chất thải sinh học
không bao gồm dư lượng lâm nghiệp hoặc nông nghiệp, phân chuồng, bùn thải hoặc
chất thải phân hủy sinh học khác như vải dệt tự nhiên, giấy hoặc gỗ chế biến. Nó
cũng không bao gồm những sản phẩm phụ của quá trình sản xuất thực phẩm vốn
không bao giờ được coi là chất thải”. Loại bỏ các dư lượng lâm nghiệp và nông
nghiệp, khối lượng chất thải sinh học được tạo ra sẽ rất khác.
31
Xử lý chất thải: có thể được thay đổi để cho phép thực hiện việc thu gom, vận
chuyển, phân loại theo phương thức chuyển hóa trong các nhà máy sinh học. Nếu
một vật liệu được xử lý chuyển hóa trong nhà máy sinh học thì nó không còn được
coi là chất thải mà là tài nguyên. Nếu việc này chính thức được thực hiện, sẽ giúp
giải quyết được các vấn đề xung quanh quá trình thu gom và vận chuyển chất thải.
Định nghĩa về “sản phẩm dựa trên sinh học” và khuôn khổ hài hòa cho các sản
phẩm dựa trên sinh học cũng rất cần thiết để làm tiêu chuẩn cho mua sắm công và
phát triển kinh doanh. Ủy ban Tiêu chuẩn Châu Âu đã đạt được tiến bộ trong việc
xây dựng khung tiêu chuẩn hóa mạch lạc và hài hòa đối với các sản phẩm dựa trên
sinh học, tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn cần thực hiện truyền bá việc sử dụng các tiêu
chuẩn đã được xây dựng nhằm tận dụng tiềm năng thị trường. Quan hệ hợp tác quốc
tế này có thể được thiết lập bằng cách trao đổi các Thực tiễn và Kinh nghiệm Tốt
nhất để đạt được cách tiếp cận chặt chẽ hơn với các sản phẩm dựa trên sinh học trên
toàn cầu. Nếu không, chắc chắn sẽ hình thành những rào cản thương mại.
Việc đánh giá về tiềm năng cạnh tranh của công nghệ sinh học, trong đó, đòi
hỏi mô hình kinh tế của các công nghệ cạnh tranh là rất cần thiết. Tương lai của giao
thông phi cacbon phụ thuộc vào việc sản xuất liệu nhiên liệu sinh học ethanol
xenlulo có hiệu quả kinh tế ở quy mô lớn hay không và liệu điều đó có giúp cạnh
tranh với xe điện hay không.
Vì nhiều lý do khác nhau, cần có thuật ngữ được tiêu chuẩn hóa trong công
nghệ sinh học. Ủy ban Kỹ thuật ISO TC ISO/TC 276 đang xây dựng một kho lưu trữ
các thuật ngữ liên quan đến công nghệ sinh học. ASTM đã có tiêu chuẩn về thuật
ngữ trong công nghệ sinh học công nghiệp.
Cuối cùng, sự kết hợp của các tác nhân giữa các ngành và từ đó tạo ra các
chuỗi giá trị mới bị hạn chế bởi sự khác biêt và thiếu các thuật ngữ và tiêu chuẩn
chung. Nói tóm lại, những gì cần là từ vựng thông thường được thống nhất trong các
chuỗi giá trị, từ các nhà cung cấp nguyên liệu đến công nghệ xử lý sinh học đến các
chủ thể cuối nguồn trong các lĩnh vực áp dụng.
6.2. Các công cụ quan trọng nhất trong xử lý sinh học chất thải
Công cụ quốc gia/khu vực quan trọng nhất trong xử lý chất thải sinh học là gì?
Quy trình dẫn đến chiến lược cho quốc gia/vùng đặt ra các nguyên liệu có thể, số
lượng, tính bền vững của việc sử dụng, nhu cầu cơ sở hạ tầng và thời gian biểu đến
thời điểm quyết định cần phải tạo ra sự rõ ràng cho các nhà hoạch định chính sách
và khu vực tư nhân. Trên thực tế, điều này dẫn đến một chiến lược hai hướng: trước
hết là một lộ trình nhà máy xử lý sinh học (định hướng quyết định), phải được nối
32
theo bởi một kế hoạch hành động định hướng hỗ trợ. Việc thực hiện từng nội dung
liên quan đến việc thiết lập một hội đồng lãnh đạo quốc gia/ khu vực gồm các chủ
thể công và tư nhằm đảm bảo đáp ứng được các mốc thời gian.
Trên hết, khu vực tư nhân đang tìm kiếm sự chắc chắn về chính sách. Các công
ty có thể đầu tư vào nhiều quốc gia, sự thiếu chắc chắn về triển vọng chính sách ở
bất kỳ một quốc gia nào cũng có thể cản trở đầu tư vàoquốc gia đó. Một khung thời
gian 15-25 năm là cần thiết để phát triển ngành công nghiệp dựa trên nền tảng sinh
học và thiết lập lợi thế cạnh tranh so với sản xuất dựa trên nhiên liệu hóa thạch.
Nhiên liệu hóa thạch vẫn được hưởng các khoản trợ cấp lớn, ngành công nghiệp này
đã có hàng thập kỉ để hoàn thiện các quy trình, chuỗi cung ứng và giá trị, và nhìn
chung các nhà máy đang hoạt động được khấu hao hoàn toàn.
Nếu xã hội cần một sự thay đổi trong sản xuất, sản xuất sinh học được đánh
giá là có đủ đặc tính chung tốt, thì cần có những thay đổi lớn trong xã hội. Đó không
chỉ là lợi ích của khu vực tư nhân “đơn thương độc mã”, và trong nhiều thập kỷ tới,
cần có đầu tư công để hình thành cuộc cách mạng sản xuất này.
6.3. Điều chỉnh chính sách xử lý chất thải sinh học với mục tiêu bền
vững
Quá trình sản xuất sinh học liên quan trực tiếp đến một số thách thức lớn của
xã hội và các mục tiêu chính sách, trong đó, chủ yếu là các mục tiêu giảm thiểu biến
đổi khí hậu, an ninh năng lượng và cạn kiệt tài nguyên. Sản xuất sinh học cũng có
thể gián tiếp liên quan đến vấn đề an ninh lương thực (vì sử dụng sinh khối công
nghiệp có khả năng tác động đến an ninh lương thực), phá hủy đất đai và an ninh
nước. Vì thế, sản xuất sinh học là yếu tố liên quan đến những thách thức quan trọng
nhất trong cuộc sống con người ở thời điểm hiện tại và trong tương lai, có thể gọi
chung là “phát triển bền vững”, và do đó, liên quan trực tiếp đến các mục tiêu trong
Chương trình nghị sự 2030 của Liên Hợp Quốc về Phát triển bền vững.
Xử lý chất thải sinh học giải quyết một số mục tiêu chính sách lớn
Việc sử dụng vật liệu phế thải trong xử lý sinh học đáp ứng một số mục tiêu và
thách thức chính sách như sau:
• Làm giảm áp lực đối với đất đai, do đó tăng cường tính bền vững
• Tránh các vấn đề xung quanh thay đổi mục đích sử dụng đất gián tiếp (ILUC)
• Tránh các vấn đề như tranh cãi về thực phẩm và nhiên liệu
• Cải thiện dư luận thông qua ba vấn đề trên
33
• Đối với khí thải công nghiệp, đặc biệt là khí CO và CO2, cũng như bốn ưu
điểm trên, sử dụng GHG sẽ thay vì phát thải, tức là có đóng góp vào các mục tiêu
chính sách và khoa học về giảm phát thải trong chính sách khí hậu
• Đối với MSW (chất thải rắn đô thị), tất cả các trường hợp trên đều được áp
dụng (vì MSW được chuyển đổi thành khí metan tại các bãi chôn lấp và khí mê-tan
tác động GHG mạnh hơn nhiều so với CO2), và cũng giải quyết được một thách
thức chính sách bổ sung - việc giảm dần việc cung cấp các vị trí phù hợp cho bãi
chôn lấp rác mới, vốn được coi là một vấn đề đối với nhiều quốc gia.
Các vấn đề cốt lõi xung quanh quá trình xử lý sinh học và sử dụng chất thải
Quyết định về địa điểm đặt nhà máy xử lý sinh học chất thải không phải là một
việc đơn giản, mặc dù có nhiều ý kiến về việc đưa các địa điểm này về vùng nông
thôn. Có nhiều yếu tố cần được xem xét. Trong đó,yếu tố mang tính quyết định có
thể là quyết định đưa chất thải rắn đô thị (MSW) làm nguyên liệu. Chính quyền quốc
gia hoặc khu vực nếu muốn xem xét xử lý sinh học chất thải cần phải có đủ kiến
thức về các vấn đề được miêu tả trong Bảng 4.
Bảng 4. Các vấn đề sử dụng chất thải và xử lý sinh học chung trong quá trình ra quyết
định cho các nhà hoạch định chính sách.
Chính quyền quốc gia hoặc khu vực muốn xem xét xử lý chất thải sinh học, cần phải có
đủ kiến thức về những lĩnh vực sau:
Loại và số lượng chất thải có sẵn trong phạm vi của nhà máy được đề xuất đảm bảo
tính bền vững.Hạn chế chủ yếu của việc sử dụng nguyên liệu thô từ nông nghiệp có liên
quan đến giá trị kinh tế và mật độ năng lượng thấp điển hình. Vận chuyển đường dài là
một yếu tố hạn chế.
Loại chất thải có thể cần phải được nhập khẩu (ví dụ, để duy trì hoạt động quanh năm).
Vị trí của cảng gần nhất có thể là một yếu tố quyết định.
Loại hình nhà máy xử lý sinh học sẽ được xây dựng (càng sử dụng nhiều nguyên liệu,
khả năng thành công càng cao).
Những hình thức tiền xử lý sẽ được sử dụng (quá trình khí hóa mở rộng đáng kể phạm
vi sử dụng các nguyên liệu tiềm năng);
Vị trí vật lý khả thi (tiếp cận với các loại sinh khối khác nhau, bao gồm cả MSW, sự
chấp thuận của công chúng
Những cơ quan có thể được kêu gọi để thu thập dữ liệu.
Xây dựng cơ sở hạ tầng mới (ví dụ: đường bộ, đường sắt, điện).
Vai trò ban đầu của khu vực công (ví dụ: bảo đảm tiền vay cho đầu tư tư nhân có rủi
ro).
Các quy định cấp phép xử lý chất thải tại địa phương (ví dụ: các lệnh cấm cụ thể liên
quan đến hình thức vận chuyển vật liệu thải).
Rủi ro trong quá trình xử lý rác thải (ví dụ như các yếu tố: mùi hôi, kinh tế, sức khỏe,
môi trường).
34
Ý nghĩa đối với các thị trường hiện tại, đặc biệt là phương pháp tái chế, đốt và ủ phân
công nghiệp.
Nhận thức cộng đồng (về chất thải, nhà máy công nghiệp, chính sách cácnh đồngnâu/
cánh đồng xanh (brownfield/ greenfield), chất sinh học biến đổi gen, ảnh hưởng đến
tính tiện nghi tại địa phương, ảnh hưởng đến giá nhà).
Làm thế nào để có một khung pháp lý đủ linh hoạt.
Lực lượng lao động có trình độ với các kỹ năng kỹ thuật cần thiết.
Vai trò cần thiết của việc tái sử dụng và xử lý nước thải và nội dung hữu ích hoặc bị
cấm của chính sách hiện nay.
Các thành phố kém phát triển có thể dễ dàng đầu tư xây dựng một nhà máy sinh học
nếu nó mang lại lợi ích cũng như tạo việc làm cho chính người dân trong thành phố.
Các nhà đầu tư khác nhau sẽ có các chương trình nghị sự chính trị khác nhau và cần
được quản lý chặt chẽ.
Những khoảng cách giữa R&D, trình diễn và nhà máy sản xuất nguyên mẫu (phổ biến ở
nhiều quốc gia).
Các sản phẩm dựa trên nhiên liệu sinh học thường không cạnh tranh với các sản phẩm
hóa dầu (điều này không đáng ngạc nhiên vì ngành công nghiệp hóa dầu đã có nhiều
thập kỷ để hoàn thiện các quy trình và sản phẩm của mình và ngành công nghiệp sinh
học non trẻ cần được hỗ trợ chính sách để nâng cao tính cạnh tranh hơn).
Thiếu sự lãnh đạo chính trị nhất quán.
Thay thế tài nguyên hóa thạch và giảm thiểu biến đổi khí hậu
Chiến lược kinh tế sinh học đòi hỏi thay thế đáng kể tài nguyên dựa trên nền
tảng hóa thạch bằng tài nguyên tái tạo. Nhiều chính phủ đã đặt mục tiêu giảm phát
thải để đáp ứng các nghĩa vụ quốc tế, và kết quả là nỗ lực hướng tới sử dụng sinh
khối trong sản xuất điện, nhiên liệu lỏng và khí đã được thực hiện. Theo Cơ quan
Năng lượng Tái tạo Quốc tế, ít nhất 154 quốc gia đã đặt mục tiêu phát triển năng
lượng tái tạo vào giữa năm 2015. Tuy nhiên, chính sách đối với các vật liệu và hóa
chất nền tảng sinh học ít được quan tâm hơn.
Vào tháng 6 năm 2015, G7 vạch ra kế hoạch loại bỏ nhiên liệu hóa thạch vào
cuối thế kỉ này, kêu gọi càng sớm càng tốt giảm được 70% lượng phát thải năm
2010 trước năm 2050, phù hợp với các mục tiêu chung của Thỏa thuận Paris từ
COP21. Sự thay đổi lớn này kêu gọi hành động chính sách trên nhiều mặt, ví dụ:
thuế, năng lượng, nông nghiệp, quản trị, đầu tư. Khoa học và công nghệ nắm giữ các
câu trả lời cho các vấn đề liên quan đến tương lai năng lượng ít carbon, phi hóa
thạch, bằng chứng là sự phát triển của công nghệ năng lượng mặt trời và gió.
Thoái hóa đất đai là nhiệm vụ trọng tâm đối với các nhà hoạch định chính
sách
35
Ở cấp độ chính trị, những tác động của việc phá hủy và suy thoái đất đai đang
được hiện thực hóa. Cuối năm 2017, Bộ trưởng Môi trường Vương quốc Anh
Michael Gove đã đưa ra lời cảnh báo rằng, chỉ sau 30-40 năm, sẽ “xóa sổ cơ bản độ
phì nhiêu của đất đai” các khu vực trên toàn nước Anh. Chính phủ cần khuyến khích
nông dân giải quyết cùng lúc tình trạng đất bạc màu và suy giảm đa dạng sinh học.
Thực tiễn cần thúc đẩy chất lượng của đất đai để phục vụ sản xuất thực phẩm, đồng
thời cung cấp các dịch vụ hệ sinh thái quan trọng khác.
Tình hình ở Anh hoàn toàn không phải là ngoại lệ. Đúng hơn, đây là một vấn
đề mang tầm quan trọng gần như toàn cầu. Khoảng một phần ba đất đai trên thế giới
đã bị suy thoái. Mỗi năm ước tính khoảng 12 triệu ha đất nông nghiệp được sử dụng
để sản xuất 20 triệu tấn ngũ cốc bị thất thoát do ảnh hưởng của tình trạng suy thoái
đất. Khoảng 2,5% diện tích đất trồng trọt ở Trung Quốc bị ô nhiễm trầm trọng nên
không thể sử dụng cho mục đích trồng trọt.
Ước tính toàn cầu về diện tích đất bị suy thoái dao động từ dưới 1 tỷ đến hơn 6
tỷ hecta, với sự khác biệt đáng kể trong phân bố theo không gian. Nguy cơ đánh giá
quá cao tính sẵn có và tiềm năng sản xuất của các khu vực đất đai này là vô cùng
nghiêm trọng, vì nó có thể chuyển hướng sự chú ý ra khỏi những nỗ lực giảm thiểu
chất thải thực phẩm và nông nghiệp.
Tăng trưởng xanh
Các mục tiêu chính sách của xử lý sinh học chất thải cũng phù hợp với khái
niệm Tăng trưởng xanh. Tăng trưởng xanh được định nghĩa như sau: “Nội dung của
tăng trưởng xanh là thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế trong khi đảm bảo
rằng những tài sản tự nhiên tiếp tục cung cấp các tài nguyên và dịch vụ môi trường
vốn đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với phúc lợi của con người. Để làm được
điều này, cần phải xúc tiến đầu tư và đổi mới, điều này sẽ củng cố tăng trưởng bền
vững và tạo ra các cơ hội kinh tế mới”.
Quốc gia đầu tiên kết hợp Tăng trưởng xanh vào mục tiêu chính sách lớn là
Hàn Quốc, với Chiến lược Thực hiện Tăng trưởng Xanh Quốc gia, bao gồm 3 mục
tiêu chính và 10 định hướng chính sách phù hợp với mục tiêu giảm thiểu biến đổi
khí hậu.
Quy định về quản lý chất thải thực phẩm
Thời điểm để điều chỉnh xử lý sinh học chất thải phù hợp với quy định mới về
quản lý chất thải thực phẩm mới là rất lý tưởng ở nhiều quốc gia. Ví dụ, vào năm
2013, Hội đồng Bắc Ireland đã đưa ra các quy định về quản lý quá trình xử lý chất
thải thực phẩm đặt ra trách nhiệm đối với các doanh nghiệp thực phẩm trong việc
36
thực hiện thu gom riêng lẻ chất thải thực phẩm và nghiêm cấm hình thức chôn lấp
chất thải thực phẩm tách khỏi nguồn. Bên cạnh đó, các công cụ theo luật định đặt ra
một nghĩa vụ đối với các hội đồng, đó là cung cấp các thùng chứa để thực hiện thu
gom chất thải thực phẩm riêng lẻ từ các hộ gia đình. Điểm cuối cùng này giúp phá
bỏ một trong những rào cản đối với việc xử lý chất thải sinh học.
Điều này đã tạo ra một động lực mạnh mẽ cho các dự án hỗ trợ phát triển các
chính sách và nghiên cứu kinh tế sinh học/tuần hoàn. Một ví dụ là dự án ReNEW đã
chứng minh rằng có thể tạo ra hơn 13.000 việc làm nếu Bắc Ireland chuyển sang nền
kinh tế tuần hoàn, xác định “các cơ hội đặc biệt trong quản lý quá trình xử lý chất
thải từ thức ăn và thức uống, xử lý sinh học và kinh tế sinh học”.
6.4. Tài trợ cho công nghệ xử lý sinh học chất thải
Hình thức tài trợ phổ biến nhất cho các công nghệ xử lý sinh học ở Mỹ là sự
kết hợp giữa vốn chủ sở hữu, được kết hợp với các khoản tài trợ của liên bang hoặc
bảo lãnh cho vay được liên bang hỗ trợ. Khoản trợ cấp này không cần phải hoàn trả,
nhưng sẽ phải chấp nhận một loạt các yêu cầu kỹ thuật. Để xây dựng các nhà máy
xử lý sinh học, cả USDA và USDOE đều ủng hộ bảo lãnh khoản vay 20 năm.
Với sự bảo lãnh cho vay của chính phủ, chính phủ (người bảo lãnh) hứa sẽ
đảm nhận nghĩa vụ trả của người vay tiền nếu người vay đó không trả được nợ. Bảo
đảm khoản vay có vai trò tương tự như cung cấp tài chính dự án thông thường,
nhưng chính phủ chấp nhận rủi ro công nghệ và hỗ trợ vay. Điều này hợp lý hóa các
bước phê duyệt và kiểm soát.
Ở Châu Âu, cơ chế chính là quan hệ đối tác công - tư liên quan đến tài trợ đối
ứng. Cơ chế bảo đảm tiền vay, phần lớn không được áp dụng trong xây dựng nhà
máy xử lý sinh học ở châu Âu, nhưng được áp dụng thường xuyên ở Mỹ, giúp quản
lý các khoản nợ. Tại thời điểm xây dựng Nhà máy xử lý sinh học Crescentino ở Ý,
tài trợ bằng nợ được coi là khó khăn lớn trong tài chính tổng thể của việc xây dựng.
Các nhà hoạch định chính sách cần đảm bảo rằng chiến lược tài trợ bằng nợ là hợp
lý trước khi cam kết các quỹ công. Các công cụ tài chính để xây dựng quan hệ đối
tác công - tư phải hấp dẫn và không quá quan liêu. Hãy chắc chắn việc thực hiện
quản lý theo giai đoạn (gate-staging) để đảm bảo rằng việcn cấp tài chính công theo
từng giai đoạn phụ thuộc vào kết quả thực hiện các mục tiêu.
Với sự xuất hiện của InnovFin ở châu Âu, việc tài trợ cho các nhà máy xử lý
sinh học thông qua bảo lãnh cho vay trở nên dễ dàng hơn. Việc cung cấp tài chính
cho các nhà đổi mới của InnovFin-EU đã được đưa ra bởi Cộng đồng châu Âu và
Tập đoàn ngân hàng đầu tư châu Âu trong khuôn khổ Horizon 2020. Nó cung cấp
các khoản bảo lãnh hoặc cho vay trực tiếp (24 tỷ EUR) cho các dự án nghiên cứu và
đổi mới. InnovFin hướng tới mục tiêu cải thiện khả năng tiếp cận tài chính rủi ro cho
37
các dự án nghiên cứu và đổi mới; cơ sở hạ tầng nghiên cứu; quan hệ đối tác công tư;
và các dự án đặc biệt thúc đẩy các dự án mẫu công nghiệp đầu tiên. Đây là một bước
tiến lớn ở châu Âu vì các khoản bảo lãnh cho vay trước đây không xuất hiện trong
danh mục các cơ chế tài trợ cho các dự án kinh tế sinh học.
Các công cụ sáng tạo đang được xây dựng và phát triển để tài trợ cho việc xây
dựng nhà máy xử lý sinh học, chẳng hạn như các ngân hàng xanh được thành lập
bằng tiền đóng thuế nhưng hoạt động theo hình thức một ngân hàng thương mại.
Khái niệm về ngân hàng đầu tư xanh, trong đó, các quyết định đầu tư dựa trên đánh
giá đúng đắn về kế hoạch kinh doanh, đang ngày càng trở nên phổ biến. Các dự án
ngân hàng xanh điển hình bao gồm năng lượng tái tạo ngoài khơi và trên bờ, năng
lượng gió và năng lượng mặt trời ngoài khơi. Việc mở rộng các dự án xây dựng nhà
máy xử lý sinh học dường như là một lựa chọn dễ dàng, nhưng cũng đầy rủi ro trong
thời điểm hiện tại. Việc xem xét các mô hình khác là rất cần thiết, các mô hình lai có
thể mang lại hiệu quả hơn bất kỳ mô hình nào hiện có.
6.5. Trợ cấp NC&PT
Một thách thức lớn trong sản xuất dựa trên nền tảng sinh học, cụ thể là trong
xử lý sinh học chất thải, là tính chất đa ngành của đối tượng. Trợ cấp nghiên cứu sẽ
phải tạo ra không chỉ những kiến thức mới cần thiết, mà còn đào tạo ra cán bộ
chuyên môn. Hệ thống giáo dục hiện không phù hợp với thách thức đa ngành và liên
ngành này.
Các chương trình nghiên cứu về xử lý sinh học cần phải được thiết kế cẩn
thận. Sự cân bằng giữa R&D thượng nguồn dựa trên quy mô phòng thí nghiệm cần
được củng cố nhiều hơn và các hoạt động nghiên cứu hạ nguồn gần với thị trường
hơn, ví dụ: thỏa mãn nhu cầu tạo ra một hệ sinh thái công nghiệp. Hình thức đồng tài
trợ cho các chương trình nghiên cứu giữa các hội đồng nghiên cứu khác nhau ví dụ:
công nghệ sinh học, khoa học tự nhiên, kỹ thuật là một nhu cầu rõ ràng, để ngăn
chặn sự chồng chéo và trùng lặp. Các chương trình như BBI JU bao gồm một số loại
hình dự án, từ nghiên cứu cơ bản đến các cơ sở xử lý sinh học hàng đầu, mỗi loại
hình sẽ có một cấu trúc tài trợ khác nhau.
Mô hình R&D phù hợp
Cam kết về tiêu chuẩn kỹ thuật lớn nhất cho việc huy động giải pháp công
nghệ sinh học trong tương lai có thể là việc thực hiện tiêu chuẩn hóa sinh học kỹ
thuật, giúp thực hành nhanh chóng và ít tốn kém hơn. Tuy nhiên, hàng thập kỷ của
kỹ thuật trao đổi chất đối với các hóa chất và vật liệu dựa trên sinh học đã mang lại
nhiều thành công nghiên cứu nhưng ít sản phẩm có quy mô thương mại. Để thu hẹp
38
khoảng cách giữa phòng thí nghiệm và thị trường, cần có các mô hình R&D&I mới
để tăng tốc quá trình này. Các mô hình khác nhau, bao gồm cả tổ chức nghiên cứu
trung gian công tư (IRO) cũng đã được thảo luận.
Xây dựng các doanh nghiệp vừa và nhỏ để đáp ứng những thách thức
Để giải quyết sự thiếu thành công mang tính thương mại này, các nhà nghiên
cứu tại Viện Khoa học và Công nghệ tiên tiến Hàn Quốc (KAIST) đã đề xuất 10
chiến lược chung về kỹ thuật trao đổi chất hệ thống để phát triển thành công các
chủng vi sinh vật công nghiệp. Kỹ thuật trao đổi chất hệ thống khác với kỹ thuật
thông thường ở hình thức kết hợp các phương pháp kỹ thuật trao đổi chất truyền
thống cùng với các công cụ của các lĩnh vực khác, như sinh học hệ thống, sinh học
tổng hợp và tiến hóa phân tử.
Số lượng công ty có khả năng sản xuất một hoặc nhiều chuyên ngành có thể rất
nhiều, tuy nhiên, chỉ số ít có khả năng kết hợp các chuyên ngành đó vào một quy
trình sản xuất. Trong một lĩnh vực công nghệ sinh học cụ thể và các lĩnh vực công
nghệ sinh học khác, cần có sự hợp tác hiệu quả hơn giữa các học viện và các công ty
công nghệ sinh học công nghiệp, và chuyển giao kiến thức nhanh hơn giữa khu vực
công và tư.
Xử lý sinh học hợp nhất: nhu cầu tiếp tục tài trợ cho R&D công
Trong phương pháp xử lý sinh học hợp nhất (CBP), các hoạt động thủy phân
(ligno) cellulose của enzyme được thực hiện dựa trên kết hợp với máy móc để tạo ra
các sản phẩm nền tảng sinh học nhờ một chất xúc tác sinh học vi khuẩn duy nhất. Bộ
Năng lượng Hoa Kỳ tán thành quan điểm rằng công nghệ CBP được coi là cấu hình
chi phí thấp cuối cùng cho quá trình thủy phân và lên men cellulose. Áp dụng hiệu
quả CBP trong thực tế là một nỗ lực của sinh học kỹ thuật để tạo ra chức năng chính
xác nhưng cũng để cải thiện chức năng của chất xúc tác sinh học để sử dụng trong
quy trình công nghiệp. Trong số các công nghệ xử lý sinh học khác nhau, CBP được
đánh giá là phương pháp kinh tế nhất về lâu dài, nhưng năng suất vẫn chưa đủ và
cần phải tiếp tục nhận được tài trợ nghiên cứu để đưa vào hoạt động.
Độ tin cậy, khả năng tái sản xuất và tiêu chuẩn hóa
Các khái niệm như khả năng tương tác, tách thiết kế khỏi sản xuất, tiêu chuẩn
hóa các bộ phận và hệ thống, tất cả đều được coi là nội dung trung tâm của các
ngành kỹ thuật, phần lớn không xuất hiện trong lĩnh vực công nghệ sinh học. Các
tiêu chuẩn cho phép tách rời thiết kế khỏi sản xuất, tách khỏi lắp ráp, triển khai là
một khái niệm thiết yếu trong kỹ thuật, giúp hạn chế khả năng không thể tái lập các
kết quả, điều luôn tồn tại trong sinh học và công nghệ sinh học. Tóm lại, việc áp
dụng các tiêu chuẩn tạo điều kiện cho khả năng mở rộng, tái lập và khả năng dự
39
đoán của một lĩnh vực kỹ thuật mà sinh học kỹ thuật đang cần. Để vượt qua những
rào cản lớn như vậy đòi hỏi sự hợp tác công và tư, có thể được tạo điều kiện bởi các
chương trình R&D chung.
Tự động hóa nghiên cứu công nghệ sinh học và thư viện ADN công
Để đạt được các mục tiêu về độ tin cậy, khả năng tái lập, tiêu chuẩn hóa ngày
càng đòi hỏi tự động hóa các giao thức và luồng công việc trong nghiên cứu công
nghệ sinh học nếu sinh học kỹ thuật bước vào kỷ nguyên định lượng. Thiết kế hỗ trợ
máy tính với tính năng tự động hóa sẽ dẫn đến khả năng đạt được quy mô chưa từng
có. Hình thức tự động hóa sẽ cho phép các nhà nghiên cứu dành nhiều thời gian hơn
cho thiết kế thử nghiệm thay vì thực hiện thử nghiệm.
Hoạt động phòng thí nghiệm bổ sung là việc tiếp cận dữ liệu và ADN thông
qua các thư viện ADN tập trung có thể được truy cập bằng các ứng dụng nền tảng
điện toán đám mây. Khái niệm này có nghĩa là cho phép nhiều tế bào hoạt động độc
lập với chi phí thấp trong nhiều tổ chức, nhưng với quyền truy cập đám mây vào các
thư viện ADN để thực hiện các quy trình thử nghiệm phức tạp vượt quá khả năng
của hầu hết các tổ chức.
6.6. Một sân chơi bình đẳng
Những phản đối trợ cấp đối với bất kỳ loại hình công nghệ non trẻ nào nhằm
mục tiêu giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu có thể dựa trên sự bóp méothị
trường do trợ cấp gây ra. Tuy nhiên, không có thứ gọi là “sân chơi bình đẳng” giữa
các ngành công nghiệp nhiên liệu hóa thạch và bất kỳ ngành công nghiệp xanh nào.
Ngành công nghiệp nhiên liệu hóa thạch đã tồn tại trong suốt hơn một thế kỷ và trợ
cấp cho nhiên liệu hóa thạch vẫn còn ở mức khá cao. Hằng năm, những khoản trợ
cấp này liên tục tăng lên tới hàng trăm tỷ đô la.
Việc áp dụng giá cacbon và thuế cacbon có vẻ như là những giải pháp hợp lý
để tăng số tiền tài trợ cần thiết cho các đóng góp công của các dự án đó. Mục đích
của khung chính sách định giá cacbon sẽ là gửi đi các tín hiệu giá rõ ràng và đáng tin
cậy thúc đẩy quá trình chuyển đổi cacbon thấp trong trung hạn và dài hạn. Giá
cacbon rõ ràng có thể được định giá thông qua thuế cacbon, được biểu thị bằng giá
cố định cho mỗi tấn khí thải, hoặc thông qua các hệ thống mua bán phát thải, trong
đó, mục tiêu giảm phát thải được đặt ra thông qua việc cấp một số giấy phép cố
định, giá được thiết lập trên thị trường thông qua cung và cầu. Định giá khí thải
cacbon thông qua thuế cacbon sẽ là một động lực mạnh mẽ để đầu tư vào các công
nghệ sạch hơn và áp dụng các quy trình công nghiệp xanh hơn như mục tiêu lĩnh
vực sinh học kỹ thuật đã cam kết. Phát thải nên được tính ở mức giá bằng với giá trị
40
tiền tệ của thiệt hại do khí thải gây ra. Điều này sẽ dẫn đến lượng phát thải CO2 tối
ưu (hiệu quả) về mặt kinh tế. Tuy nhiên, thỏa thuận về mức giá của thiệt hại vẫn khó
nắm bắt.
Loại bỏ trợ cấp nhiên liệu hóa thạch và định giá thiệt hại môi trường của các
ngành công nghiệp đó sẽ tạo ra một cục diện hoàn toàn khác về kinh tế học, và sẽ
khiến cho lập luận chống lại các ngành công nghiệp sinh học xanh, bền vững trở nên
ít thuyết phục hơn.
6.7. Các quy định, tiêu chuẩn và nhãn cho các sản phẩm dựa trên sinh
học liên quan đến hiệu quả tài nguyên
Cách tiếp cận các quy định và tiêu chuẩn cũng có thể là một công cụ để tạo ra
thị trường, ví dụ như thông qua đăng ký sản phẩm và đánh giá vòng đời. Một giải
pháp để xử lý sinh học chất thải để thu được kết quả ở đây là áp dụng chứng nhận
bền vững hợp lý, hài hòa, trong đó, hiện tại khu vực này là một sự kết nối của các dự
án tự nguyện khó hiểu và thiếu độ tin cậy của khả năng thực thi.
Các quy định điều chỉnh việc sử dụng sinh khối, đặc biệt là sử dụng phân tầng,
trong các lĩnh vực ứng dụng khác nhau giữa các ngành và ở cấp độ quốc gia và quốc
tế. Điều này có thể cản trở đầu tư vào các cơ sở mới và R&D vào các sản phẩm và
ứng dụng mới. Thách thức cụ thể trở nên tăng gấp đôi.
Đầu tiên, cần tăng cường sử dụng các công cụ, đặc biệt là các tiêu chuẩn
chung, hạn chế sự hình thành của các rào cản thương mại đối với các sản phẩm nền
tảng sinh học giữa các chuỗi giá trị và mở rộng tiềm năng thị trường.
Thứ hai, các rào cản quy định cản trở đầu tư vào các chuỗi giá trị, sản phẩm và
ứng dụng hiện có trong các lĩnh vực, phải được loại bỏ và ưu tiên thiết lập một sân
chơi bình đẳng cho các sản phẩm nền tảng sinh học.
Tiêu chuẩn cho các sản phẩm sinh học ở cấp quốc tế (ví dụ: về hàm lượng nền
tảng sinh học, khả năng phân hủy sinh học, tính bền vững và chức năng) sẽ đảm bảo
tính nhất quán giữa các ngành. Các tiêu chuẩn đóng vai trò trung tâm để phát triển
nhãn hiệu cho các sản phẩm nền tảng sinh học. Để trở nên dễ so sánh và củng cố
mức độ tin cậy, các đánh giá bền vững cho các sản phẩm sinh học cần phải được
chuẩn hóa và chứng nhận. Các tiêu chí bền vững cho các sản phẩm sinh học và
nhiên liệu sinh học phải tương đương và tính đến các yếu tố như tính toán phát thải
GHG và các tiêu chí để sản xuất sinh khối bền vững.
Theo cách tương tự mà Chương trình Tiêu chuẩn Nhiên liệu Tái tạo (RFS) đặt
ra các tiêu chuẩn tiết giảm phát thải GHG cùng với các quy định về thể tích đối với
nhiên liệu sinh học, các mục tiêu môi trường đối với các vật liệu sinh học trở nên
khả quan. Điều này có thể hiệu quả trong việc không chỉ khuyến khích sự phát triển
41
của nhựa sinh học hiệu quả nhất mà còn ngăn cản sự đầu tư sớm vào nhựa sinh học
với hiệu suất môi trường kém hơn. Narayan và Patel (2003) đã nỗ lực xác định các
mục tiêu như vậy: họ khuyến nghị rằng, so với các lĩnh vực thông thường,
biopolyme và vật liệu tổng hợp sợi tự nhiên sẽ:
• Tiết kiệm ít nhất 20 năng lượng MJ (không tái tạo) mỗi kg polymer;
• Tránh ít nhất 1 kg CO2 mỗi kg polymer;
• Giảm hầu hết các tác động môi trường khác ít nhất 20%.
Việc ghi nhãn có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc thương mại hóa
các sản phẩm sinh học, cung cấp cho người tiêu dùng thông tin rõ ràng về hiệu suất
môi trường của sản phẩm và hướng dẫn hành vi mua hàng đối với các lựa chọn bền
vững. Nhãn có thể rất quan trọng cho sự thu hút của các sản phẩm sinh học bằng
hình thức mua sắm công xanh. Theo quan điểm về sự phổ biến của các chương trình
ghi nhãn quốc gia và quốc tế, có thể đạt được những lợi ích bằng cách kết hợp các
sản phẩm sinh học với một chương trình hiện có thành công mà có cách tiếp cận hài
hòa và chuẩn hóa.
Xem xét nhựa sinh học trong chiến lược tương lai xử lý chất thải nhựa
Nhựa sinh học mở ra con đường phát triển nền kinh tế nhựa tuần hoàn, bền
vững bằng cách sử dụng các nguyên liệu thay thế và cung cấp phạm vi rộng hơn về
các lựa chọn cuối đời cho các sản phẩm nhựa. Tuy nhiên, đề xuất Chiến lược Nhựa
của EU không đưa ra các biện pháp lập pháp cụ thể để tận dụng lợi ích của nhựa
sinh học. Hiệp hội Nhựa sinh học châu Âu đã phác thảo một loạt các biện pháp và
hành động lập pháp tiềm năng cho phép nhựa sinh học thực hiện tiềm năng của
chúng trong nền kinh tế nhựa đang phát triển phải giải quyết các vấn đề nghiêm
trọng mà rác thải nhựa đang tạo ra. Mặc dù các biện pháp này liên quan đến EU,
nhưng chúng có thể có giá trị như nhau ở các quốc gia đang ở trong thế tiến thoái
lưỡng nan về quản lý xử lý chất thải nhựa (thực tế là tất cả các quốc gia thành viên
OECD và nhiều quốc gia khác).
- Xác định tiêu chí áp dụng, trong đó, nhựa phân hủy sinh học phù hợp hơn
nhựa thông thường
- Thúc đẩy việc sử dụng các vật liệu phân hủy sinh học, dựa trên sinh học để
sản xuất bao bì
- Xác định tiêu chí bền vững nguyên liệu cho nhựa sinh học
- Đảm bảo tiêu chí bền vững cho nguyên liệu nhựa dựa trên sân chơi bình đẳng
với nhựa dựa trên hóa thạch
42
- Tuân theo các quy tắc mới, hài hòa để đảm bảo rằng, 10% tất cả các vật liệu
bao bì nhựa được đưa vào thị trường EU là vật liệu dựa trên sinh học
- Tuân theo các quy tắc mới, hài hòa để đảm bảo rằng, một loạt các bao bì
nhựa có tiếp xúc với thực phẩm (đặc biệt là thực phẩm dễ hỏng) hoặc được sử dụng
để thu gom chất thải sinh học có thể được tái chế hữu cơ
- Hạn chế sử dụng nhựa “tự phân hủy oxo”
- Xem xét việc thực hiện các quy tắc, định nghĩa và nhãn hài hòa hiện có đối
với nhựa có thể phân hủy công nghiệp.
Nhựa sinh học bền thay thế nên được xử lý theo chính sách giống như đối với
nhựa hóa thạch miễn là chúng đáp ứng các tiêu chí bền vững, bao gồm giảm phát
thải và giảm năng lượng hóa thạch chính.
Cải thiện hiệu quả tài nguyên là điều cần thiết để đáp ứng SDGs
Trong số 17 mục tiêu phát triển bền vững (SDGs), 12 mục tiêu phụ thuộc trực
tiếp vào việc quản lý toàn diện nền kinh tế bền vững của toàn bộ các nguồn tài
nguyên thiên nhiên. Ít nhất một nửa số mục tiêu phát triển bền vững có thể được giải
quyết bằng cách sử dụng công nghệ sinh học và kinh tế sinh học. Có thể lập luận
rằng hiệu suất tài nguyên và kinh tế sinh học có chung ít nhất là 9 trong số 17 các
mục tiêu phát triển bền vững này (2,3,6,7,9,12,13,14,15). Nói cách khác, công nghệ
sinh học cực kỳ hiệu quả về tài nguyên có thể giải quyết 9 mục tiêu này. Chỉ trong
CBE, lợi ích do hiệu suất tài nguyên sinh học mang lại mới đạt mức cao nhất.
Cải thiện hiệu suất tài nguyên là không thể thiếu để đáp ứng các mục tiêu biến
đổi khí hậu
Có những ưu điểm và nhược điểm của việc áp dụng công nghệ sinh học vào
giảm thiểu biến đổi khí hậu. Nhiều bằng chứng cho thấy rằng sản xuất dựa trên sinh
học để thay thế sản xuất dựa trên hóa thạch có thể tiết giảm phát thải. Tuy nhiên,
việc điều chỉnh chính sách nên được xem xét vì nội dung chính sách quan trọng
trong lĩnh vực này hướng vào năng lượng, vì lý do hợp lý rằng nhiên liệu lỏng góp
phần nhiều cho sự gia tăng phát thải, đốt than để lấy năng lượng cũng vậy. Việc góp
phần vào phát thải của ngành công nghiệp hóa chất và vật liệu là không đáng kể, và
ở đây sản xuất dựa trên sinh học không chỉ giúp tiết giảm phát thải mà còn có đóng
góp lớn hơn vào giá trị gia tăng và tạo việc làm.
Những công nghệ sinh học này có thể được coi là công nghệ sinh học môi
trường, tuy mang lại lợi ích thiết yếu, nhưng cũng góp phần gia tăng phát thải. Xử lý
nước thải sinh học hiếu khí tuy tạo ra GHG nhưng cũng thực hiện nhiệm vụ lọc
nước thải thiết yếu, và nghiên cứu đang hướng tới giảm lượng phát thải này. Xử lý
43
nước thải đô thị chiếm khoảng 3% lượng điện tiêu thụ toàn cầu và 5% lượng khí thải
GHG không CO2, chủ yếu là khí mêtan từ quá trình phân hủy kỵ khí. Tương tự phân
hủy chất thải hữu cơ rắn là công nghệ sinh học tuần hoàn đã tồn tại trong một thời
gian dài nhưng tạo ra lượng phát thải, có phạm vi để cải thiện.
Các công nghệ sinh học môi trường này thiếu các biện pháp kiểm soát quá
trình, mặc dù được áp dụng ở quy mô rất lớn (triển khai quy mô lớn nhất trong tất cả
các công nghệ sinh học). Chính sách trợ cấp R&D có thể tập trung vào việc cung
cấp hệ gen/công cụ kỹ thuật số giúp các công nghệ này trở nên dễ đoán hơn. Xử lý ô
nhiễm môi trường bằng phương pháp sinh học là một ví dụ điển hình của công nghệ
sinh học môi trường toàn diện, chưa được tận dụng vì thiếu biện pháp kiểm soát quá
trình, mặc dù được coi là công nghệ khắc phục bền vững. Yêu cầu cấp thiết là phải
trang bị cho các học viên chuyên ngành xử lý sinh học một bộ các kỹ thuật tổng hợp
(omics) để chứng minh cơ sở khoa học chân chính giúp củng cố quá trình và cải
thiện khả năng dự đoán.
Mặc dù vẫn dựa trên nghiên cứu, bằng chứng đối với các hệ thống và phương
pháp sinh học tổng hợp phi tế bào để xử lý sinh học các chất ô nhiễm tái sinh từ đất
vẫn đang được tìm kiếm và chứng minh một cách cụ thể. Cách tiếp cận này có lẽ chỉ
hợp lý trong trường hợp đối với các chất ô nhiễm bền vững, cùng với đó là những
quan ngại về vấn đề an toàn liên quan đến việc giải phóng các sinh vật biến đổi gen
vào môi trường. Phương pháp sinh học tổng hợp phi tế bào có thể giúp giải quyết
được vấn đề này bằng cách cho phép triển khai mạng lưới gen và quá trình trao đổi
chất mà không gây nguy cơ sao chép và lan truyền các chủng vi khuẩn mới trong tự
nhiên. Đánh giá rủi ro dựa trên cơ sở khoa học đang diễn ra nên là một ưu tiên chính
sách.
Giải pháp sử dụng tài nguyên hiệu quả
Mô hình được thực hiện cho UNEP nhận thấy rằng hiệu suất tài nguyên kết
hợp với chính sách khí hậu có thể giảm 28% mức sử dụng tài nguyên toàn cầu so với
các xu hướng hiện tại, đồng thời, giảm phát thải nhà kính và tăng thu nhập và thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Kinh tế sinh học cung cấp các cơ hội như vậy cần được xem
xét kỹ lưỡng từng trường hợp thông qua sử dụng phương pháp tiêu chuẩn hóa. Dữ
liệu cho CBE hiệu suất tài nguyên vẫn cần phải được thu thập.
Cân bằng giữa chính sách đầu vào và đầu ra
Một chiến lược chính sách chủ yếu dựa vào phía đầu ra của chu trình vật liệu
và năng lượng có thể sẽ thất bại trong việc mang lại những thay đổi môi trường cần
thiết và đáp ứng mong muốn. Hệ quả là sự giảm đáng kể ở phía đầu vào thông qua
44
sự gia tăng đáng kể hiệu suất năng lượng và tài nguyên có thể là cần thiết để hạn chế
ảnh hưởng nghiêm trọng của các vấn đề môi trường do ngưỡng hệ sinh thái.
Kết luận
Việc sử dụng sinh khối làm tài nguyên là một giao điểm quan trọng giữa nền
kinh tế sinh học và nền kinh tế tuần hoàn. Trước những lo ngại về việc sử dụng các
nguồn thực phẩm, đã có một sự thúc đẩy mang tính toàn cầu đối với các nguồn sinh
khối phi thực phẩm, tạo thành nhiều nguồn 'chất thải', ' sản phẩm phụ', 'sản phẩm
phụ dư thừa', 'dư lượng', như dư lượng nông nghiệp hoặc lâm nghiệp và chất thải rắn
đô thị (MSW). Điều này cộng hưởng với khái niệm nền kinh tế tuần hoàn theo nhiều
cách:
- Nó giữ nguồn nguyên liệu trong nền kinh tế lâu hơn
- Nó khép kín các vòng chu trình nguyên liệu
- Nó làm tăng năng suất tài nguyên.
Một số tác động phù hợp với nền kinh tế tuần hoàn là giảm sự phụ thuộc vào
nguyên liệu thô và các sản phẩm mới và thay thế nguyên liệu thô thứ cấp trong sản
xuất. Đồng thời, giảm phát thải khí nhà kính (GHG) thông qua sản xuất kinh tế sinh
học (bằng cách sử dụng nguyên liệu tái tạo thay vì hóa thạch).
Tuy nhiên, có thể thấy trước một số khó khăn trong kinh tế sinh học tuần hoàn
là:
- Ở một số quốc gia, chất lượng của vật liệu là "phế thải" chứ không phải là
"nguyên liệu thứ cấp" không thể sử dụng làm nguyên liệu cho các nhà máy sinh học
- Một khó khăn được mô tả cụ thể giữa sinh khối với vai trò là nguyên liệu cho
các hóa chất và vật liệu dựa trên nền tảng sinh học và việc sử dụng nó trong các ứng
dụng năng lượng sinh học. Điều này, theo nghĩa rộng hơn, mô tả mâu thuẫn chính
sách giữa chính sách công nghiệp và môi trường
- Thị trường chất thải có thể bị phá vỡ vì một số vật liệu thải hiện đang được
tái chế, chôn lấp hoặc đốt trong tương lai có thể bị ràng buộc đối với các nhà máy
sinh học. Điều này có thể có tác động sâu sắc đến thị trường quản lý chất thải và cơ
sở hạ tầng công cộng (bởi một khoản tiền công lớn được đầu tư vào các cơ sở quản
lý chất thải).
Khái niệm cho thấy điểm cốt lõi của vấn đề là việc sử dụng sinh khối theo
tầng, ở một số quốc gia, như Đức, có mối liên hệ chiến lược chặt chẽ với các mục
tiêu của nền kinh tế tuần hoàn.
45
Sự kết năng giữa các khái niệm kinh tế sinh học và kinh tế tuần hoàn sẽ được
khai thác. Điều này sẽ cần sự kết hợp của các sáng kiến của khu vực công và tư
nhân. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều thách thức và mục tiêu chính sách để khu vực
công hành động trước, vì phần lớn những gì đã được mô tả được đánh giá là có nguy
cơ rủi ro cao đối với khu vực tư nhân thực hiện một mình.
Không thể kết luận rằng điều này thể hiện một quá trình chuyển đổi lịch sử
khác biệt với các quá trình chuyển đổi trước đó như từ sử dụng vật liệu gỗ sang than
hay than sang dầu, trong đó cần phải hành động quyết liệt và táo bạo để có thể tránh
được tác động nghiêm trọng nhất của biến đổi khí hậu, lương thực, năng lượng, an
ninh nguồn nước và cạn kiệt tài nguyên. Những chuyển đổi này đòi hỏi phải quản lý
quá trình chuyển đổi, cần đầu vào chính sách công rất rộng trong thời gian dài,
nhưng với sự hợp tác chặt chẽ của khu vực tư nhân và các bên liên quan khác cần
được khuyến khích bởi tính lâu dài của các chính sách đang được áp dụng.
Trong kế hoạch lớn của chính sách kinh tế sinh học, vai trò của đổi mới và
công nghệ sinh học thường bị bỏ qua. Nhiều mục tiêu ở nhiều cấp độ, từ phòng thí
nghiệm đến việc triên khai toàn diện, bao gồm cả thử nghiệm và trình diễn, tập trung
vào các vấn đề chính sách nghiên cứu và đổi mới (R&I).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tai_lieu_hien_thuc_hoa_nen_kinh_te_sinh_hoc_tuan_hoan.pdf