ẾT LUẬN
Đồng bằng sông Hồng là một vùng nằm quanh khu vực hạ lưu sông Hồng, với điều
kiện tự nhiên và xã hội phù hợp cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản. Trong quá
trình xây dựng nông thôn mới, vùng ĐBSH đã có nhiều xã đạt tiêu chuẩn NTM, hệ thống
điện cung cấp phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất khá đầy đủ, chất lượng hệ thống giao
thông phục vụ giao thương được nâng cấp, cơ sở hạ tầng thông tin truyền thông được tăng
cường, hệ thống kênh mương phục vụ tưới tiêu trong quá trình sản xuất sản phẩm hàng
hóa được bổ sung và hoàn thiện.
Bên cạnh đó, hệ thống tín dụng, ngân hàng từng bước được mở rộng mạng lưới hoạt
động, tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ sản xuất, chế biến tiếp cận tín dụng. Hệ thống chợ
phục vụ giao lưu hàng hóa được nâng cấp, đổi mới; các dịch vụ hỗ trợ ngày càng đa dạng
và kinh tế chuyển dịch theo chiều hướng tích cực hơn.
Trong liên kết chuỗi giá trị sản phẩm nông, lâm thủy sản ở khu vực ĐBSH các tác nhân
chính bao gồm người sản xuất là các hộ, các cơ sở và hợp tác xã; người thu gom, chế biến và
phân phối chủ yếu là các hộ, cơ sở chế biến, tổ hợp tác, hợp tác xã và doanh nghiệp. Điểm
nổi bật trong vùng là các hộ liên kết trong xây dựng cánh đồng mẫu lớn, phục vụ chuyên
môn hóa sâu trong sản xuất sản phẩm hàng hóa. Mối liên kết được thực hiện bằng hai hình
thức là ký kết hợp đồng cung cấp nguyên liệu, đầu vào và bao tiêu sản phẩm đầu ra; và hợp
đồng miệng. Số lượng các hộ, cơ sở và doanh nghiệp chế biến sản phẩm nông, lâm, thủy
sản tăng nhanh theo thời gian.
Hiệu quả của liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp trong xây dựng NTM ở khu vực ĐBSH
được thể hiện qua việc cơ cấu lại hình thức tổ chức theo hướng đa dạng hóa, liên kết theo
chuỗi giá trị, cơ cấu lại quy mô sản xuất theo hướng tăng cường quy mô hàng hóa, ruộng
đất được tích tụ thông qua khâu đột phá là dồn điền đổi thửa và xây dựng được nhiều cánh
đồng mẫu lớn để phục vụ sản xuất hàng hóa chuyên canh theo chuỗi giá trị, tạo điều kiện
cơ giới hóa và ứng dụng khoa học công nghệ thuận lợi hơn, nâng cao năng suất, chất lượng
và giá trị của sản phẩm. Chuyên đề cũng giới thiệu 3 mô hình liên kết chuỗi giá trị thành
công trên địa bàn đó là mô hình liên kết chuỗi giá trị sữa bò tươi tại huyện Lý Nhân, mô hình
liên kết sản xuất gạo sạch tại huyện Ý Yên, tỉnh Hà Nam và mô hình liên kết chuỗi giá trị thịt
lợn tại huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Từ thực trạng, chuyên đề chỉ ra một số hạn chế và nguyên
nhân cản trở việc nâng cao hiệu quả liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp trên địa bàn khu vực
ĐBSH đó là sản xuất nhỏ vẫn phổ biến, sản xuất hàng hóa chưa được chuyên môn hóa cao;
vai trò của HTX trong tăng cường và thúc liên kết chuỗi chưa thực sự hiệu quả ở nhiều nơi,
việc ứng dụng khoa học công nghệ và cơ giới hóa vẫn còn hạn chế dẫn đến hiệu quả sản
xuất nói chung còn chưa cao.
Để thúc đẩy hiệu quả liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp, rất cần sự vào cuộc và nỗ lực
của nhiều bên liên quan đến chuỗi. Chuyên đề đã đề xuất bốn nhóm giải pháp, bắt đầu từ
xuất phát điểm của chuỗi đó là giải pháp từ phía chính những người sản xuất, cho đến các
tác nhân tham gia trong chuỗi như những cơ sở thu gom, chế biến, từ các doanh nghiệp,
các hợp tác xã và ngay cả các tác nhân có tác động đến chuỗi như các tổ chức hỗ trợ kỹ
thuật, chính quyền địa phương và trung ương.
286 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu Hội nghị tổng kết Chương tình môi trường quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trọng đến chăn nuôi thâm canh để chăn
nuôi bò sữa có năng suất và sản lượng cao. Các hộ cũng đã đầu tư chăn nuôi con giống
ngoại nhập nhưng do thiếu kinh nghiệm, chăm sóc không đúng kỹ thuật, nuôi theo kinh
nghiệm nuôi bò thịt cho nên năng suất còn thấp, hiệu quả kinh tế mang lại chưa cao. Hiện
nay nhu cầu về sữa ngày càng tăng ở nội vùng, trao đổi hàng hóa giao thông thuận tiện.
Đồng thời huyện Lý Nhân lại nằm gần nhà máy sữa lớn là Dutch lady, còn nằm trong vùng
quy hoạch nuôi bò sữa của tỉnh đã tạo thuận lợi cho huyện phát triển nghề chăn nuôi bò
sữa và mở ra một hướng đi mới cho kinh tế của huyện. Với mục tiêu mở rộng quy mô chăn
nuôi, huyện đã thực hiện quy hoạch khu chăn nuôi bò sữa tập trung; mở rộng diện tích
trồng cỏ từ đất chưa sử dụng và đất trồng lúa kém hiệu quả; khuyến khích chuyển đổi một
số chăn nuôi hiệu quả kinh tế thấp sang chăn nuôi bò sữa.
Trong những năm qua có nhiều khó khăn, thử thách do giá cả thị trường không ổn
định nhưng nghề chăn nuôi bò sữa vẫn tồn tại và đã và đang mang lại thu nhập cao, ổn
định. Tuy nhiên hiện nay một số hộ đã bỏ nuôi do chi phí đắt đỏ, sản lượng sữa thấp, hiệu
quả kinh tế không cao. Tình hình biến động số lượng và sản lượng chăn nuôi bò sữa qua 3
năm của huyện được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 20 : Số lượng và sản lượng chăn nuôi bò sữa của huyện Lý Nhân
Chỉ tiêu ĐVT 2014 2015 2016
So sánh
2015/2014 2016/2015 Bình quân
Số lượng bò Con 212 424 567 200 133,73 166,87
Sản lượng
sữa/ ngày
tấn/
ngày 2,2 2,3 2,5 104,54 108,69 106,62
(Nguồn: Báo cáo kết quả phát triển chăn nuôi bò sữa huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam năm 2016)
Số lượng bò và sản lượng sữa/ngày của huyện tăng qua 3 năm: Năm 2014 số lượng bò
là 212 con, năm 2015 tăng lên 212 con với mức tăng 100%. Năm 2016 số lượng bò là 567
con, hơn 143 con so với năm 2015, mức tăng là 33,73%. Bên cạnh đó thì sản lượng sữa/ngày
cũng tăng lên một cách đáng kể. Năm 2014 sản lượng sữa trên ngày là 2,2 tấn/ngày, năm
2015 là 2,3 tấn/ngày; như vậy năm 2015 cao hơn năm 2014 là 0,1 tấn/ngày với 4,54%. Năm
2016 cũng tăng so với năm 2015 là 0,2 tấn/ngày với mức tăng là 8,69%.
TÀI LIỆU HỘI NGHỊ TỔNG KẾT
CHƯƠNG TRÌNH MTQG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN 2010 - 2020
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ BẮC TRUNG BỘ
263
Chuỗi sữa tại Lý Nhân, Hà Nam bao gồm các chức năng cơ bản là cung cấp đầu vào,
sản xuất sữa, thu gom, chế biến và phân phối sữa đến tay người tiêu dùng. Các chức năng
này được thực hiện bởi các tác nhân chính: các nhà phân phối, người chăn nuôi bò sữa,
người thu mua sữa, nhà máy sữa và các nhà phân phối sữa. Các tác nhân trong chuỗi
nằm trong vòng tròn bắt đầu từ người cung ứng đầu vào đến đại lý/siêu thị/showroom
và người bán lẻ là những người trực tiếp tạo ra giá trị và hưởng lợi từ chuỗi. Tại địa điểm
nghiên cứu, mỗi tác nhân có một vai trò cụ thể trong chuỗi và họ liên kết với nhau khá tốt
để thành một chuỗi hoàn chỉnh. Những người hỗ trợ cho sự phát triển của chuỗi là các tổ
chức, dự án phát triển, các dịch vụ thú y, khung pháp lý của Nhà nước... tạo điều kiện và
thúc đẩy chuỗi phát triển.
Có nhiều nhà cung cấp cung cấp đầu vào cho sản xuất sữa như: nhà cung cấp thức
ăn tinh, nhà cung cấp giống, nhà cung cấp máy móc thiết bị vv, tại địa điểm nghiên cứu.
Không có nhà cung cấp chủ đạo về các yếu tố đầu vào (giống bò, thức ăn chăn nuôi,
protein, vv) cho người chăn nuôi bò sữa trong khu vực. Kết quả này hoàn toàn khác so với
nghiên cứu trước đây của chúng tôi ở tỉnh Sơn La (Bùi Thị Nga, Trần Hữu Cường và Philippe
Lebailly, 2011).
Tính đến cuối tháng 2 năm 2017 khi chúng tôi bắt đầu tiến hành điều tra thử thì chỉ
có 19 hộ chăn nuôi bò sữa ở huyện Lý Nhân. Họ được coi là những nhân tố chính trong
chuỗi. Họ đóng vai trò quan trọng nhất trong chuỗi sữa. Tất cả các tác nhân khác phụ
thuộc vào hoạt động của họ. Người thu gom là người thu mua sữa từ hộ nông dân chăn
nuôi bò sữa, làm mát, bảo quản và giao cho nhà chế biến sữa, nhà phân phối sữa hoặc
khách hàng. Chỉ có một nhà thu gom sữa ở khu vực này (gọi là trạm/trung tâm thu mua)
của hộ ông Thắng. Hộ thu gom sữa làm việc độc lập mà không có quyền lực với các thành
viên khác trong chuỗi.
Tại huyện Lý Nhân, sữa sau khi được tập trung tại nhà thu gom thì được một đơn vị
duy nhất là công ty trách nhiệm hữu hạn Friesland Campina (thuộc hãng sữa Cô Gái Hà Lan)
thu mua và chế biến chủ yếu dưới dạng sữa tươi. Có khá nhiều nhà phân phối các sản phẩm
sữa nói chung, bao gồm cả sữa của nhà máy sữa Friesland campina trên địa bàn nghiên cứu.
Họ thực hiện chức năng trung gian là đưa sản phẩm từ nhà máy sữa đến tay người tiêu
dùng cuối cùng.
Kênh phân phối sữa
Theo kết quả nghiên cứu, phần lớn sữa sản xuất ra tại các hộ gia đình được chuyển
đến trạm thu mua sữa (98%). Tại đây, sữa được chuyển đến nhà máy sữa để chế biến và
đóng gói, sau đó được vận chuyển đến các cửa hàng đại lý, cửa hàng giới thiệu sản phẩm,
siêu thị. Phần lớn số sữa này sẽ được chuyển qua các đại lý cấp dưới và người bán lẻ trước
khi đến tay người tiêu dùng. Phần còn lại được chuyển trực tiếp đến tay người tiêu dùng.
Đây là kênh chính thống của nhà máy sữa.
TÀI LIỆU HỘI NGHỊ TỔNG KẾT
CHƯƠNG TRÌNH MTQG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN 2010 - 2020
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ BẮC TRUNG BỘ
264
Hình 5 : Kênh phân phối và chức năng của các tác nhân trong chuỗi sữa
Nguồn: Kết quả phỏng vấn và Thảo luận nhóm, năm 2017
Kết quả thực hiện phát triển đàn bò sữa năm 2016 của toàn tỉnh Hà Nam
Kế hoạch phát triển đàn bò của tỉnh trong năm 2016 là 5.000 con, cụ thể: Của dân là 2.630 con,
trong đó: Huyện Duy Tiên 1.690 con, Lý Nhân 550 con, Kim Bảng 320 con, Thanh Liêm 70 con; đàn
bò tại các Công ty là 2.370 con.
Tính đến ngày 20/12/2016 toàn tỉnh có 194 trang trại chăn nuôi 2.470 con bò và bê
(đạt 49,4% kế hoạch), cụ thể: Của dân là 2.233 con (đạt 85% KH); của doanh nghiệp 237 con
(đạt 10%); Sản lượng sữa hiện tại là 20 tấn/ngày (bán cho 02 nhà máy 18 tấn/ngày, tiêu thụ
ngoài 2 tấn/ngày); Tổng lượng sữa năm 2016 đạt 6.434 tấn sữa/năm, giá trị kinh tế đạt 86 tỷ
đồng/năm; Trong đó: huyện Duy Tiên có 109 hộ nuôi 1.406 con (đạt 83,2% KH), sản lượng sữa
(SLS) bán cho nhà máy 11,8 tấn/ngày; huyện Lý Nhân 23 hộ nuôi 567 con (đạt 103,1% KH),
SLS bán 2,5 tấn/ngày; huyện Kim Bảng 57 hộ nuôi 240 con (đạt 75% KH), SLS bán 02 tấn/ngày;
huyện Thanh Liêm 01 hộ nuôi 08 con (đạt 11,4% KH); Các công ty nuôi 237 con (đạt 10% KH):
(Cty Cp phát triển bò sữa nuôi 88 con; 02 trại của Công ty Friesland Campina nuôi 149 con,SLS
1,7 tấn/ngày). Số bò mua mới là 180 con (đạt 6,7% KH); số bê cái sinh ra 387 con (đạt 78%); bê
đực sinh ra 562 con; số bò và bê loại thải là 168 con (loại thải 6,8 %).
Kết quả xây dựng hạ tầng khu chăn nuôi bò sữa.
Hiện nay tỉnh có 9/15 khu quy hoạch đang xây dựng cơ sở hạ tầng, đường giao thông,
đường điện, nước sạch (đạt 60%), cụ thể: 02 khu chăn nuôi bò sữa tập trung đã đầu tư hoàn
TÀI LIỆU HỘI NGHỊ TỔNG KẾT
CHƯƠNG TRÌNH MTQG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN 2010 - 2020
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ BẮC TRUNG BỘ
265
chỉnh cơ sở hạ tầng giao thông, điện, nước (xã Nhân Bình và khu 1 xã Mộc Bắc); 07 khu
chăn nuôi tập trung đã đầu tư một phần cơ sở hạ tầng (gồm khu 2 và khu 3 xã Mộc Bắc,
xã Chuyên Ngoại, Trác Văn, Nguyên Lý, Liêm Túc, Tượng Lĩnh) còn lại 06 khu chưa được xây
dựng (gồm xã Chân Lý, Nhân Đạo, Hòa Hậu, Xuân Khê, Khả Phong, Thanh Nghị).
Kết quả quy hoạch đất trồng cây thức ăn cho bò
Toàn tỉnh có 03 xã tại 2 huyện Duy Tiên, Thanh Liêm đã chuyển đổi và quy hoạch được
76,8 ha đất để trồng cây thức ăn cho bò, cụ thể: Xã Mộc Bắc quy hoạch 03 vị trí với tổng
diện tích 64,7 ha; đã có 29,7 ha đang trồng cỏ, ngô cho bò; xã Liêm Túc quy hoạch 8,11ha và
đang trồng cỏ, ngô là 6,2 ha; xã Trác Văn 04 ha;
Do các địa phương chưa bố trí quy hoạch, chuyển đổi diện tích đất trồng cỏ phục vụ
phát triển bò sữa, vì vậy các hộ chăn nuôi phải tự chủ động thuê hoặc mua đất cho trồng
cỏ, đồng thời mua cây ngô của các hộ khác để dự trữ ủ chua cung cấp thức ăn thô xanh ổn
định cho bò vào mùa đông, do vậy dẫn đến việc các hộ đang chăn nuôi tại các khu chăn
nuôi bò sữa tập trung khó phát triển tăng quy mô đàn.
Vốn đầu tư phát triển bò sữa
Các hộ chăn nuôi của tỉnh chủ động huy động nguồn vốn tự có của gia đình và vay
Ngân hàng Nông nghiệp để xây dựng hạ tầng, chuồng trại và mua bò giống. Tính đến ngày
30/10/2016 Ngân hàng NN& PTNT chi nhánh Hà Nam đã cho 111 hộ chăn nuôi vay để mua
bò với số tiền là 35,1 tỷ đồng, cụ thể: Huyện Duy Tiên có 75 hộ vay 21,38 tỷ đồng; huyện Lý
Nhân có 19 hộ vay 12,933 tỷ đồng; huyện Kim Bảng có 17 hộ vay 0,815 tỷ đồng.
Công tác quản lý và nhân giống bò sữa
Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Hà Nam đã chỉ đạo mạng lưới dẫn tinh viên cơ
sở, thường xuyên kiểm tra, thực hiện phối giống giúp các hộ chăn nuôi; đến hết tháng
11/2016 cung cấp, hỗ trợ cho người chăn nuôi bò sữa 4.540 liều tinh, ni tơ bảo quản
và vật tư kèm theo thông qua dẫn tinh viên để phối giống cho đàn bò; kết quả số bò
có chửa là 1.419 con (đạt 91,5%); trên đàn bò Úc nhập khẩu số bò được phối giống là 175
con (cụ thể: Số bò có chửa 87 con đạt 49,7%, có 56 con đã phối giống qua kỳ đạt 32%, có 32
con chưa có chửa đạt 18,3%).
Đào tạo tập huấn cho nông dân:
Năm 2016, tỉnh đã tổ chức 04 lớp tập huấn nâng cao kiến thức cho 200 lượt người
chăn nuôi bò sữa tại 04 huyện Duy Tiên, Lý Nhân, Kim Bảng và Thanh Liêm với các nội
dung: Quy trình vắt sữa; Kỹ thuật ủ chua, bảo quản và kế hoạch phát triển đồng cỏ;
phòng bệnh cho bò sữa
Công tác tiêm phòng, chống dịch cho đàn bò sữa
Để chủ động đối phó với dịch bệnh giúp người chăn nuôi yên tâm tăng đàn, Chi cục
TÀI LIỆU HỘI NGHỊ TỔNG KẾT
CHƯƠNG TRÌNH MTQG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN 2010 - 2020
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ BẮC TRUNG BỘ
266
Chăn nuôi và Thú y của tỉnh đã phân công cán bộ chuyên môn, 04 Trạm Chăn nuôi và Thú y
huyện, cán bộ Thú y cơ sở tại các xã có chăn nuôi bò sữa thường xuyên tổ chức tiêm phòng, tư
vấn, theo dõi, giám sát chặt chẽ tình hình dịch bệnh trên đàn bò. Kết chức tiêm phòng được
2.616 liều vắc xin LMLM và 1.949 liều vắc xin Tụ huyết trùng cho đàn bò; ngoài ra Chi cục còn
hướng dẫn phác đồ điều trị, tư vấn chế độ chăm sóc nuôi dưỡng đối và giám sát tiêm dự phòng
bệnh ký sinh trùng đường máu (Theileria orientalis subtype Ideka) của Công ty Cổ phần phát
triển bò sữa Hà Nam nhập về từ Australia bước đầu đạt hiệu quả cao.Kết quả tiêu thụ sữa
Trên địa bàn tỉnh có 2 công ty trực tiếp ký hợp đồng thu mua toàn bộ 100% lượng
sữa tươi cho nông dân, cụ thể: Công ty sữa Vinamink có 03 trạm thu mua tại các xã Mộc
Bắc, Chuyên Ngoại huyện Duy Tiên và thị trấn Ba Sao huyện Kim Bảng; hợp đồng thu mua
cho 135 hộ, sản lượng 10,3 tấn sữa/ngày (bằng 51,5 %); giá mua 14.000 đồng/kg; Công ty
Friesland Campina Hà Nam có 02 trạm thu mua tại xã Mộc Bắc và xã Nhân Bình, hợp đồng
thu mua cho 55 hộ, sản lượng 7,7 tấn sữa/ngày (bằng 38,5 %) giá mua 12.300 đồng/kg. Sữa
sử dụng cho bê và bán ra ngoài là khoảng: 2 tấn/ngày (bằng 10 %).
Kết quả thực hiện hỗ trợ cho nông dân năm 2016
Tỉnh đã hỗ trợ lãi suất mua bò là 127 con với số tiền 601,383 triệu đồng (huyện Lý Nhân 06
hộ, mua 83 con, số tiền hỗ trợ 415 triệu đồng; huyện Duy Tiên 08 hộ, mua 44 con, số tiền 186,383
triệu đồng); Hỗ trợ mua máy thái cỏ cho 40 hộ là 120 triệu đồng (huyện Duy tiên 34 hộ/ số
tiền 102 triệu đồng, huyện Lý nhân 06 hộ/ số tiền 18 triệu đồng); Hỗ trợ lắp đặt đường ống
nước sạch cho 03 khu: 2.231,649 triệu đồng (gồm Mộc Bắc, Nguyên Lý , Liêm Túc); Hỗ trợ
tiêm phòng bệnh LMLM cho 100% số bò sữa tại các kỳ tiêm phòng; (theo Kế hoạch phòng
dịch bệnh gia súc, gia cầm được phê duyệt hàng năm); Hỗ trợ rủi ro cho 09 con bò sữa mua
từ Úc: 360 triệu đồng (Nhà nước 225 triệu, Công ty 135 triệu); Tổ chức nghiệm thu và đã hỗ
trợ cho 03 trạm thu mua sữa nâng cấp mới thiết bị bồn Cif bảo quản sữa khép kín với tổng
số tiền hỗ trợ là 1.346,4 triệu đồng (Huyện Duy Tiên 02 trạm với số tiền là 968 triệu đồng,
Kim Bảng 01 trạm với số tiền là 378,4 triệu đồng).
UBND tỉnh có QĐ số 2070/QĐ-UBND ngày 20/12/2016 quyết định hỗ trợ kinh phí cho
45 hộ chăn nuôi trong khu quy hoạch tại 2 huyện Duy Tiên và Lý Nhân xây dựng hầm
Biogaz, với số tiền 436,74 triệu đồng (Duy Tiên 29 hộ, 276,74 triệu đồng; Lý Nhân 16 hộ, 160
triệu đồng);
5.2 Mô hình chuỗi giá trị lợn thịt tại Chương Mỹ, Hà Nội
Chức năng của chuỗi bao gồm các khâu từ cung ứng đến phân phối thực hiện cách
hoạt động trong chuỗi. Các tác nhân trong chuỗi nằm trong vòng tròn bắt đầu từ người
cung ứng đầu vào đến đại lý/siêu thị/showroom và người bán lẻ là những người trực tiếp
tạo ra giá trị và hưởng lợi từ chuỗi. Những người hỗ trợ cho sự phát triển của chuỗi là các tổ
chức, dự án phát triển, các dịch vụ thú y Khung pháp lý của Nhà nước tạo điều kiện cho
chuỗi phát triển.
TÀI LIỆU HỘI NGHỊ TỔNG KẾT
CHƯƠNG TRÌNH MTQG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN 2010 - 2020
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ BẮC TRUNG BỘ
267
Kênh phân phối sản phẩm thịt lợn của chuỗi
Theo nghiên cứu, có 78,4% lượng thịt hơi xuất chuồng được tiêu thụ trong huyện,
trong đó có 62,6% lượng thịt được tiêu thụ ở dạng thịt tươi được người tiêu dùng mua về
để chế biến trong các bữa ăn hằng ngày. Có 15,8% lượng thịt được bán cho các hộ chế biến
để dùng vào chế biến giò, chả, ruốc, thịt muối chủ yếu là các phần thịt ngon như thịt mông,
thịt thăn có giá trị dinh dưỡng cao. Lượng thịt còn lại được tiêu thụ tại các thị trường ngoài
huyện. Tỉ lệ này khá thấp đối với một huyện gần các trung tâm thương mại lớn như Hà Nội,
Hà Đông, Sơn Tây.
Hình 6 : Kênh phân phối và chức năng của các tác nhân trong chuỗi thịt lợn
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu điều tra
Điều kiện kinh doanh và mối quan hệ của các tác nhân là cơ chế để hình thành giá.
Qua nghiên cứu chuỗi giá trị lợn thịt, chúng tôi lựa chọn 4 kênh cung ứng chính trong toàn
bộ chuỗi giá trị ngành hàng. Mục tiêu phân tích theo kênh là giúp nhìn nhận chính xác hơn sự
phân chia lợi nhuận giữa các tác nhân trong chuỗi.
Giá bán lợn hơi của người chăn nuôi trong các kênh có sự khác nhau. Sản phẩm trong
kênh 1 chủ yếu là lợn lai, nuôi trong các hộ gia đình, qui mô chăn nuôi nhỏ, chất lượng lợn
không cao và đồng đều bằng lợn nuôi trong trại nên giá lợn hơi trong kênh 1 thấp hơn hai
kênh còn lại. Các trang trại nuôi qui mô lớn, đầu tư chuồng trại hiện đại có khả năng nuôi
lợn ngoại, chất lượng lợn cao và đồng đều, số lượng lớn, có mối làm ăn lâu dài với những
người mua buôn hoặc người thu gom, nên có thể bán được giá cao hơn người nuôi nhỏ lẻ.
Trong phạm vi không gian nhỏ thì giá bán lẻ thịt lợn cũng là giá chung cho cả nhóm
người bán lẻ. Do vậy, mua thịt của người chuyên bán lẻ hay người giết mổ tham gia bán lẻ
thì giá người tiêu dùng phải trả là như nhau.
TÀI LIỆU HỘI NGHỊ TỔNG KẾT
CHƯƠNG TRÌNH MTQG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN 2010 - 2020
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ BẮC TRUNG BỘ
268
Hình 7 : Phân phối trên chuỗi giá trị thịt lợn (tính trên 100 kg thịt lợn hơi)
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu điều tra
Kênh I là kênh ngắn nhất, sản phẩm từ người chăn nuôi qua hoạt động của hộ giết
mổ kiêm bán lẻ đến tay người tiêu dùng. Tại kênh này người giết mổ đồng thời là người
bán lẻ nên lợi nhuận của họ gồm lợi nhuận của hoạt động giết mổ và của hoạt động bán
lẻ. Kênh này chiếm khoảng 20% sản lượng của ngành hàng. Tổng giá trị gia tăng được tạo
ra trong kênh 1 (tính bình quân cho 100 kg lợn hơi) cũng là thấp nhất (495,36 nghìn đồng),
giá trị gia tăng của người chăn nuôi (201,95 nghìn đồng) thấp hơn ở hai kênh còn lại (226,03
nghìn đồng).
Kênh II bao gồm 3 tác nhân tham gia chuỗi cung ứng gồm người sản xuất, người giết
mổ bán buôn và người bán lẻ. Đây là kênh cung ứng chính, chiếm đa số sản lượng thịt tiêu
thụ trong chuỗi. Tổng giá trị gia tăng được tạo ra (tính bình quân cho 100 kg lợn hơi) trong
kênh 2 là 518,09 nghìn đồng.
TÀI LIỆU HỘI NGHỊ TỔNG KẾT
CHƯƠNG TRÌNH MTQG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN 2010 - 2020
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ BẮC TRUNG BỘ
269
Kênh III có sự tham gia của người chế biến, làm cho tổng giá trị gia tăng của chuỗi
tăng lên (671,55 nghìn đồng), cao nhất trong các kênh nghiên cứu.
Ta thấy có sự thay đổi về giá bán cuối cùng của thịt lợn qua từng kênh hàng. Tại kênh
1, kênh tiêu thụ có ít tác nhân tham gia nhất, giá bán cuối cùng mà người tiêu dùng phải
trả là 2.986,26 nghìn đồng, chi phí trung gian là 2.490,9 nghìn đồng và tạo ra 495,36 nghìn
đồng giá trị gia tăng. Xét theo góc độ của người tiêu dùng thì chi phí mua hàng ở kênh 1 là
thấp nhất, nên kênh 1 có hiệu quả về chi phí.
Tại kênh 2, có đông tác nhân tham gia, hoạt động được chuyên môn hóa cao hơn, quy
mô hoạt động lớn hơn, khả năng đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng tốt hơn, và người
tiêu dùng có thể mua được sản phẩm chất lượng cao hơn từ kênh này, chi phí phải trả là cao
hơn. Kênh 2 có hiệu quả phân phối.
Tại kênh 3, sản phẩm có sự thay đổi về chất khi một phần thịt được chế biến thành giò
trả, làm cho tổng giá trị của chuỗi tăng lên, giá trị gia tăng của chuỗi theo kênh này là lớn
nhất. Sản phẩm của kênh 3 đã tiến gần hơn đến bữa ăn của người tiêu dùng. Tuy hiện nay
lượng sản phẩm tiêu thụ qua kênh này còn ít, nhưng kênh 3 rất giàu tiềm năng phát triển
trong tương lai.
5.3 Mô hình liên kết chuỗi giá trị gạo sạch tại huyện Ý Yên, tỉnh Hà Nam
Nghiên cứu điển hình
Hiệu quả từ mô hình theo chuỗi liên kết sản xuất gạo sạch của công ty TNHH
Toản Xuân trên địa bàn huyện Ý Yên
Cập nhật lúc 16:0, ngày 28/12/2018 (GMT+7)
Công ty TNHH Toản Xuân xã Yên Lương huyện Ý Yên là một trong những doanh
nghiệp đầu tiên của tỉnh Nam Định đầu tư xây dựng thành công mô hình liên kết
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm lúa gạo an toàn. Ông Trần Quốc Toản - Chủ tịch HĐQT
kiêm Giám đốc công ty TNHH Toản Xuân cho biết, ông luôn khao khát có được sản
phẩm nông nghiệp sạch để giới thiệu đến người tiêu dùng. Được sự hỗ trợ của Sở
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Nam Định, công ty đã đàm phán và ký hợp
đồng xây dựng chuỗi liên kết với gần 15 HTX và 1.000 hộ nông dân trên địa bàn tỉnh
tập trung ở các huyện Nam Trực, Ý Yên, Hải Hậu, Nghĩa Hưng, Giao Thủy với diện tích
trên 1.000ha lúa chất lượng cao. Tại Ý Yên, công ty đã ký kết hợp đồng liên kết với 8 xã
là Yên Lộc, Yên Minh, Yên Dương, Yên Thắng, Yên Đồng, Yên Cường, Yên Ninh và Yên
Trung. Các cơ sở được ký kết cùng sản xuất một giống lúa chất lượng là Bắc thơm số
7. Để xây dựng sản xuất theo chuỗi giá trị, Hội Nông dân các xã đã phối hợp với Ban
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức các buổi tuyên truyền, vận động các
hộ nông nghiệp tham gia. Công ty cử cán bộ về tư vấn với cam kết đầu tư toàn bộ từ
TÀI LIỆU HỘI NGHỊ TỔNG KẾT
CHƯƠNG TRÌNH MTQG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN 2010 - 2020
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ BẮC TRUNG BỘ
270
khâu chọn giống, vật tư nông nghiệp và bao tiêu sản phẩm. Các thành viên chỉ thêm
công chăm sóc theo đúng quy trình, hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật do công ty cử
về cùng bám đồng, bám ruộng với hội viên nông dân. Như vậy, nông dân có ruộng
yên tâm vì sản phẩm đầu ra đã có Công ty chịu trách nhiệm; giá trị sản phẩm lại cao
hơn với giá thị trường từ 5 - 7%. Ngoài ra, Công ty thường xuyên phối hợp với Hội
Nông dân tổ chức nhiều buổi tọa đàm giữa doanh nghiệp và nông dân. Tại đây, nông
dân được nghe các chuyên gia nông nghiệp hướng dẫn cách giám sát quá trình sinh
trưởng của cây lúa. Thông qua những buổi tọa đàm, người nông dân có cơ hội chia sẻ
những kinh nghiệm thực tiễn.
Quy trình sản xuất lúa gạo sạch công ty TNHH Toản Xuân
Sự kết hợp giữa công ty TNHH Toản Xuân với nông dân giúp chuyên nghiệp
hóa quy trình sản xuất, tới giai đoạn thu hoạch, đảm bảo sản phẩm đầu ra có chất
lượng tốt nhất. Công ty hỗ trợ hoàn toàn về nguyên liệu đầu vào như hạt giống, phân
bón, thuốc bảo vệ thực vật... Trên cơ sở hướng dẫn và theo dõi kiểm tra của Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, công ty xây dựng quy trình sản xuất lúa sạch theo
từng giai đoạn. Hạt giống chất lượng do Trung tâm Giống cây trồng Nam Định cung
cấp. Phân bón và thuốc trừ sâu do công ty lựa chọn, ưu tiên sử dụng các loại phân
bón hữu cơ và thuốc bảo vệ thực vật sinh học. Trong quá trình gieo trồng và chăm sóc
cây lúa, các chuyên gia, kỹ sư nông nghiệp của công ty trực tiếp xuống địa phương để
hướng dẫn. Hộ nông dân tổ chức thu hoạch lúa bằng máy gặt đập liên hợp, vừa giảm
được chi phí gặt thủ công, vừa hạn chế được việc rơi vãi thóc. Sau khi thu hoạch, công
ty đến tận ruộng để thu mua thóc tươi và trong vòng 3-5 giờ, thóc phải đưa vào lò sấy
để vitamin trong hạt lúa không bị phân hủy. Trên cơ sở xây dựng chuỗi liên kết, Công
ty TNHH Toản Xuân đã đầu tư xây dựng nhà xưởng, kho hàng khép kín, đảm bảo tiêu
chuẩn gạo sạch để bảo quản sản phẩm. Hiện công ty đã đầu tư và đưa vào vận hành
TÀI LIỆU HỘI NGHỊ TỔNG KẾT
CHƯƠNG TRÌNH MTQG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN 2010 - 2020
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ BẮC TRUNG BỘ
271
lò sấy công suất lớn, cùng dây chuyền xay xát gạo công nghệ hiện đại. Gạo sản xuất
đến đâu sẽ đóng gói tới đó theo đơn đặt hàng.
Trên mỗi bao bì đều in đầy đủ ngày sản xuất và hạn sử dụng. Đặc biệt, bên góc
trái túi gạo được Công ty in sẵn tem QRC màu xanh, đây là tem truy xuất nguồn gốc
bằng điện thoại thông minh để người tiêu dùng có đầy đủ thông tin khi mua sản
phẩm, tránh mua phải hàng giả, hàng kém chất lượng. Hiện sản phẩm gạo sạch của
Công ty TNHH Toản Xuân đang được tiêu thụ tại Nam Định, Hà Nội, Hải Phòng, Hải
Dương, Bắc Giang, Thái Nguyên, Ninh Bình, Hà Nam... được người tiêu dùng đón nhận
và tin cậy. Năm 2017, Công ty tiêu thụ được hơn 3.000 tấn gạo sạch. Ngoài ra, sản
phẩm sau sản xuất hạt gạo như cám gạo, công ty còn được công ty Sanwa Yushi (Nhật
Bản) hỗ trợ khoa học kỹ thuật, công nghệ chế biến và tiêu thụ.
Có thể nói, mô hình liên kết sản xuất gạo sạch của công ty Toản Xuân trên địa
bàn huyện đã thu được những thành công đáng kể. Đặc biệt, qua mô hình này đã
từng bước thay đổi nhận thức của người nông dân từ sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ,
manh mún sang hàng hóa gắn với thị trường; từ đó, nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
Mô hình từng bước thu hút hội viên tham gia vào chuỗi liên kết sản xuất, giải quyết
việc làm cũng như thu nhập ổn định cho các hộ nông dân, tạo lòng tin cho người dân
yên tâm sản xuất góp phần phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Vũ Thị Kim Oanh - Hội Nông dân huyện Ý Yên
6. MỘT SỐ TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN CẢN TRỞ TRONG VIỆC NÂNG CAO HIỆU
QUẢ LIÊN KẾT CHUỖI GIÁ TRỊ NÔNG NGHIỆP Ở KHU VỰC ĐBSH TRONG
6.1 Sản xuất nhỏ vẫn phổ biến, sản xuất hàng hóa chưa được chuyên môn hóa cao
Trong những năm vừa qua, mặc dù sản xuất được cơ cấu lại theo hướng mở rộng quy
mô, nhưng sản xuất nhỏ vẫn phổ biến. Số doanh nghiệp và hợp tác xã tăng và số hộ liên
tục giảm, nhưng đến nay hộ vẫn là đơn vị sản xuất cơ bản, chiếm tỷ trọng lớn. Số hộ vẫn
chiếm tỷ trọng lớn trong số các đơn vị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản. Trong tổng
số hộ sử dụng đất nông nghiệp thì số hộ sử dụng dưới 0,2 ha là chủ yếu. Mặc dù công tác
dồn điền đổi thửa được coi là khá thành công, diện tích đất sản xuất nông nghiệp bình quân
một hộ còn ít. Vùng Đồng bằng sông Hồng là vùng có diện tích sản xuất nông nghiệp bình
quân hộ thấp nhất cả nước, chỉ đạt 1.852 m2/hộ. Trong đó, hộ trồng cây hằng năm 1.775 m2/
hộ; hộ trồng lúa 1.692 m2/hộ; hộ trồng cây lâu năm 690 m2/hộ. Sản xuất nông, lâm nghiệp
và thủy sản theo mô hình kinh tế trang trại phát triển khá, tuy nhiên số trang trại so với tổng
số hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn chiếm tỷ lệ khiêm tốn. Phần lớn các trang trại vẫn sản
xuất nhỏ, theo quy mô gia đình là chủ yếu, chưa thực sự thu hút và giải quyết nhiều việc làm
cho khu vực nông thôn. Số doanh nghiệp nông, lâm nghiệp và thủy sản trong những năm
gần đây tăng, nhưng chỉ mới chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số đơn vị sản xuất nông, lâm nghiệp
TÀI LIỆU HỘI NGHỊ TỔNG KẾT
CHƯƠNG TRÌNH MTQG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN 2010 - 2020
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ BẮC TRUNG BỘ
272
và thủy sản. Mặt khác, phần lớn các doanh nghiệp hiện có là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ.
Nhiều doanh nghiệp có quy mô sản xuất chỉ tương đương với đơn vị hộ gia đình và nhỏ hơn
cả quy mô sản xuất của trang trại. Số doanh nghiệp sử dụng dưới 10 lao động chiếm gần một
nửa; số doanh nghiệp có vốn kinh doanh dưới 10 tỷ chiếm trên một nửa;
6.2. Vai trò của Hợp tác xã trong tăng cường và thúc đẩy liên kết còn hạn chế
Số hợp tác xã nông, lâm nghiệp và thủy sản ở nhiều nơi hoạt động chưa thực sự hiệu
quả trong việc gắn kết các hộ dân vào chuỗi. Số hợp tác xã nông, lâm nghiệp và thủy sản
ít; mặt khác, hoạt động chủ yếu vẫn dừng ở việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho sản xuất
nông, lâm nghiệp và thủy sản. Hợp tác xã chưa thực sự phát huy vai trò tập hợp, vận động,
thay đổi cách nghĩ, cách làm và liên doanh, liên kết, đảm bảo đầu ra ổn định cho nông dân.
Doanh thu hoạt động của nhiều hợp tác xã chỉ tương đương với doanh thu của một hộ gia
đình. Số hợp tác xã có doanh thu thuần bình quân 1 năm dưới 1 tỷ đồng chiếm tỷ trọng lớn
(hai phần ba tổng số hợp tác xã).
6.3. Ứng dụng khoa học công nghệ, cơ giới hóa sản xuất còn hạn chế
Theo kết quả Tổng điều tra năm 2016, trong 12 tháng trước thời điểm điều tra, diện
tích lúa được gieo sạ, cấy bằng máy vẫn còn hạn chế. Sản lượng sản phẩm sản xuất theo
Quy trình VietGAP và tương đương trong 12 tháng trước thời điểm 01/7/2016 chiếm tỷ
trọng rất nhỏ. Hình thức sử dụng nhà lưới, nhà kính, nhà màng nuôi trồng cây con còn ít.
6.4. Hiệu quả sản xuất chưa cao
Hiệu quả sản xuất của các hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản không ổn định. Tình trạng
được mùa mất giá liên tục xảy ra. Trong những năm vừa qua, sản xuất nông nghiệp thường
phải triển khai các chiến dịch giải cứu thanh long, dưa hấu, vải, thịt lợn và các loại nông sản
hàng hóa khác. Nhiều hộ chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản phải treo chuồng, treo ao do bán
sản phẩm dưới giá thành. Thu nhập của hộ sản xuất lúa hàng hóa của cả nước nói chung và
ĐBSH nói riêng sau khi trừ chi phí không còn được 30% như mục tiêu đề ra. Giá trị sản phẩm
các hộ lâm sinh thu được từ các hoạt động trồng rừng, chăm sóc và bảo vệ rừng, khoanh
nuôi tái sinh rừng không cao. Hiệu quả sản xuất của hộ thấp do nhiều nguyên nhân, một
mặt do tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu và thiên tai, dịch bệnh; mặt khác, còn do giá
đầu vào tăng, giá bán sản phẩm giảm và thị trường tiêu thụ nông sản hàng hóa bấp bênh.
7. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HIỆU QUẢ LIÊN KẾT CHUỖI GIÁ TRỊ NÔNG NGHIỆP
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở ĐBSH TRONG GIAI ĐOẠN TỚI
Để thúc đẩy hiệu quả liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp, rất cần sự vào cuộc và nỗ lực
của nhiều bên liên quan đến chuỗi từ xuất phát điểm của chuỗi đó là từ phía chính những
người sản xuất, cho đến các tác nhân tham gia trong chuỗi như những cơ sở thu gom, chế
biến, từ các doanh nghiệp, các hợp tác xã và ngay cả các tác nhân có tác động đến chuỗi
như các tổ chức hỗ trợ kỹ thuật, chính quyền địa phương và trung ương.
TÀI LIỆU HỘI NGHỊ TỔNG KẾT
CHƯƠNG TRÌNH MTQG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN 2010 - 2020
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ BẮC TRUNG BỘ
273
7.1 Giải pháp từ phía các hộ sản xuất
Để thúc đẩy hiệu quả liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp, đảm bảo tốt vệ sinh an toàn
thực phẩm, đảm bảo nguồn gốc xuất xứ sản phẩm, tạo lòng tin cho người tiêu dùng ngay
từ khâu sản xuất là vô cùng quan trọng. Bên cạnh đó, phần lớn các hộ dân sản xuất nông,
lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn vùng ĐBSH gặp vấn đề về giá thành cao, rủi ro về dịch
bệnh, rủi ro thị trường, làm cho thu nhập từ hoạt động sản xuất thấp và bấp bênh, và một
vấn đề nữa đó là nhiễm môi trường. Đó là những vấn đề nan giải, để giải quyết phần nào
các vấn đề đó, chúng tôi đề xuất các giải pháp sau:
- Không ngừng học hỏi và áp dụng các kỹ thuật sản xuất tiên tiến, chọn các yếu tố
đầu vào như con giống, hạt giống, phân bón, thức ăn chăn nuôi phù hợp, và thực hiện
tốt công tác phòng trừ dịch bệnh nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hạ giá
thành và giảm rủi ro từ dịch bệnh.
- Các hộ, trang trại, cơ sở sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản cần chủ
động liên kết, giữ uy tín để liên kết được chặt chẽ với những đối tác khác trong chuỗi như
với doanh nghiệp, với hợp tác xã, với các tổ hợp tác, và ngay cả với các cơ sở chế biến nông,
lâm, thủy sản. Tăng cường liên kết với các đối tác này để được đầu tư đầu vào và bao tiêu
sản phẩm, đặc biệt là cố gắng tham gia các liên kết chính thức bằng các hợp đồng nông
nghiệp. Liên kết giúp giảm bớt các rủi ro thị trường, đem lại hiệu quả kinh tế cao và ổn định
hơn cho hộ chăn nuôi.
- Các hộ sản xuất cũng có thể tự liên kết với nhau để thành lập các hợp tác xã, từ đó
HTX đứng ra tìm kiếm và hợp tác với các doanh nghiệp để tiêu thụ sản phẩm, đầu tư vốn,
kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, cung cấp dịch vụ đảm bảo chất lượng. Như vậy sẽ tạo ra một
kênh sản xuất, tiêu thụ thịt nông, lâm, thủy sản hiệu quả hơn.
- Các hộ dân cũng cần học hỏi, chủ động tìm kiếm thông tin, nâng cao trình độ về
nhiều mặt và áp dụng công nghệ thông tin trong sản xuất để đảm bảo truy xuất nguồn gốc
sản phẩm, tạo lòng tin lâu dài cho người tiêu dùng, tăng cường cơ hội liên kết chuỗi bền
vững với các doanh nghiệp, tổ chức chế biến.
- Các hộ dân cũng cần chủ động giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường và
giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường do sản xuất gây ra như bón phân, phun thuốc trừ
sâu, sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi đúng, đủ liều lượng... Các hộ sản xuất cũng cần
có ý thức xây dựng chuồng trại hợp vệ sinh, xây hầm biogas và chế phẩm sinh học E.M
((Effective microorganisms) để xử lý chất thải chăn nuôi, học hỏi và tham gia sản xuất mang
tính hữu cơ nhiều hơn.
7.2 Giải pháp từ phía các tác nhân tham gia chuỗi: cơ sở thu gom, chế biến, phân
phối
Các tác nhân tham gia chuỗi thực hiện các chức năng sở thu gom, chế biến, phân
TÀI LIỆU HỘI NGHỊ TỔNG KẾT
CHƯƠNG TRÌNH MTQG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN 2010 - 2020
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ BẮC TRUNG BỘ
274
phối như hộ, tổ hợp tác, hợp tác xã và các doanh nghiệp muốn đảm bảo lợi nhuận, tính bền
vững trong quá trình sản xuất cần phải áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến trong khâu chế
biến, đa dạng hóa sản phẩm, tăng cường marketing sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ.
Các doanh nghiệp nông nghiệp cần chủ động liên hệ với chính quyền địa phương
trong việc phát triển bền vững vùng nguyên liệu, cam kết và hỗ trợ chính quyền địa phương
trong quy hoạch phát triển kinh tế đối với ngành nông, lâm, ngư nghiệp ở địa phương.
Doanh nghiệp cũng cần chủ động đàm phán, thỏa thuận và ký kết các hợp đồng chính thức
với các hộ sản xuất để thắt chặt, đảm bảo tính bền vững mối quan hệ với họ và dễ dàng giải
quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình hợp tác.
Các tác nhân này cũng cần cung cấp thông tin thị trường cho các hộ kinh doanh giúp
họ nắm bắt nhu cầu thị trường tốt hơn, tránh tình trạng sản xuất theo phong trào.
7.3 Giải pháp từ phía chính quyền
Việc tuyên truyền và tăng cường cấp giấy chứng nhận đảm bảo tiêu chuẩn VietGAP
và tương đương của chính quyền địa phương sẽ thúc đẩy chuỗi giá trị nông, lâm, thủy sản
phát triển nhanh và bền vững hơn. Với người sản xuất, các giấy chứng nhận có thể được coi
như một giấy thông hành giúp họ dễ dàng tiếp cận thị trường, ký kết các hợp đồng sản xuất
và bao tiêu sản phẩm trong chuỗi giá trị hơn.
Chính quyền cũng cần tuyên truyền cho các hộ kinh doanh hiểu biết và tuân thủ các
quy định về sản xuất an toàn, đảm bảo sản xuất sạch, đặc biệt là sản xuất hữu cơ, từ đó thúc
đẩy họ và làm tăng cơ hội cho họ vào việc tham gia các chuỗi giá trị nông sản.
Chính quyền địa phương cần có chiến lược quy hoạch vùng nguyên liệu hợp lý, tránh
tình trạng bỏ trống đất gây lãng phí nguồn lực; có chính sách hỗ trợ, thúc đẩy mối quan hệ
hợp tác giữa doanh nghiệp với người sản xuất. Chính quyền địa phương cũng cần đứng ra
như một bên thứ ba tham gia giám sát và đảm bảo cho mối quan hệ giữa doanh nghiệp và
người sản xuất được bền chặt.
Chính quyền cũng cần có quản lý chặt chẽ dịch bệnh, quản lý chặt chẽ thị trường: cả
thị trường đầu ra và thị trường đầu vào để đảm bảo thị trường thông suốt, cạnh tranh lành
mạnh, giảm thiểu tính độc quyền hoặc cấu kết trên thị trường. Quản lý và giám sát chặt chẽ
việc tuân thủ các quy định của Nhà nước về sản xuất, tiêu thụ, vận chuyển và tiêu dùng các
sản phẩm nông, lâm, thủy sản. Cần xây dựng cơ chế phối kết hợp giữa các đơn vị chức năng
trong việc quản lý, giám sát việc thực hiện sản xuất, kinh doanh trong ngành nông, lâm,
thủy sản đảm bảo các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm và an toàn dịch bệnh theo
đúng quy định của Nhà nước.
Căn cứ điều kiện và diễn biến của từng giai đoạn của dịch bệnh nguy hiểm mà có
những chính sách phù hợp, kịp thời để bảo vệ ngành trồng trọt, chăn nuôi, bảo vệ sản xuất
trong nước và khống chế dịch bệnh.
TÀI LIỆU HỘI NGHỊ TỔNG KẾT
CHƯƠNG TRÌNH MTQG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN 2010 - 2020
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ BẮC TRUNG BỘ
275
7.4 Giải pháp từ phía các tổ chức kỹ thuật, các cơ sở đào tạo và tổ chức tín dụng
Các tổ chức tài chính cần giúp các hộ/cơ sở sản xuất, chế biến nông, lâm thủy sản
tiếp cận dễ hơn các nguồn vốn ưu đãi cho xây dựng chuồng trại, tăng cường trang thiết bị
phục vụ sản xuất, bố trí sản xuất khoa học.
Các cơ sở đào tạo cần hỗ trợ thông qua tập huấn các hộ/cơ sở nông, lâm thủy sản về
kỹ thuật sản xuất sạch, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm ngay từ khâu đầu trong chuỗi
giá trị.
Các tổ chức quốc tế, các cơ sở đào tạo, các tổ chức khuyến nông nên hỗ trợ người dân
trong việc nâng cao hiểu biết về lợi ích lâu dài của việc liên kết nối với doanh nghiệp và các
cơ sở chế biến trong chuỗi giá trị cũng như hiểu biết về kỹ thuật sản xuất, kỹ thuật xử lý các
vấn đề trong quá trình sản xuất và kiểm soát tốt chất lượng sản phẩm nông, lâm, thủy sản.
8. KẾT LUẬN
Đồng bằng sông Hồng là một vùng nằm quanh khu vực hạ lưu sông Hồng, với điều
kiện tự nhiên và xã hội phù hợp cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản. Trong quá
trình xây dựng nông thôn mới, vùng ĐBSH đã có nhiều xã đạt tiêu chuẩn NTM, hệ thống
điện cung cấp phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất khá đầy đủ, chất lượng hệ thống giao
thông phục vụ giao thương được nâng cấp, cơ sở hạ tầng thông tin truyền thông được tăng
cường, hệ thống kênh mương phục vụ tưới tiêu trong quá trình sản xuất sản phẩm hàng
hóa được bổ sung và hoàn thiện.
Bên cạnh đó, hệ thống tín dụng, ngân hàng từng bước được mở rộng mạng lưới hoạt
động, tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ sản xuất, chế biến tiếp cận tín dụng. Hệ thống chợ
phục vụ giao lưu hàng hóa được nâng cấp, đổi mới; các dịch vụ hỗ trợ ngày càng đa dạng
và kinh tế chuyển dịch theo chiều hướng tích cực hơn.
Trong liên kết chuỗi giá trị sản phẩm nông, lâm thủy sản ở khu vực ĐBSH các tác nhân
chính bao gồm người sản xuất là các hộ, các cơ sở và hợp tác xã; người thu gom, chế biến và
phân phối chủ yếu là các hộ, cơ sở chế biến, tổ hợp tác, hợp tác xã và doanh nghiệp. Điểm
nổi bật trong vùng là các hộ liên kết trong xây dựng cánh đồng mẫu lớn, phục vụ chuyên
môn hóa sâu trong sản xuất sản phẩm hàng hóa. Mối liên kết được thực hiện bằng hai hình
thức là ký kết hợp đồng cung cấp nguyên liệu, đầu vào và bao tiêu sản phẩm đầu ra; và hợp
đồng miệng. Số lượng các hộ, cơ sở và doanh nghiệp chế biến sản phẩm nông, lâm, thủy
sản tăng nhanh theo thời gian.
Hiệu quả của liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp trong xây dựng NTM ở khu vực ĐBSH
được thể hiện qua việc cơ cấu lại hình thức tổ chức theo hướng đa dạng hóa, liên kết theo
chuỗi giá trị, cơ cấu lại quy mô sản xuất theo hướng tăng cường quy mô hàng hóa, ruộng
đất được tích tụ thông qua khâu đột phá là dồn điền đổi thửa và xây dựng được nhiều cánh
đồng mẫu lớn để phục vụ sản xuất hàng hóa chuyên canh theo chuỗi giá trị, tạo điều kiện
TÀI LIỆU HỘI NGHỊ TỔNG KẾT
CHƯƠNG TRÌNH MTQG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN 2010 - 2020
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ BẮC TRUNG BỘ
276
cơ giới hóa và ứng dụng khoa học công nghệ thuận lợi hơn, nâng cao năng suất, chất lượng
và giá trị của sản phẩm. Chuyên đề cũng giới thiệu 3 mô hình liên kết chuỗi giá trị thành
công trên địa bàn đó là mô hình liên kết chuỗi giá trị sữa bò tươi tại huyện Lý Nhân, mô hình
liên kết sản xuất gạo sạch tại huyện Ý Yên, tỉnh Hà Nam và mô hình liên kết chuỗi giá trị thịt
lợn tại huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Từ thực trạng, chuyên đề chỉ ra một số hạn chế và nguyên
nhân cản trở việc nâng cao hiệu quả liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp trên địa bàn khu vực
ĐBSH đó là sản xuất nhỏ vẫn phổ biến, sản xuất hàng hóa chưa được chuyên môn hóa cao;
vai trò của HTX trong tăng cường và thúc liên kết chuỗi chưa thực sự hiệu quả ở nhiều nơi,
việc ứng dụng khoa học công nghệ và cơ giới hóa vẫn còn hạn chế dẫn đến hiệu quả sản
xuất nói chung còn chưa cao.
Để thúc đẩy hiệu quả liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp, rất cần sự vào cuộc và nỗ lực
của nhiều bên liên quan đến chuỗi. Chuyên đề đã đề xuất bốn nhóm giải pháp, bắt đầu từ
xuất phát điểm của chuỗi đó là giải pháp từ phía chính những người sản xuất, cho đến các
tác nhân tham gia trong chuỗi như những cơ sở thu gom, chế biến, từ các doanh nghiệp,
các hợp tác xã và ngay cả các tác nhân có tác động đến chuỗi như các tổ chức hỗ trợ kỹ
thuật, chính quyền địa phương và trung ương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tổng cục Thống kê (2018), Kết quả tổng điều tra Nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2016. Nhà xuất bản
Thống kê.
Trần Hữu Cường, Trần Thị Thu Hương, Bùi Thị Nga, Nguyễn Thị Bình (2012), Phân tích chuỗi giá trị ngành hàng
lợn thịt và sữa bò tươi ở Hà nội và sơn la, Từ Marketing đến chuỗi giá trị nông sản và thực phẩm: Cơ sở lý luận và thực
tiễn Nhà xuất bản Chính trị.
Tran Mai Phuong, Tran Huu Cuong, Bui Thi Nga (2018), An Analysis of the Linkages in the Fresh Milk Chain of
Viet Nam, Greener Journal of Business and Management Studies, ISSN: 2276-7827, Vol. 8(2), pp. 010-017, August, 2018
Bui Thi Nga, (2018). Promoting the linkage in agricultural production and marketing in Vietnam: A Case study of
dairy farming in Phu Dong, Hanoi, Vietnam. Presentation in FABM seminar. 7th, June. 2018. Vietnam National University
of Agriculture. Vietnam
Bui Thi Nga (2017), Linkage between Dairy Farmers and Actors, Stakeholders in the Milk Chain: A case study of
Cu Chi District, Ho Chi Minh City of Vietnam, Greener Journal of Business and Management Studies, ISSN: 2276-7827,
Vol. 7, No 3, pp 024-029.
Bui Thi Nga, Philippe Lebailly (2016), Linkages in the Chicken Chain of Vietnam: A Case Study in Kim Dong
District, Hung Yen Province. International Review of Research in Emerging Markets and the Global Economy (IRREM).
ISSN: 2311-3200) 2016 Vol: 2 Issue: 3
Bui Thi Nga (2016). Linkages from Farmers to enterprises: A case study in dairy milk in Northern area of Vietnam.
Proceeding of International Cooperation for rural development in Vietnam: The linkage between policy and reality. Nov
25, 2016. University of Social Science and Humanity, Vietnam National University of Hanoi.
Bui Thi Nga (2015), Model for production along the livestock value chain: A typical case study of pig chain in
Chuong My, Hanoi, Vietnam, National Conference on Agri product Chain in Vietnam, 12-13th Dec, Can Tho, Vietnam.
TÀI LIỆU HỘI NGHỊ TỔNG KẾT
CHƯƠNG TRÌNH MTQG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN 2010 - 2020
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ BẮC TRUNG BỘ
277
Phụ lục: Một số hình ảnh sản phẩm sản xuất theo chuỗi giá trị tại ĐBSH được bán
tại siêu thị
TÀI LIỆU HỘI NGHỊ TỔNG KẾT
CHƯƠNG TRÌNH MTQG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN 2010 - 2020
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ BẮC TRUNG BỘ
278
XỬ LÝ CHẤT THẢI RẮN NÔNG THÔN QUY MÔ
CẤP HUYỆN VÀ LIÊN HUYỆN - GIẢI PHÁP THIẾT THỰC GÓP PHẦN
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI BỀN VỮNG
TS. NGUYỄN ĐÌNH TRỌNG,
Tập đoàn T- Tech
I. THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM
Môi trường có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đời sống của con người, đối với mọi
sinh vật trên trái đất, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của mọi đất nước,
mọi dân tộc và toàn nhân loại. Bảo vệ môi trường để phát triển bền vững hiện đang là vấn
đề cấp bách trên toàn thế giới, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam
chúng ta. Tăng trưởng về kinh tế, ổn định chính trị xã hội và giữ môi trường trong sạch bền
vững là 3 trong những mục tiêu chính của tất cả các quốc gia trên thế giới.
TÀI LIỆU HỘI NGHỊ TỔNG KẾT
CHƯƠNG TRÌNH MTQG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN 2010 - 2020
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ BẮC TRUNG BỘ
279
Nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường trong quá trình phát triển
kinh tế xã hội của đất nước, Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng công tác bảo vệ môi
trường. Luật bảo vệ môi trường đã được Quốc hội thông qua vào năm 1993, đã và đang
từng bước đi vào cuộc sống. Nhiều văn bản dưới Luật cũng được ban hành và thực thi.
Song, vấn đề xử lý ô nhiễm môi trường vẫn còn nhiều bất cập, gây nhiều bức xúc
trong dư luận xã hội, vấn nạn ô nhiễm môi trường vẫn còn tràn lan trên cả nước, kể cả các
tỉnh có nền kinh tế phát triển và ngân sách dôi dư như TP. Hà Nội và TP. Hồ Chi Minh. Nguyên
nhân là do các phương pháp xử lý ô nhiễm chất thải rắn và nước thải vẫn còn nhiều lúng
túng, bất cập, chưa hiệu quả, chưa tối ưu và chưa phù hợp.
Trong vấn đề xử lý chất thải rắn (rác), đặt biệt là rác thải sinh hoạt, trong nhiều năm
qua đất nước chúng ta đã đầu tư nhiều Nhà máy, nhiều cơ sở xử lý rác thải, bằng nguồn
ngân sách nhà nước cũng có, đầu tư trong nước cũng có, đầu tư nước ngoài cũng có,
đặc biệt là nguồn vốn vay ODA rất nhiều cho các dự án xử lý rác thải nhưng vẫn không
thành công.
Theo đánh giá của Chuyên gia Tập đoàn Công nghệ T-TECH Việt Nam, lý do dẫn đến
sự không thành công, thậm chí có thể gọi là thất bại của các Dự án đầu tư xử lý rác trong
thời gian qua là do:
1) Công nghệ chưa phù hợp với rác thải chưa được phân loại từ đầu nguồn như ở Việt
Nam chúng ta;
2) Năng lực quản trị điều hành của Nhà đầu tư còn yếu kém;
3) Khả năng đầu tư đồng bộ và quyết liệt chưa đủ, chưa tới tầm;
4) Sự đồng hành, đồng thuận hỗ trợ của Nhà nước, của Nhà doanh nghiệp và người
dân còn thiếu.
II. CÁC PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ RÁC THẢI SINH HOẠT HIỆN NAY:
Trong nhiều năm qua, Việt Nam chúng ta đã đầu tư, thực hiện nhiều biện pháp,
phương pháp, đã áp dụng nhiều công nghệ để xử lý rác, Chúng tôi xin sơ lược những ưu
điểm và nhược điểm của một số công nghệ như sau:
1. Công nghệ chôn lấp:
- Ưu điểm: Dễ thực hiện, giá rẻ.
- Nhược điểm: Tốn nhiều diện tích đất, khó kiểm soát ô nhiễm. Thực tế cho thấy ô
nhiễm thứ cấp rất tệ hại, rất nguy hiểm đến sức khỏe con người và môi trường sinh thái.
Nhiều bãi chôn lấp chúng ta phải xử lý hậu quả còn tốn kém hơn rất nhiều nếu chúng ta
xử lý triệt để ngay từ đầu. Do vậy, tưởng tiết kiệm được chi phí xử lý nhưng thực chất cũng
không tiết kiệm được, có khi còn tốn kém hơn. Bên cạnh đó, còn mất rất nhiều diện tích đất
để chôn lấp.
TÀI LIỆU HỘI NGHỊ TỔNG KẾT
CHƯƠNG TRÌNH MTQG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN 2010 - 2020
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ BẮC TRUNG BỘ
280
2. Công nghệ sản xuất phân vi sinh:
- Ưu điểm: Về lý thuyết, tận dụng được nguồn nguyên liệu để sản xuất phân vi sinh,
tái sử dụng, không phải chôn lấp hay đốt tiêu hủy,... nhưng thực chất vẫn chưa hiệu quả.
- Nhược điểm: Do rác thải sinh hoạt của chúng ta chưa được phân loại từ đầu nguồn,
nên quá trình phân tách sàng lọc thành phần hữu cơ vô cùng khó khăn, thậm chí có thể nói
là luôn thất bại. Hiện nay hầu hết các dự án sản xuất phân hữu cơ đều dùng hệ thống sàng
lồng để phân loại, hoặc tách trọng lực, tách thành phần hữu cơ để sản xuất phân,... nhưng
thực chất quá trình này không hiệu quả, trên sàng cũng là rác, dưới sàng cũng là rác, chỉ là
rác có kích thước nhỏ hơn hoặc lớn hơn. Chưa kể đến giá thành cạnh tranh phân bón làm
ra từ rác so với các loại phân khác rất khó. Do vậy, có thể nói 100% các Dự án sản xuất phân
hữu cơ từ rác điều thất bại, thất bại do giá thành, thất bại do chất lượng phân bón không
đảm bảo, thất bại do khó phân loại.
3. Công nghệ xử lý rác phát điện bằng khí Syngas tổng hợp:
- Ưu điểm: Về lý thuyết, công nghệ này được giới thiệu là công nghệ không khói, sản
phẩm ra là điện năng và viên đốt. Nhưng thực tế chưa đạt kết quả như mong đợi.
- Nhược điểm: Thực tế cho thấy, chưa có một dự án nào thành công mặc dù đã có
nhiều dự án đầu tư chính thức và thí điểm. Theo cách nhìn nhận của Chuyên gia Tập đoàn
Công nghệ T-TECH Việt Nam thì: Công nghệ này còn nhiều bất cập, chưa hoàn thiện, chưa
tối ưu, chưa phù hợp với rác thải hổ lốn của Việt Nam. Khí Syngas tổng hợp chưa đảm bảo
chất lượng, do nhiều tạp chất, đồng thời lượng khí tạo ra cũng không đủ như tính toán lý
thuyết, dẫn đến thất bại. Ngoài ra, chất lượng viên nén đốt có đảm bảo môi trường khi sử
dụng hay không thì cũng chưa thể chắc chắn, không có người tiêu thụ, do đó công nghệ
này cũng đang gặp nhiều khó khăn.
4. Công nghệ đốt rác phát điện – dựa theo nguyên lý Công nghệ Martin (Đức),
sản xuất tại Trung Quốc.
- Ưu điểm: Về nguyên tắc thì đây là công nghệ hiện đại, đồng thời sản xuất tại Trung
Quốc có giá thành rẻ hơn sản xuất tại Đức.
- Nhược điểm: Thực tế cho thấy, chưa có một dự án nào thành công, thậm chí có dự án
tại Hà Nội đang áp dụng vẫn còn nhiều bất cập (theo thông tin báo chí đưa tin). Theo đánh
giá của Chuyên gia T-Tech, do công nghệ này được du nhập vào Trung Quốc, sản xuất và áp
dụng cải biên chưa đúng, dẫn đến quá trình đốt và xử lý khí còn nhiều bất cập, chưa hiệu
quả, thường xuyên tắc hệ thống khí, đốt chưa đạt công suất theo thiết kế, chỉ đạt khoảng
50% thiết kế. Điều này dẫn đến ùn ứ rác, gây ô nhiễm mùi hôi, gây bức xúc dư luận, gây ô
nhiễm môi trường.
TÀI LIỆU HỘI NGHỊ TỔNG KẾT
CHƯƠNG TRÌNH MTQG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN 2010 - 2020
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ BẮC TRUNG BỘ
281
5. Công nghệ đốt rác phát điện bằng Plasma:
- Ưu điểm: Về nguyên lý công nghệ thì rất tối ưu về xử lý rác, xử lý triệt để ô nhiễm rác
thải. Trên thực tế thì chưa thành công, và bản chất áp dụng chưa đúng.
- Nhược điểm: Tốn kém rất nhiều điện năng nếu làm đạt yêu cầu, đây là công nghệ khí
hóa rác thải bằng nguồn năng lượng Plasma. Thực tế tại Việt Nam cho thấy, chưa có một dự
án nào thành công, thậm chí có dự án đang áp dụng vẫn còn nhiều bất cập, và có lẽ thất
bại. Nguyên nhân là do Nhà sản xuất áp dụng nguyên lý không đúng, công nghệ xây lò và
dây chuyền không đạt, không hiểu rác, dẫn đến khả năng đốt kém, nhiệt độ đốt rất kém so
với tính toán và kỳ vọng, dẫn đến dự án thất bại, không thành công.
III. PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ RÁC THẢI SINH HOẠT HIỆU QUẢ NHẤT HIỆN NAY
Theo ý kiến của Chuyên gia Tập đoàn Công nghệ T-TECH Việt Nam, để xử lý rác thải
sinh hoạt thành công và hiệu quả thì cần đầy đủ các yếu tố sau:
1. Yếu tố thứ 1: Bản đồ quy hoạch Điểm xử lý rác thải phải phù hợp và tối ưu: Quy
hoạch phải đảm bảo tối ưu trong quá trình thu gom, vận chuyển, trong vấn đề phòng ngừa
sự số môi trường thiên tai, phải lưu ý đến các nguồn nước và môi sinh xung quanh. Vấn đề
quy hoạch phải được xem xét kỹ lưỡng, nhất quán, hạn chế thay đổi trong thời gian ngắn
10 năm hay 20 năm, cố gắng phải đạt sự ổn định trong vòng 30 năm và lâu hơn nữa.
2. Yếu tố thứ 2: Lựa chọn công nghệ xử lý phù hợp: Qua số liệu khảo sát đánh giá ở
trên, đồng thời nhìn thực trạng rác thải không được phân loại đầu nguồn như ở Việt Nam
chúng ta, thành phần rác hổ lốn và phức tạp, ... có lẽ chúng ta nên lựa chọn 2 giải pháp tối
ưu và hiệu quả liên quan đến công suất xử lý như sau:
- Giải pháp thứ 1: Dành cho Điểm xử lý rác có công suất dưới 200 tấn/ngày: Nên dùng
công nghệ đốt tiêu hủy, tận dụng nhiệt để đốt rác; Kèm theo phân loại và sản xuất hạt
nhựa; Sản xuất gạch không nung, gạch tự chèn; Bán phế liệu như sắt thép,.... (Không nên
sản xuất phân hữu cơ từ rác).
- Giải pháp thứ 2: Dành cho Điểm xử lý rác có công suất trên 200 tấn/ngày: Nên dùng
công nghệ đốt rác phát điện, tận dụng nhiệt để phát điện; Sản xuất gạch không nung, gạch
tự chèn; Bán phế liệu như sắt thép,.... (Không nên sản xuất phân hữu cơ từ rác).
3. Yếu tố thứ 3: Lựa chọn Nhà đầu tư: Một trong những yếu tố đem lại sự thành công
cho Nhà máy rác là lựa chọn Nhà đầu tư, Nhà quản trị điều hành. Nếu Nhà đầu tư không
có khả năng quản trị điều hành thì công nghệ có tốt đến đâu cũng thất bại. Chúng ta cần
chọn một Nhà đầu tư đủ năng lực, đủ tâm huyết, đủ trách nhiệm thì mới có thể thành công.
4. Yếu tố thứ 4: Sự đồng hành, đồng thuận của các bên liên quan: Vấn đề xử lý rác thải
là một vấn đề lớn, phức tạp và khó, liên quan đến nhiều thành phần, liên quan đến an sinh
xã hội, môi trường và ổn định chính trị. Do vậy, để một Nhà máy xử lý rác thải thành công
TÀI LIỆU HỘI NGHỊ TỔNG KẾT
CHƯƠNG TRÌNH MTQG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN 2010 - 2020
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ BẮC TRUNG BỘ
282
rất cần đến sự đồng bộ chung tay của Nhà nước, Người dân và Doanh nghiệp, các bên đều
phải hiểu mức độ khó khăn và cùng đồng hành, hỗ trợ nhau thì mới có thể thành công.
IV. MỘT SỐ HÌNH ẢNH, QUY HOẠCH VÀ SẢN PHẨM LÒ ĐỐT RÁC
1. Nhà máy xử lý rác T-Tech tại huyện Nghĩa Đàn – tỉnh Nghệ An
2. Lò đốt rác công nghệ cao do T-Tech nghiên cứu và chế tạo
TÀI LIỆU HỘI NGHỊ TỔNG KẾT
CHƯƠNG TRÌNH MTQG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN 2010 - 2020
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ BẮC TRUNG BỘ
283
3. Sơ đồ quy hoạch Nhà máy xử lý rác thải sinh hoạt của T-Tech
TÀI LIỆU HỘI NGHỊ TỔNG KẾT
CHƯƠNG TRÌNH MTQG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN 2010 - 2020
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ BẮC TRUNG BỘ
284
“TAM NÔNG LÀ CHIẾN LƯỢC,
NÔNG THÔN MỚI LÀ CĂN BẢN,
TÁI CƠ CẤU NÔNG NGHIỆP LÀ THEN CHỐT,
NGƯỜI NÔNG DÂN LÀ CHỦ THỂ.”
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tai_lieu_hoi_nghi_tong_ket_chuong_tinh_moi_truong_quoc_gia_x.pdf