Tài liệu Khoa học và công nghệ trong nền kinh tế và dự báo kinh tế thế giới 2015

Trong thế giới phụ thuộc vào công nghệ ngày càng tăng của chúng ta, việc tiếp tục hỗ trợ mạnh mẽ chi cho NC&PT là điều cần thiết để duy trì và phát triển sức mạnh kinh tế của một quốc gia. Điều đã được khẳng định là sự thay đổi công nghệ đang được đẩy nhanh và nếu không có các công cụ, tri thức và chuyên môn để nắm bắt những thay đổi, thì một quốc gia sẽ nhanh chóng tụt hậu phía sau những nước đầu tư vào đổi mới sáng tạo. Điều quan trọng cần lưu ý là những ảnh hưởng lâu dài của chi cho NC&PT và mối quan hệ gần gũi của nó đối với tăng trưởng kinh tế. Nhiều quốc gia như Trung Quốc và khu vực EU đã thiết lập các mục tiêu dài hạn về tỷ lệ chi cho NC&PT/GDP. Tình hình tăng trưởng kinh tế được coi là có tác động trực tiếp tới chi cho NC&PT. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao thường đi kèm với tỷ lệ chi cao cho NC&PT và tỷ lệ tăng trưởng NC&PT thường cao hơn tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là ở các nền kinh tế mới nổi, điển hình nhất là ở Trung Quốc với mức tăng trưởng chi cho NC&PT từ hơn một thập kỷ nay luôn ở mức hai con số. Tình hình đầu tư cho NC&PT của một số nước như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và một số nước EU vẫn nổi bật toàn cầu và đang giữ một vai trò dẫn dắt đầu tư cho NC&PT của thế giới. Trong thế giới ngày nay, trình độ và năng lực KH&CN của một quốc gia là yếu tố quyết định quyết định năng lực cạnh tranh quốc tế. Việc ứng dụng nhanh chóng những đổi mới công nghệ, cũng như tận dụng có hiệu quả những thành tựu mới nhất của NC&PT trong các lĩnh vực công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao, đã và đang đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu kinh tế quốc gia và quốc tế. Mặc dù sẽ còn nhiều khó khăn và thách thức lâu dài đối với kinh tế toàn cầu, nhưng chi cho NC&PT, đổi mới sáng tạo sẽ vẫn tiếp tục tăng trưởng. Điều đó cho thấy tầm quan trọng ngày càng tăng của NC&PT, bởi chỉ có nó mới có thể sẽ giúp cho nền kinh tế của mỗi quốc gia cũng như kinh tế toàn cầu tăng trưởng ổn định và bền vững trong tương lai. Các chuyên gia đều thừa nhận, dù NC&PT không phải là một công cụ có thể nhanh chóng kích hoạt ngay được sự tăng trưởng kinh tế, nhưng nếu có chính sách và chi cần thiết cho NC&PT thì nó sẽ giúp một nền kinh tế tránh tụt hậu hoặc có thể duy trì và nâng cao sức cạnh tranh trong tương lai. KH&CN, thông qua yếu tố TFP, đặc biệt là các ngành công nghiệp và dịch vụ KTI, có xu hướng đóng góp ngày càng lớn vào tăng trưởng kinh tế.

pdf54 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 262 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu Khoa học và công nghệ trong nền kinh tế và dự báo kinh tế thế giới 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
690 9.986 Nhật Bản 129.070 150.785 147.996 149.812 141.732 143.504 115.063 140.681 142.965 128.082 36 Malaixia 62.954 71.006 78.626 85.644 83.938 74.913 74.077 86.660 87.531 80.419 Philipin 30.303 32.644 33.593 32.981 33.494 30.546 22.671 31.954 27.128 26.340 Singapo 59.666 71.586 80.009 94.283 89.069 92.378 71.545 103.406 110.277 115.867 Hàn Quốc 72.459 94.985 103.315 114.615 122.681 122.764 112.919 138.380 136.208 131.269 Đài Loan 81.430 105.593 115.380 140.267 147.225 145.592 127.020 165.607 176.402 176.666 Thái Lan 26.798 33.972 38.688 44.716 48.171 52.645 47.960 58.600 57.462 56.586 Việt Nam 711 769 1.221 2.005 2.896 4.424 5.064 8.320 14.434 17.066 2. Nhập khẩu Thế giới 1.085.854 1.337.113 1.513.448 1.719.354 1.821.601 1.925.858 1.721.839 2.089.488 2.255.904 2.282.106 Canada 36.968 42.686 47.933 52.367 54.655 59.462 52.150 59.296 65.232 69.546 Mexico 28.147 35.009 37.844 47.378 47.529 56.374 49.488 63.067 65.960 71.743 Hoa Kỳ 235.201 279.079 299.753 330.084 351.156 352.766 324.777 384.975 409.562 416.968 Achentina 2.025 3.726 4.793 6.509 7.371 8.377 7.574 10.119 11.651 12.012 Braxin 9.363 13.218 17.075 22.650 22.813 36.199 29.855 38.597 42.076 41.784 Chile 1.845 2.586 3.772 5.603 5.731 6.452 6.442 7.859 9.759 9.745 Venezuela 1.210 2.480 3.987 5.674 6.854 7.791 6.559 6.233 7.474 9.242 EU 221.215 281.232 311.736 353.305 374.141 400.802 348.005 400.306 418.119 392.574 Áo 13.699 16.961 18.258 20.151 19.919 20.950 19.711 20.211 22.190 22.692 Bỉ 36.966 49.551 58.059 62.530 63.760 70.827 67.035 64.768 63.857 65.121 CH. Séc 7.957 10.717 13.301 17.008 20.302 22.579 19.929 25.407 26.518 25.482 Đan Mạch 9.403 11.270 13.837 17.325 14.153 14.233 12.637 12.395 13.584 13.970 Phần Lan 9.805 12.459 15.754 17.494 16.808 16.392 11.831 11.317 10.061 9.993 Pháp 67.784 81.398 89.472 114.251 100.840 110.613 104.070 110.623 121.462 119.641 Đức 107.598 130.171 147.834 174.984 169.492 181.592 165.574 190.177 199.532 191.939 Hungary 10.500 13.793 14.579 16.709 20.153 21.801 18.613 22.480 23.416 22.304 Ireland 18.259 22.713 25.535 25.909 26.011 22.214 17.498 16.455 17.108 15.812 Italia 41.493 49.896 51.111 54.319 55.726 58.263 54.759 66.349 68.270 60.259 Hà Lan 61.908 76.682 84.162 95.636 91.667 91.360 77.535 92.087 95.437 97.703 Ba Lan 8.042 10.634 13.727 22.016 22.664 29.706 23.960 28.743 29.619 28.218 Slovakia 2.287 3.338 4.987 7.579 9.907 10.787 9.769 12.258 13.717 13.492 Tây Ban Nha 32.326 38.368 44.982 52.727 52.948 59.985 45.956 47.959 45.668 46.501 Thụy Điển 13.497 17.396 18.106 20.551 20.397 21.156 18.075 21.258 22.167 21.297 Anh 76.454 91.493 98.519 115.719 102.422 102.795 88.466 95.904 101.248 98.015 Nga 11.778 16.203 20.258 25.235 30.149 36.780 25.148 34.512 41.872 47.796 Châu Á Trung Quốc 137.852 178.426 216.788 258.534 291.504 299.314 284.038 369.304 395.495 392.008 Ấn Độ 9.726 12.988 15.878 23.603 29.632 30.151 31.171 34.272 37.851 42.790 Inđônêxia 3.914 4.745 4.754 5.183 7.553 13.289 12.440 16.419 17.419 19.145 Nhật Bản 77.599 90.410 97.885 104.056 100.709 104.502 93.179 117.344 127.136 136.207 Malaixia 33.957 37.902 39.946 46.276 48.007 42.234 37.293 52.436 49.452 48.450 Philipin 18.404 20.061 19.631 22.809 22.820 21.529 15.912 20.730 17.893 18.082 Singapo 51.746 65.363 73.881 85.799 80.654 81.423 68.623 88.501 89.816 89.580 Hàn Quốc 42.589 49.880 54.956 61.200 62.206 63.623 55.013 68.672 75.201 74.432 Đài Loan 40.700 49.029 52.156 55.133 52.036 48.110 42.519 56.717 60.044 54.417 Thái Lan 17.789 20.818 24.282 27.160 27.831 27.487 25.094 31.818 34.943 35.102 Việt Nam 2.761 3.846 3.675 4.177 6.106 7.072 8.822 10.560 14.179 15.292 Nguồn: Science and Engineering Indicators 2014, National Science Foundation, US. Cũng tương tự như giá trị xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao, giá trị nhập khẩu các sản phẩm công nghệ cao của Việt Nam thấp hơn rất nhiều so với các nước trên thế giới, cũng như so với một số nước trong ASEAN. Tuy nhiên, tốc độ tăng giá trị nhập khẩu các 37 sản phẩm công nghệ cao của Việt Nam lại cao hơn hầu hết các nước, từ 2,761 tỷ USD năm 2003 lên 15,292 tỷ USD năm 2012, tăng 5,5 lần trong giai đoạn này. Trong khu vực ASEAN, Inđônêxia cũng có mức gia tăng cao, khoảng 5 lần, Thái Lan 2 lần, Malaixia 1,5 lần trong cùng giai đoạn. Tại Việt Nam, theo Bộ KH&CN, giá trị sản phẩm công nghệ cao và ứng dụng công nghệ cao trong giá trị sản xuất công nghiệp có xu hướng tăng dần. Giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 18,93% GDP năm 2009, 19,81% năm 2010 và 20,47% năm 2011. Để đạt được mục tiêu giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 45% GDP vào năm 2020, cần có quyết sách mới và quyết tâm cao để thay đổi cơ cấu kinh tế, chuyển từ sử dụng công nghệ thấp sang sử dụng công nghệ cao. Trong giai đoạn 2003 - 2012, xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao của các nền kinh tế phát triển tăng gần gấp đôi. Tuy nhiên, do xuất khẩu của các nền kinh tế đang phát triển tăng nhanh hơn nhiều so với các nền kinh tế phát triển, nên tỷ trọng xuất khẩu xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao toàn cầu của các nền kinh tế phát triển giảm từ 71% xuống 60%. Tại Hoa Kỳ, xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao tăng nhanh hơn một chút so với mức trung bình của tất cả các nền kinh tế phát triển. Các công ty đa quốc gia của Hoa Kỳ trong các ngành công nghiệp sản xuất công nghệ cao (trừ máy bay và tàu vũ trụ) tạo ra giá trị gia tăng hơn 400 tỷ USD trên toàn thế giới năm 2010. Sản xuất trong ngành công nghiệp máy tính là toàn cầu hóa nhất, với 45% của giá trị gia tăng có nguồn gốc từ nước ngoài trong năm 2010, dược phẩm cao thứ hai (40%), tiếp theo là hàng bán dẫn (35%) và sau cùng là các thiết bị kiểm tra, đo lường và điều khiển (28%). Các công ty đa quốc gia của Hoa Kỳ trong sản xuất sản phẩm công nghệ cao sử dụng 2,4 triệu lao động trên toàn thế giới, với 1,2 triệu người (khoảng 50%) làm việc tại Hoa Kỳ trong năm 2010. Các công ty đa quốc gia trong hai ngành công nghiệp là máy tính và dược phẩm tuyển dụng khoảng 50% lực lượng lao động ở nước ngoài, tiếp đến là các công ty trong ngành sản xuất các thiết bị kiểm tra, đo lường và điều khiển (40%). 2.2. Chi cho NC&PT trên thế giới Các nền kinh tế phát triển cũng như một số nền kinh tế đang phát triển đang cố gắng duy trì ở mức cao hoặc gia tăng mạnh đầu tư cho NC&PT với hy vọng những thành tựu thu được từ NC&PT sẽ đóng góp nhiều hơn nữa vào tăng trưởng của các ngành công nghiệp KTI, qua đó giúp gia tăng tỷ lệ đóng góp vào GDP hay giúp cho nền kinh tế của họ tăng trưởng cao và bền vững. Theo Viện Battelle Memorial, tổ chức NC&PT độc lập hàng đầu thế giới, tổng chi quốc gia cho NC&PT (GERD) tính theo tỷ lệ phần trăm của GDP (GERD/GDP) toàn cầu vẫn không ngừng gia tăng. Đầu tư cho NC&PT của Hoa Kỳ tương đương 2,8% GDP, nước này vẫn tiếp tục cam kết gia tăng đầu tư cho NC&PT để duy trì tăng trưởng kinh tế. Những nước đầu tư cho NC&PT theo tỷ lệ % GDP cao như Israel 4,2%, Hàn Quốc 3,6%, Nhật Bản 3,4%, Thụy Điển 3,4%, Đức 2,8%. Do môi trường kinh tế 38 yếu kém hiện nay ở châu Âu nên việc gia tăng tăng mạnh trong đầu tư cho NC&PT sẽ khó thực hiện được trong vài năm tới, nhưng họ vẫn duy trì ở mức trên 2% GDP. Tăng trưởng trong đầu tư cho NC&PT toàn cầu đã chậm lại trong năm 2013 so với tốc độ tăng trưởng trong năm 2011-2012. Sự tăng trưởng chậm này chủ yếu do các nền kinh tế châu Âu bất ổn đã ảnh hưởng đến toàn cầu. Đầu tư cho NC&PT thường liên quan mật thiết tới tăng trưởng GDP và triển vọng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế và đầu tư cho NC&PT ở các nước châu Á, ngoại trừ một số nước, dù đã chậm lại nhưng đầu tư cho NC&PT trong khu vực này vẫn đứng đầu và dẫn dắt tăng trưởng trong phần còn lại của thế giới. Bảng 11: Chi cho NC&PT (giá trị theo tỷ USD, ppp) Xếp hạng toàn cầu Nước/ lãnh thổ GDP năm 2012 Tỷ lệ % đầu tư NC&PT trên GDP năm 2012 GERD năm 2012 GDP năm 2013 Tỷ lệ % đầu tư NC&PT trên GDP năm 2013 GERD năm 2013 1 Hoa Kỳ 15.940 2,8% 447 16.195 2,8% 450 2 Trung Quốc 12.610 1,8% 232 13.568 1,9% 258 3 Nhật Bản 4.704 3,4% 160 4.798 3,4% 163 4 Đức 3.250 2,8% 92 3.266 2,8% 92 5 Hàn Quốc 1.640 3,6% 59 1.686 3,6% 61 6 Pháp 2.291 2,3% 52 2.296 2,3% 52 7 Anh 2.375 1,8% 43 2.408 1,8% 44 8 Ấn Độ 4.761 0,9% 40 4.942 0,85% 42 9 Nga 2.555 1,5% 38 2.593 1,5% 38 10 Braxin 2.394 1,3% 30 2.454 1,3% 31 11 Canađa 1.513 1,9% 29 1.537 1,9% 29 12 Ôxtrâylia 987 2,3% 22 1.012 2,3% 23 13 Đài Loan 918 2,3% 21 938 2,3% 22 14 Italia 1.863 1,3% 23 1.829 1,2% 22 15 Tây Ban Nha 1.434 1,3% 19 1.415 1,3% 18 16 Hà Lan 719 2,0% 15 710 2,1% 15 17 Thụy Điển 399 3,4% 14 403 3,4% 14 18 Israel 253 4,3% 11 263 4,2% 11 39 19 Thụy Sỹ 369 2,9% 11 375 2,9% 11 20 Thổ Nhĩ Kỳ 1.142 0,9% 10 1.185 0,9% 10 21 Áo 365 2,8% 10 366 2,8% 10 22 Bỉ 427 2,0% 9 427 2,0% 9 23 Iran 1.016 0,8% 8 1.001 0,8% 8 24 Mexico 1.788 0,5% 8 1.809 0,5% 8 25 Phần Lan 201 3,8% 8 200 3,6% 7 26 Ba Lan 814 0,8% 6 825 0,8% 6 27 Đan Mạch 214 3,1% 7 214 3,0% 6 28 Nam Phi 592 1,0% 6 604 1,0% 6 29 Qatar 191 2,8% 5 201 2,8% 6 30 CH. Séc 292 1,8% 5 291 1,8% 5 31 Ác-hen-ti-na 755 0,6% 5 781 0,6% 5 32 Na Uy 282 1,7% 5 287 1,7% 5 33 Pakistan 524 0,7% 4 543 0,7% 4 34 Bồ Đào Nha 251 1,5% 4 246 1,5% 4 35 Ai Len 195 1,8% 3 196 1,7% 3 36 Ả-rập Xê-út 922 0,3% 2 955 0,3% 3 37 Ukraina 341 0,9% 3 341 0,9% 3 Phần còn lại của thế giới 10.071 0.4% 39 10.413 0,4% 40 Toàn cầu 83.434 1.8% 1,517 85.751 1,8% 1.558 Nguồn: Battelle. R&D Magazine. International Monetary Fund. World Bank. CIA World Factbook, 12/2013 Bảng xếp hạng của 10 quốc gia đứng đầu về đầu tư cho NC&PT đã không thay đổi trong vòng 5 năm qua (ngoại trừ Trung Quốc vượt qua Nhật Bản để vươn lên vị trí số hai trong năm 2011), với vị trí thống trị của Hoa Kỳ, tiếp theo là Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Hàn Quốc, Pháp, Anh, Ấn Độ, Nga và Braxin. 10 nước hàng đầu sẽ chiếm khoảng 80% trong tổng số 1.618 tỷ USD đầu tư cho NC&PT trên toàn thế giới. Tổng đầu tư cho NC&PT của 3 nước, Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản chiếm hơn một nửa tổng đầu tư cho NC&PT toàn cầu và nếu cộng cả châu Âu thì lên tới 78% tổng đầu tư cho NC&PT toàn cầu. 40 Nhìn chung đầu tư cho NC&PT trên góc độ khu vực có sự thay đổi rõ rệt. 5 năm trước đây, Hoa Kỳ, Canađa và Mexico chiếm gần 40% đầu tư NC&PT toàn cầu, hiện nay chỉ còn 34%, riêng với Hoa Kỳ, năm 2009 chiếm 34% tổng đầu tư NC&PT toàn cầu nhưng nay đã giảm xuống còn 31,4% năm 2013. Châu Âu đã trải qua một sự suy giảm tương tự từ 26% trong năm 2009 xuống 22,4% năm 2013. Cách đây 5 năm, tỷ lệ đầu tư NC&PT của châu Á chiếm 33% đầu tư NC&PT toàn cầu, đến nay tỷ lệ này là 38,3%, riêng Trung Quốc tăng từ 10% đến 16,5% năm 2013. Cường độ đầu tư cho NC&PT của Trung Quốc đã được duy trì ở mức hai con số trong gần 20 năm qua và đầu tư cho NC&PT của nước này đã bằng 60% của Hoa Kỳ. Bối cảnh kinh tế và chính trị trong mỗi khu vực không có khả năng thay đổi trong ngắn hạn và có thể sẽ tiếp tục đến năm 2020, điều này có thể kéo theo sự tương đồng về mức đầu tư cho NC&PT ở mỗi khu vực. Bảng 12: Tỷ lệ đầu tư của các nước, khu vực trên tổng đầu tư cho NC&PT toàn cầu 2012 2013 Châu Mỹ (21 nước) Hoa Kỳ 34,5% 32,0% 34,0% 31,4% Châu Á (20 nước) Trung Quốc Nhật Bản Ấn Độ 37,0% 15,3% 10,5% 2,7% 38,3% 16,5% 10,5% 2,7% Châu Âu (34 nước) Đức 23,1% 6,1% 22,4% 5,9% Mặc dù trong 5 năm qua, 10 quốc gia hàng đầu về đầu tư cho NC&PT vẫn không thay đổi, nhưng đã có thay đổi đáng kể trên phạm vi toàn cầu tham gia vào nghiên cứu, cũng như sự thay đổi trong cách các quỹ được chi tiêu. Khu vực Đông và Nam Á đã trở thành khu vực có sự gia tăng lớn nhất về đầu tư cho NC&PT, xu hướng này dự kiến sẽ tiếp tục ít nhất là đến cuối thập kỷ này. Các đối tác ở châu Á đang gia tăng hợp tác với các công ty công nghệ và các tổ chức nghiên cứu ở Hoa Kỳ và châu Âu trong bối cảnh châu Á đang tìm cách tận dụng tri thức và năng lực khoa học toàn cầu. Đầu tư cơ sở hạ tầng chính tiếp tục được thực hiện ở châu Á cũng như các nền kinh tế lớn mới nổi, thường với mục đích tạo ra một hệ sinh thái đổi mới với cơ chế thuận lợi cho thương mại hóa công nghệ và hợp tác với ngành công nghiệp, làm khuếch đại lợi ích kinh tế từ đầu tư nghiên cứu. Ví dụ tiêu biểu của những cơ sở hạ tầng lớn này là Skolkovo ở Nga, Biopolis tại Singapo và Qatar Foundation . Những xu hướng NC&PT nổi bật Vai trò dẫn dắt tăng trưởng đầu tư cho NC&PT đang dịch chuyển từ Tây sang Đông  Tỷ lệ chi cho NC&PT của châu Á trên tổng đầu tư cho NC&PT toàn cầu đang gia tăng, chủ yếu đến từ Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, trong khi tỷ lệ này của châu Âu và Hoa Kỳ đang giảm.  Hoa Kỳ và châu Âu vẫn là “nhà lãnh đạo toàn cầu” về kết quả nghiên cứu chất 41 lượng cao, nhưng sự cân bằng đang dịch chuyển, do chất lượng nghiên cứu của các khu vực khác đang được cải thiện.  Đầu tư cho NC&PT của châu Phi, Trung Đông và Nam Mỹ vẫn còn tương đối nhỏ, mặc dù ở một số nước trong khu vực Nam Mỹ như Braxin và Achentina đã có những sáng kiến quốc gia đáng chú ý được đầu tư lớn.  Đầu tư cho NC&PT của Trung Quốc có thể vượt EU30 trước năm 2020 và Hoa Kỳ năm 2022. Hình 5: Xu hướng đầu tư cho NC&PT của Hoa Kỳ, Trung Quốc và EU30 Toàn cầu hóa gia tăng trong NC&PT Toàn cầu hóa NC&PT đã tăng lên trong thập kỷ qua thông qua sự kết hợp của tăng trưởng đầu tư cho NC&PT trong các nền kinh tế mới nổi. Nhiều tập đoàn ở Hoa Kỳ và châu Âu đã thuê ngoài/gia công một phần hoạt động NC&PT của họ, hoặc chuyển hay mở các trung tâm NC&PT ở nước ngoài, nhằm nắm bắt nhanh thông tin và tận dụng các lợi thế về ưu đãi và mở rộng quy mô thị trường. Bên cạnh đó, cũng có xu hướng tăng cường hợp tác liên ngành hoặc giữa các nước và khu vực để giải quyết những thách thức khoa học lớn. Trong lĩnh vực thương mại, năng lực sáng tạo có xu hướng gia tăng theo tài sản được tạo ra bởi sản xuất, được xúc tác bằng cách đẩy nhanh chu kỳ phát triển sản phẩm và đôi khi theo chính sách phát triển. Ví dụ, hãng Huawei của Trung Quốc, giờ đây đã có khả năng cạnh tranh để có được các hợp đồng viễn thông ở châu Âu và Hoa Kỳ. Những nỗ lực của Huawei để “thôn tính” các công ty viễn thông của Hoa Kỳ đã được các cơ quan quản lý liên bang ngăn cản. Trên thực tế Huawei đã được chính quyền Trung Quốc dành nhiều ưu đãi để tập đoàn này đổi mới sáng tạo nội sinh, làm chủ công nghệ và vươn ra chiếm lĩnh thị trường toàn cầu. Hơn nữa, Trung Quốc đang hỗ trợ cho các tập đoàn lớn có khă năng thiết kế và xây dựng các nhà máy điện hạt nhân thế hệ tiếp theo, xây dựng một trạm không gian, hệ thống đường sắt cao tốc, các máy bay quân sự và máy bay thương mại và các dự án lớn khác, dựa trên khai thác các “tài sản” KH&CN toàn cầu. Năng lực NC&PT cũng có xu hướng gia tăng theo thị trường cho các sản phẩm công Hoa Kỳ EU30 Trung Quốc T ỷ U S D ( P P P ) 42 nghệ. Ngành công nghiệp ô tô là một ví dụ, kể từ khi các nhà sản xuất lớn có hoạt động NC&PT trên toàn thế giới. Toyota của Nhật Bản đang nắm giữ vị trí là nhà sản xuất xe hơi lớn nhất thế giới, với thị phần hàng đầu cho xe hybrid và điện tiên tiến (EV). Nỗ lực nghiên cứu của Toyota trong lĩnh vực này, cùng với Ford và những hãng khác, được xây dựng trên nghiên cứu cơ bản được chính phủ tài trợ trước đó, chẳng hạn như trong lĩnh vực nghiên cứu pin và động cơ điện, trong khi nghiên cứu của khu vực chính phủ bây giờ chuyển sang các lĩnh vực như nghiên cứu các mạng lưới đáp ứng nhu cầu năng lượng cho xe điện. Xe điện là một minh chứng rõ ràng cho nỗ lực NC&PT được thực hiện trên toàn cầu từ vài thập kỷ qua. Đây là lĩnh vực thu hút hợp tác nghiên cứu rất lớn giữa các nhà khoa học và kỹ sư, tạo ra số lượng lớn các bài báo khoa học, các sáng chế và các hình thức chuyển giao tri thức. Hiện nay, trong lĩnh vực xe điện đang có sự dịch chuyển từ nghiên cứu sang phát triển và ngành công nghiệp này đang ở trong bối cảnh thuận lợi về chính sách, do các nước đang nỗ lực thực hiện các mục tiêu về an ninh năng lượng và bảo vệ môi trường. Các chính phủ trên khắp thế giới, đặc biệt là ở châu Á, nhận ra tầm quan trọng của việc đầu tư vào “các khối tạo dựng” của nền kinh tế dựa trên đổi mới sáng tạo. Tất cả các nước đều tìm cách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm để đáp ứng với sự với sự gia tăng dân số đi kèm với nhu cầu năng lượng, thực phẩm và nước. Các nước đều có những chiến lược khác nhau. Tại Hoa Kỳ, Chính phủ có xu hướng “nuôi dưỡng” đổi mới sáng tạo bằng đầu tư vào nghiên cứu cơ bản và một số ưu đãi về thuế và chính sách, còn thị trường tự do sẽ quyết định những công nghệ nào được triển khai trên quy mô lớn. Trong khi đó, Trung Quốc đã cố định một mục tiêu kinh tế vĩ mô là chi tiêu 2,2% GDP cho NC&PT vào năm 2015, để trở thành một nền kinh tế dựa trên đổi mới sáng tạo vào năm 2020. Cách tiếp cận “mệnh lệnh” này đôi khi cũng thúc đẩy sự sự dịch chuyển từ nghiên cứu sang phát triển. Điều này được chứng minh bằng tỷ lệ lớn đầu tư vào phát triển ở Trung Quốc so với đầu tư vào nghiên cứu cơ bản và ứng dụng, chẳng hạn điều này được thể hiện trong việc triển khai quy mô lớn năng lượng sạch và công nghệ điện toán lưới tiên tiến ở Trung Quốc. Nhưng cách tiếp cận này cũng có thể dẫn đến thất bại đắt giá và các nhà kinh tế đã cảnh báo rằng các khoản đầu tư lớn được duy trì trong đổi mới sáng tạo phải được kết hợp với đầu tư cơ sở hạ tầng an sinh xã hội và bảo vệ môi trường, nạn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng do khói bụi dày đặc ở các thành phố lớn hiện nay ở Trung Quốc là một minh chứng cho thấy sự tập trung đầu tư lớn vào phát triển mà không chú ý vấn đề bảo vệ môi trường sẽ dẫn đến những hậu quả môi trường nghiêm trọng. Tối đa hóa giá trị kinh tế của NC&PT: Vai trò của hệ sinh thái Đầu tư cho NC&PT là đầu tư dài hạn cho tương lai, được coi như là nền tảng duy nhất đảm bảo cho tăng trưởng dựa vào đổi mới sáng tạo hay sự thành công của một nền kinh tế dựa vào đổi mới sáng tạo (Innovation-based Economy). Đầu tư cho NC&PT mức độ cao sẽ giúp các nền kinh tế duy trì và tăng cường cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu trong dài hạn, thậm chí giúp tạo ra các ngành công nghiệp mới có giá trị gia tăng cao. Tuy nhiên, đầu tư cho NC&PT cũng có tác động ngay lập tức cho nền kinh tế, nhất là trong tạo việc làm (ước 43 tính đầu tư cho NC&PT của Hoa Kỳ năm 2014 có thể tạo ra 8,7 triệu việc làm). Đầu tư NC&PT là nền tảng để tạo ra tri thức mới thông qua nghiên cứu cơ bản và cuối cùng là tạo ra các sản phẩm và dịch vụ thông qua thông qua nghiên cứu ứng dụng và thương mại hóa. Để đạt được tăng trưởng dựa trên đổi mới, thì cần phải có một hệ sinh thái NC&PT thành công. Vậy cần làm gì để xây dựng được một hệ sinh thái NC&PT thành công? Trong các nền kinh tế thành công, đổi mới sáng tạo được nuôi dưỡng và môi trường thuận lợi cho hệ sinh thái - cho phép chấp nhận rủi ro và kích thích thành lập doanh nghiệp. Ví dụ về những hệ sinh thái NC&PT nổi tiếng là thung lũng Silicon ở Hoa Kỳ và gần đây là Skolkovo của Nga, Biopolis của Singapo. Một khía cạnh cơ bản của các hệ sinh thái này là chúng nằm trong một tổng thể được liên kết chặt chẽ, nơi mà nguồn nhân lực tài năng và nguồn vốn đầu tư được kết hợp và tạo ra các giai đoạn đổi mới sáng tạo và phát triển thương mại liên tục. Các đặc điểm chính của bất kỳ hệ sinh thái thành công nào bao gồm:  Đầu tư lớn vào nguồn nhân lực: xây dựng nguồn nhân lực KH&CN có kỹ năng cao đi đôi với đội ngũ doanh nhân, quản lý, tài chính, bán hàng để đảm bảo sự thành công trong thương mại.  Khoa học phải gắn với tầm nhìn thương mại và nỗ lực của doanh nhân: Nghiên cứu cơ bản là điểm khởi đầu không thể thiếu và các khám phá khoa học cũng là đích mà tài trợ công cho nghiên cứu cơ bản nhắm tới. Tuy nhiên, cũng cần phải tính đến các tác động kinh tế thông qua tiếp tục biến các khám phá khoa học trở thành các ứng dụng thương mại hay thương mại hóa, quá trình này cần có sự tiếp sức của các doanh nhân trong cùng hệ sinh thái.  Nguồn vốn luôn sẵn có trong mọi giai đoạn của NC&PT: nguồn lực tài chính luôn sẵn sàng, từ những khoản vốn nhỏ ở giai đoạn nghiên cứu sớm đến giai đoạn đầu tư thương mại quy mô lớn.  Hỗ trợ phù hợp của chính phủ: các chính sách, quy định, khuyến khích và thuế được đưa ra để hỗ trợ cho sự ra đời và phát triển của hệ sinh thái NC&PT. Các yếu tố trên là những yếu tố quyết định cho sự ổn định và tăng trưởng của các hệ sinh thái trong giai đoạn suy thoái và những khó khăn về thị trường. Đó cũng là những giải pháp cho sự tồn tại và tăng trưởng của các hệ sinh thái ở những nền kinh tế mới nổi. Các vấn đề NC&PT toàn cầu Nói chung mặc dù các vấn đề được phản ánh trên toàn cầu, nhưng có một số vấn đề làm ảnh hưởng đến các hướng nghiên cứu của các nước khác nhau. Không có gì đáng ngạc nhiên, khi vấn đề khắc phục và làm sạch môi trường là một vấn đề quan trọng cho cả Nhật Bản và Trung Quốc. Chăm sóc sức khỏe cho dân số đang già đi là một vấn đề chính đối với ba nước Pháp, Nga và Hàn Quốc. 44 Bảng 13: Các vấn đề toàn cầu then chốt ảnh hưởng đến các nỗ lực NC&PT tương lai của một số nước lớn Trung Quốc Thay đổi khí hậu/Trái đất nóng lên Khắc phục và làm sạch môi trường Nhu cầu về năng lượng tái tạo và bền vững Pháp Sự hiểu biết của người dân về các vấn đề KH&CN Y tế cho người già Nhu cầu về năng lượng tái tạo và bền vững Đức Nhu cầu về năng lượng tái tạo và bền vững Phát triển bền vững Thay đổi khí hậu/Trái đất nóng lên Ấn Độ Phát triển bền vững Sự hiểu biết của chính phủ về các vấn đề KH&CN Khắc phục và làm sạch môi trường Nhật Bản Hạn chế cacbon và thu/quản lý CO2 Khắc phục và làm sạch môi trường Thay đổi khí hậu/Trái đất nóng lên Nga Sự hiểu biết của chính phủ về các vấn đề KH&CN Sự hiểu biết của người dân về các vấn đề KH&CN Y tế cho người già Hàn Quốc Thay đổi khí hậu/Trái đất nóng lên Sự hiểu biết của chính phủ về các vấn đề KH&CN Y tế cho người già Anh Thay đổi khí hậu/Trái đất nóng lên Sự hiểu biết của chính phủ về các vấn đề KH&CN Nhu cầu về năng lượng tái tạo và bền vững Hoa Kỳ Sự hiểu biết của chính phủ về các vấn đề KH&CN Sự hiểu biết của người dân về các vấn đề KH&CN Nhu cầu về năng lượng tái tạo và bền vững Các vấn đề chung của các nước Sự hiểu biết của chính phủ về các vấn đề KH&CN Nhu cầu về năng lượng tái tạo và bền vững Phát triển bền vững Nguồn: Battelle Chi cho NC&PT của một số nước và khu vực Chi cho NC&PT của Hoa Kỳ Theo dữ liệu lịch sử từ Quỹ Khoa học Quốc gia, kể từ những năm 1970, tổng chi cho NC&PT của Hoa Kỳ đã đạt từ 2,5-3% GDP, trong đó tỷ lệ đầu tư của ngành công nghiệp Hoa Kỳ đã vượt của Chính phủ. Mức độ đầu tư cho NC&PT có mối liên hệ tương quan với tăng trưởng kinh tế vĩ mô và là nền tảng của đổi mới công nghệ của Hoa Kỳ, tăng trưởng kinh tế ổn định và khả quan sẽ có tác động tích cực đối với sự gia tăng chi cho NC&PT. 45 Các trường đại học nghiên cứu của quốc gia là khu vực NC&PT lớn thứ hai ở Hoa Kỳ, chiếm 13% tổng chi cho NC&PT và hơn nửa chi cho nghiên cứu cơ bản ở nước này. Với gần 60% ngân sách NC&PT của các trường đại học do Chính phủ liên bang tài trợ. Hoạt động NC&PT của các trường đại học gần đây đã được hỗ trợ bởi Luật Phục hồi và Tái đầu tư. Nhiều trường đã đa dạng hóa các nguồn tài trợ cho hoạt động NC&PT của họ. Do vậy, chi cho NC&PT khu vực đại học có thể ước đạt gần 63 tỷ USD năm 2014. Thông qua nghiên cứu cơ bản và ứng dụng, các tổ chức/trung tâm nghiên cứu lớn của Hoa Kỳ tiếp tục theo đuổi nhiệm vụ nghiên cứu trong các lĩnh vực năng lượng, an ninh và các lĩnh vực khác có tầm quan trọng quốc gia. Bảng 14: Tỷ lệ chi cho NC&PT theo khu vực ở Hoa Kỳ Khu vực Tỷ lệ Doanh nghiệp/ngành công nghiệp 71% Hàn lâm 13% Chính phủ liên bang 8% Các Tổ chức Phi lợi nhuận 4% Các trung tâm NC&PT được Chính phủ liên bang tài trợ (FFRDC) 4% Mặc dù gặp nhiều khó khăn về nguồn tài trợ so với nhiều năm trước, nhưng các trường đại học của Hoa Kỳ vẫn rất cạnh tranh trên toàn cầu, nhiều trường vẫn duy trì được chi hơn 1 tỷ USD cho nghiên cứu mỗi năm, chẳng hạn như các trường Đại học Johns Hopkins (bao gồm cả Phòng thí nghiệm vật lý ứng dụng), Đại học Michigan, Đại học Washington, Đại học Wisconsin, Đại học Duke, Đại học California và Viện Công nghệ Massachusetts (bao gồm cả Phòng thí nghiệm Lincoln). Trong hệ thống các trường đại học này, Đại học California chi cao nhất cho hoạt động nghiên cứu với 5,4 tỷ USD, thứ hai là Đại học Texas (2,5 tỷ USD). Tính tổng cộng, chi cho nghiên cứu của khu vực đại học ở Hoa Kỳ được ước đạt 63 tỷ USD năm 2014. Chi cho NC&PT ở châu Âu Một nửa trong tốp 40 nước chi lớn nhất cho NC&PT trên thế giới là ở châu Âu, nhưng các nước châu  trong tốp này chỉ chiếm 21,7% tổng chi cho NC&PT toàn cầu. Trong 5 năm qua, tỷ lệ chi cho NC&PT của châu Âu mặc dù vẫn được duy trì, nhưng tính theo tỷ trọng trong tổng chi cho NC&PT toàn cầu lại liên tục giảm do sự gia tăng mạnh trong tỷ trọng chi cho NC&PT ở châu Á. 46 Với số lượng lớn các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu, cộng đồng nghiên cứu của châu Âu là rất đa dạng về trình độ phát triển và lợi ích quốc gia, trong khi kinh phí trung ương và cơ chế hành chính cho phép hoạt động phối hợp nghiên cứu công lại ở quy mô như Hoa Kỳ. Điều kiện kinh tế trong khu vực này cũng tác động lớn đến nguồn tài trợ cho NC&PT, đặc biệt là tại một số nước gặp khủng hoảng nặng nề như Hy Lạp, Tây Ban Nha và Italia. Dominique Guellec, chuyên gia kinh tế và là người đứng đầu nhóm nghiên cứu quốc gia về khoa học, công nghệ và công nghiệp của OECD, nói: “Điểm mấu chốt của vấn đề là sự suy thoái của nền tài chính công trong các nền kinh tế phát triển đã dẫn đến việc ngân sách cho NC&PT chững lại ở nhiều quốc gia và thậm chí giảm ở một số quốc gia. Ví dụ, từ năm 2009 ngân sách nhà nước cho NC&PT đã bắt đầu giảm rõ rệt ở Pháp, Phần Lan, Tây Ban Nha, Nga và Anh". Theo OECD, tác động của suy thoái kinh tế đối với đổi mới sáng tạo là đáng kể trong thập kỷ qua và sự phục hồi toàn cầu vẫn còn rất khiêm tốn. Tỷ lệ 1,6% là tốc độ tăng trưởng hàng năm trong tổng chi tiêu cho NC&PT ở các nước OECD trong giai đoạn 2008-2012, tỷ lệ này chỉ bằng một nửa tỷ lệ trong trong giai đoạn 2001-2008. Trong hầu hết các quốc gia EU, từ 10% đến 20% NC&PT của doanh nghiệp được tài trợ bằng tiền của chính phủ thông qua các công cụ đầu tư khác nhau và mục tiêu của chính phủ. Các chuyên gia của OECD dự đoán rằng trong điều kiện kinh tế hiện nay, một sự hồi sinh mạnh mẽ trong đầu tư cho NC&PT và đổi mới sáng tạo trong 2 năm tới là khó, nhưng triển vọng có thể cải thiện chút ít vào năm 2015. Mặc dù không thể gia tăng mạnh đầu tư cho NC&PT trong bối cảnh hiện nay, nhưng nhìn chung các nước châu Âu, đặc biệt là các nước Tây Âu, đã lựa chọn những ưu tiên đầu tư đáng kể cho NC&PT trong các nền tảng công nghệ tương lai như robot, tính toán hiệu năng cao, phương tiện truyền thông xã hội, phần mềm, các nguồn năng lượng hiệu quả, công nghệ sinh học và công nghệ nano, những lĩnh vực này có thể kích thích tăng trưởng mạnh về kinh tế và mở rộng quy mô các ngành công nghiệp mới. Một số nước phát triển ở châu Âu đã đặt ưu tiên nghiên cứu trong 10 năm tới bao gồm (theo thứ tự ưu tiên) năng lượng, môi trường và khoa học sự sống. Khu vực có thể trở nên ít được nhấn mạnh bao gồm quân sự và nghiên cứu không gian. Tại châu Âu, Đức hiện đứng đầu về đầu tư cho NC&PT, đạt 2,8% GDP hay 92 tỷ USD. Tại Đức, Chính phủ Liên bang và các bang đã tài trợ cho NC&PT 8,5 tỷ Euro (gần 11 tỷ USD) trong năm 2012, tăng 6,5% so với năm 2011. Khoảng 69% trong tổ số 8,5 tỷ Euro được cung cấp bởi Chính phủ Liên bang và 31% của các bang. Trong hai thập kỷ qua, Chương trình Khung của EU (FP) đã có những thành công, đã giúp thay đổi mô hình các trường đại học châu Âu từ mang tính quốc gia sang mô hình đề cao mức độ hợp tác giữa các trường đại học ở các nước khác nhau. Các chương trình đại học liên châu Âu, chẳng hạn như Hội đồng Nghiên cứu châu Âu và Viện Công nghệ và Đổi mới châu Âu đã được tạo ra để tăng cường cho Chương trình khung. 47 Hình 6: Cam kết của châu Âu cho nghiên cứu được hỗ trợ bởi Chương trình Khung Cũng từ tài trợ của EU, khoảng 34 tỷ USD sẽ được cấp cho nghiên cứu cấp cao nhất được hỗ trợ bởi Hội đồng Nghiên cứu châu Âu (tương ứng với Hội đồng nghiên cứu quốc gia của Hoa Kỳ). Như ở Hoa Kỳ, một phần quan trọng của hoạt động nghiên cứu ở châu Âu sẽ được tiến hành bởi khu vực hàn lâm. Các trường đại học châu Âu chỉ đứng thứ hai, sau các trường đại học Hoa Kỳ trong bảng xếp hạng các trường đại học trên thế giới, với khoảng 71 trường đại học châu Âu xếp hạng trong Top 400, so với 77 trường đại học của Hoa Kỳ. Bảng xếp hạng được dựa trên 13 chỉ số hoạt động trong các lĩnh vực liên quan đến giảng dạy, nghiên cứu, chuyển giao tri thức và triển vọng toàn cầu. Vương quốc Anh có số lượng lớn nhất các trường đại học châu Âu trong danh sách Top 400 với 29 trường. Tuy nhiên, nhìn chung hiệu suất của các tổ chức nghiên cứu khoa học của Hoa Kỳ vẫn cao hơn ở châu Âu, mặc dù các trường đại học châu Âu cũng được đánh giá cao trên bảng xếp hạng toàn cầu. Kết quả khảo sát chỉ ra rằng nghiên cứu ứng dụng ở Hoa Kỳ được xem là hiệu quả hơn so với ở châu Âu, trong khi nghiên cứu cơ bản là gần tương đương. Theo Báo cáo Chỉ số Đổi mới toàn cầu (GGI) năm 2014, được thực hiện cho 143 nền kinh tế trên thế giới, các nước châu Âu cũng là những nước đứng đầu về Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu. Trong số 10 nước đứng đầu bảng xếp hạng GGI thì có tố 7 nước châu Âu. Thụy Sĩ vẫn giữ vị trí cao nhất trong bảng xếp hạng, tiếp đến là Anh, Thụy Điển, Phần Lan, Hà Lan. Cùng với khu vực hàn lâm, khu vực doanh nghiệp ở châu Âu cũng đầu tư lớn cho NC&PT. Đặc biệt, một số tập đoàn đã đầu tư nhiều tỷ USD cho NC&PT năm 2010, như Volkswagen, Nokia, Daimler, Siemens T ỷ U S D ( P P P ) 48 Đầu tư cho NC&PT ở châu Á Trong khi tăng trưởng đầu tư cho NC&PT năm 2013 ở Hoa Kỳ và châu Âu chậm lại, thì sự tăng trưởng này ở hầu hết các nước châu Á đặc biệt là Trung Quốc vẫn tiếp tục. Tăng trưởng GDP khả quan ở châu Á sẽ tiếp tục củng cố sự gia tăng mạnh về đầu tư cho NC&PT. Năm 2013, đầu tư cho NC&PT của Trung Quốc đạt 1,9% GDP, chiếm 16,5% tổng đầu tư cho NC&PT toàn cầu, so với tỷ lệ 15,3% năm 2012. Sự gia tăng ngân sách cho NC&PT của Trung Quốc sẽ vượt ngân sách cho NC&PT của Hoa Kỳ, nếu Trung Quốc vẫn duy trì mức tăng đầu tư cho NC&PT hiện nay và mức đầu tư này của Hoa Kỳ tiếp tục tăng trưởng khiêm tốn đến năm 2020. Tổng chi cho NC&PT của Trung Quốc được dự báo sẽ vượt qua Hoa Kỳ vào năm 2022. Tăng trưởng kinh tế cao của Trung Quốc sẽ tiếp tục hỗ trợ mạnh mẽ cho tăng trưởng chi cho NC&PT ở mức hai con số phù hợp với Kế hoạch 5 năm hiện tại (2011-2015), điều này sẽ khiến khoảng cách về chi cho NC&PT giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ sẽ ngày càng được thu hẹp. Kế hoạch 5 năm giai đoạn 2011 - 2015 của Trung Quốc đã đặt mục tiêu chi 2,2% GDP cho NC&PT vào năm 2015. Khi cam kết chi cho NC&PT ngày càng tăng, Trung Quốc muốn chuyển đổi từ một nền kinh tế sản xuất sang nền kinh tế “định hướng đổi mới” vào năm 2020. Hầu hết các nước châu Á được dự báo có mức tăng trưởng kinh tế đáng kể trong năm 2015, do đó đà tăng trưởng GDP được gắn với các cam kết quốc gia để tăng cường NC&PT. Theo Báo cáo về chi cho NC&PT toàn cầu của Viện NC&PT Battelle và Tạp chí R&D Magazine, khu vực Đông Á, Hàn Quốc hiện có tỷ lệ chi cho NC&PT/GDP cao nhất, đạt 3,6% GDP, tương đương 61 tỷ USD. Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) đều có mức chi cao cho NC&PT, với các chương trình NC&PT mạnh mẽ hỗ trợ phát triển KH&CN trong khu vực công và tư nhân. Đài Loan (Trung Quốc) và Hàn Quốc đã xây dựng các kế hoạch 5 năm tích cực cho KH&CN; đã xây dựng các mục tiêu liên quan đến năng lực cạnh tranh quốc gia trong các ngành công nghiệp có hàm lượng đổi mới sáng tạo cao, đồng thời đang gia tăng các khám phá khoa học. Một báo cáo khác của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) vừa công bố mang tên “Báo cáo toàn cảnh về khoa học, công nghệ và công nghiệp 2014” cho rằng Hàn Quốc có tỷ lệ chi cho NC&PT tính theo GDP cao nhất thế giới, 4,36% GDP, vượt qua Israel (3,93%). Tỷ lệ này cao hơn nhiều so với tỷ lệ tỷ lệ trung bình của OECD là 2,4%. Nhật Bản và Đài Loan (Trung Quốc) cũng có tỷ lệ chi cho NC&PT rất cao, lần lượt là 3,35% và 3,06%. Sự khác biệt giữa các khu vực trong NC&PT cũng như các ưu tiên KH&CN đang được thu hẹp. Đáng chú ý là Trung Quốc và Ấn Độ, có sự gia tăng mạnh về số lượng lớn các nhà khoa học và kỹ sư, nhưng dân số nói chung đang tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn. Kết quả là, các chỉ số về nhà khoa học và kỹ sư vẫn còn thấp thấp hơn nhiều so với Hoa Kỳ và châu Âu. Sự tăng trưởng kinh tế được cho là khả quan ở các quốc gia Đông Nam Á sẽ thúc đẩy chi hơn nữa cho NC&PT đến cuối thập kỷ này. Trong khu vực Đông Nam Á, Malaixia đứng thứ 34 thế giới về chi cho NC&PT. Inđônêxia vẫn đứng ở vị trí 40 thế giới về chi cho 49 NC&PT, mặc dù tỷ lệ chi cho NC&PT của nước này đã tăng lên năm 2013. Singapo cũng là một nước chi lớn cho NC&PT, đứng thứ 22 về tổng chi cho NC&PT, đặc biệt là khi xem xét đến dân số chỉ 5 triệu người. Chi cho NC&PT của Singapo đã tăng gấp ba lần trong vòng 10 năm qua. Chỉ số chi cho NC&PT bình quân đầu người của nước này cũng vượt Hoa Kỳ, Anh và Nhật Bản. Singapo đứng thứ 19 trong số 146 nền kinh tế về chỉ số kinh tế tri thức (Knowledge Economy Index - KEI) của Ngân hàng Thế giới. Tuy nhiên, diện tích lãnh thổ nhỏ cũng là một hạn chế đối với tiềm năng tăng trưởng dài hạn của KH&CN. Mặc dù số lượng các công bố khoa học của Singapo cũng khiêm tốn do số lượng các nhà khoa học và kỹ sư tương đối ít, nhưng nếu tính số công bố khoa học trên đầu người thì tỷ lệ cũng đứng đầu khu vực. Trung Quốc đã tăng cường chi cho NC&PT với mức tăng trưởng từ 12% đến 20% mỗi năm trong 20 năm qua, tăng hơn 2 lần tỷ lệ tăng trưởng chi cho NC&PT của Hoa Kỳ trong cùng thời gian này. Kết quả là, trong năm 2011, về tổng chi cho NC&PT, Trung Quốc đã vượt Nhật Bản để vươn lên vị trí thứ 2 thế giới, sau Hoa Kỳ. Vào năm 2018, tổng chi cho NC&PT của Trung Quốc sẽ vượt tổng chi cho NC&PT của 34 quốc gia châu Âu; và vào khoảng năm 2022, sẽ có khả năng cũng vượt Hoa Kỳ, khi đó cả hai nước có thể sẽ đạt khoảng 600 tỷ USD chi cho NC&PT. Chi cho NC&PT của Trung Quốc hiện nay bằng 60% của Hoa Kỳ và tỷ lệ này vẫn đang được thu hẹp dần. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu toàn cầu được khảo sát vẫn cho rằng Hoa Kỳ vẫn sẽ vượt trội so với Trung Quốc trong nghiên cứu cơ bản và ứng dụng. Chi cho NC&PT ở Trung Quốc được hỗ trợ mạnh mẽ bởi tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, có khả năng là các quan điểm chuyên môn của lãnh đạo Trung Quốc có ảnh hưởng trong chính sách khoa học và đổi mới: 8 trong số 9 thành viên thuộc Ban thường vụ của Bộ Chính trị có bằng cấp về kỹ thuật. Trung Quốc đang chi mạnh để tạo ra một cơ sở hạ tầng đổi mới để cho phép nước này phát triển, thương mại hóa các sản phẩm dựa trên công nghệ tiên tiến. Trong năm 2013, Trung Quốc vẫn được coi là nước có chi phí sản xuất thấp, kể cả sản xuất các sản phẩm công nghệ cao. Nhưng sản xuất hiệu quả không thôi là chưa đủ để duy trì tăng trưởng kinh tế. Nhận ra điều này, Trung Quốc đã định hướng phát triển từ một nền kinh tế lấy sản xuất làm trung tâm sang một nền kinh tế dựa trên đổi mới sáng tạo vào năm 2020. Theo cánh cách tiếp cận của Hoa Kỳ, châu Âu và Nhật Bản kể từ Thế chiến II, Trung Quốc đang tiến bộ vững chắc trong xây dựng một cơ sở hạ tầng nghiên cứu mạnh và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để vận hành nó. Kết quả cho đến nay rất ấn tượng, với các chỉ số hàng đầu về đổi mới đã nhanh chóng đạt mức gần bằng với phương Tây. Chi cho NC&PT của Trung Quốc liên quan đến các mục tiêu quốc gia về tăng trưởng công nghiệp, ổn định phát triển trong nước gắn với một nền kinh tế tiên tiến, triển khai sức mạnh và uy tín quốc tế. Những mục tiêu này được thể hiện trong các dự án NC&PT lớn như xây dựng một trạm không gian của Trung Quốc và cơ sở hạ tầng sản xuất năng lượng tái tạo, điện hạt nhân để giải quyết nhu cầu năng lượng ngày càng tăng. Tuy nhiên, Trung Quốc có một số thách thức lớn phải vượt qua để đạt được mục tiêu năm 2020 trở thành nền 50 kinh tế dựa trên đổi mới sáng tạo. Các thách thức lớn là tự chủ về năng lượng, tài nguyên nước và bảo vệ môi trường. Trung Quốc tiếp tục tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, hơn ba lần so với Hoa Kỳ, giúp cung cấp các nguồn lực để hỗ trợ chi cho NC&PT và mở rộng cơ sở hạ tầng cơ bản. Trung Quốc đã trở thành một nước “xuất khẩu việc làm” sang châu Á để đáp ứng nhu cầu riêng của mình. 10 năm trước, đầu tư trực tiếp nước ngoài hầu hết đã đến Trung Quốc. Ngày nay, Trung Quốc đã là một nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn châu Á và dự báo đến năm 2017 nước này sẽ đứng đầu về đầu tư nước ngoài trong khu vực. Như là một phần của chương trình tài trợ tích cực, Trung Quốc đang mở rộng cơ sở hạ tầng KH&CN của mình thông qua các khoản đầu tư vào các tổ chức nghiên cứu khoa học, Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc và các viện nghiên cứu công nghiệp. Khi đã trở thành một trong những nước hàng đầu về chi cho NC&PT, Trung Quốc cũng đồng thời tận dụng đòn bẩy thông qua hợp tác quốc tế. Nhiều chương trình NC&PT của Trung Quốc liên quan đến hợp tác với các tổ chức nghiên cứu châu Âu và Hoa Kỳ. Theo khảo sát của Viện Battell, khoảng 1/3 hoạt động NC&PT tiên tiến của Trung Quốc được tiến hành trong sự hợp tác với các tổ chức nghiên cứu của Hoa Kỳ và khoảng ¼ với các tổ chức nghiên cứu châu Âu. Cũng như ở các nước phát triển, chi của doanh nghiệp cho NC&PT ở Trung Quốc đã vượt chi cho NC&PT của chính phủ. Khu vực doanh nghiệp của Trung Quốc đã chiếm hơn 2/3 tổng chi cho NC&PT ở nước này, với nhiều tập đoàn đã chi hơn 1 tỷ USD cho NC&PT như Huawei Technologies, PetroChina, China Railway Construction. Với vị trí thứ 4 thế giới về GDP, nhưng Ấn Độ lại đặt ưu tiên chi cho các lĩnh vực xã hội và chính trị hơn là chi vào NC&PT. Tỷ lệ tăng trưởng chi cho NC&PT của Ấn Độ được dự báo chỉ đạt 1/5 tỷ lệ tăng trưởng GDP năm 2014. Một phần đáng kể của NC&PT của Ấn Độ tập trung vào hỗ trợ cho khu vực dịch vụ, khu vực chiếm khoảng 2/3 GDP của Ấn Độ. Ngành công nghiệp dược phẩm Ấn Độ chiếm một phần khá lớn của chi NC&PT, đặc biệt là trong thị trường thuốc thành phẩm, nơi các công ty Ấn Độ, như Ranbaxy Laboratories, duy trì một thị phần khá lớn trên toàn cầu. Sự thống trị của Ấn Độ là nhà sản xuất các loại thuốc giá rẻ cho những người nghèo trên thế giới đã có nền tảng vững chắc. Nhiều loại thuốc giá rẻ được sản xuất nhờ các bằng sáng chế châu Âu hoặc nhờ NC&PT trong các trường đại học Ấn Độ. Như là điển hình cho các doanh nghiệp dược phẩm toàn cầu, một số công ty dược phẩm Ấn Độ đã mua cổ phần trong các công ty dược phẩm nước ngoài. Chính phủ Ấn Độ tài trợ tới 2/3 tổng chi cho NC&PT của nước này. Chi cho NC&PT của ngành công nghiệp đã tăng đều đặn từ 20 năm qua nhưng vẫn còn ít hơn 1/3 tổng số chi cho NC&PT của đất nước (so với Hoa Kỳ và Trung Quốc, những nơi mà ngành công nghiệp chiếm hơn 2/3 chi cho NC&PT). Chính phủ hỗ trợ cho NC&PT ở Ấn Độ có xu hướng tập trung vào mục tiêu truyền thống là tài trợ NC&PT công, như năng lượng hạt nhân, quốc phòng, không gian, y tế và nông nghiệp. Chi cho NC&PT dành riêng cho nghiên cứu cơ bản ở Ấn Độ đã tăng đều từ ít hơn 20% trong 10 năm qua đã tăng lên hơn 51 26% hiện nay. Nhật Bản từ lâu đã chi lớn vào NC&PT. Tỷ lệ chi cho NC&PT trên GDP của nước này hiện là 3,4% (hơn 160 tỷ USD) và có lúc đã đạt 3,7% trong đầu thập kỷ này. Tuy nhiên, các vấn đề về nhân khẩu học, kinh tế, trận sóng thần và thảm họa hạt nhân Fukushima đã có những ảnh hưởng tiêu cực đến chi cho NC&PT ở Nhật Bản. Nhật Bản có dân số già và tuyển sinh đại học và nhân lực trình độ tiến sĩ đang giảm nhanh chóng, một phần do sự suy giảm nhu cầu việc làm cho các nhà khoa học và kỹ sư. Suy thoái kinh tế toàn cầu 2009- 2010 cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế Nhật Bản và khả năng hỗ trợ mạnh mẽ cho chi vào NC&PT. Hiện nay, phần lớn những căng thẳng kinh tế đã được giảm bớt và sản lượng công nghiệp của Nhật Bản đã được thu hồi, cùng với tăng chi cho NC&PT. Chi cho NC&PT của Hàn Quốc vẫn tiếp tục tăng ở mức khoảng 4% hàng năm, ngang bằng với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Hàn Quốc đứng thứ năm trong tốp 40 nước chi nhiều nhất cho NC&PT, chiếm 4% mức chi cho NC&PT toàn cầu. Hàn Quốc đứng thứ 25 về dân số với 49 triệu người. Hàn Quốc chi khoảng 60 tỷ USD cho NC&PT, với tỷ lệ chi lớn nhất trong sản xuất công nghiệp và công nghệ. Khoảng một phần ba chi cho NC&PT của đất nước được cung cấp bởi Chính phủ. Các khoản khấu trừ lớn thuế thu nhập doanh nghiệp được Chính phủ cho phép chi vào NC&PT và cơ sở vật chất. Đăng ký bằng sáng chế được khuyến khích và số lượng đã tăng gấp bốn lần trong vòng 10 năm qua. Các công bố khoa học của các nhà nghiên cứu Hàn Quốc đã tăng gấp đôi trong 5 năm qua. Trong khi suy thoái kinh tế toàn cầu 2009-2013 ảnh hưởng đến nền kinh tế của nhiều quốc gia, thì nền kinh tế Hàn Quốc vẫn tiếp tục phát triển vượt qua suy thoái kinh tế. Hiện nay Hàn Quốc đang xây dựng nền kinh tế dựa vào đổi mới sáng tạo. Chính phủ Hàn Quốc cho biết ngân sách cho NC&PT năm 2014 là hơn 10 tỷ USD, tăng 2,2% so với năm 2013. Khoảng 3,3 tỷ USD được phân bổ cho phát triển nền kinh tế đổi mới sáng tạo; 560 triệu USD được phân bổ cho các nghiên cứu nhằm đảm bảo phúc lợi và an toàn cho người dân. Ngân sách cho nền kinh tế đổi mới sáng tạo năm 2014 tăng 5,9% so với năm 2013, bao gồm 980 triệu USD hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông (ICT), phần mềm hội tụ công nghệ (tăng 26,7% so với năm 2013). 140 triệu USD được phân bổ cho các nghiên cứu về thiên tai, 60 triệu USD cho các nghiên cứu về lương thực và y tế. An ninh mạng đã trở thành một vấn đề quan trọng trong thời gian gần đây, do đó nghiên cứu trong lĩnh vực này sẽ được hưởng tài trợ hơn 20 triệu USD, tăng 17,2% so với năm 2013. Lĩnh vực không gian có những dự án lớn được ngân sách tài trợ lên đến hơn 170 triệu USD cho chương trình tên lửa đẩy (KSLV) và chương trình phát triển một vệ tinh khí tượng. Hàn Quốc có được những thành tựu vượt bậc về phát triển KH&CN, kinh tế là nhờ những định hướng đúng đắn từ rất sớm của Chính phủ Hàn Quốc trong thúc đẩy chi cho NC&PT. Doanh nghiệp chiếm khoảng 77% tổng chi cho NC&PT ở nước này. Chi cho NC&PT trong khu vực ASEAN Tổng chi quốc gia cho NC&PT (GERD) năm 2011 của Việt Nam là 5.293,95 tỷ VNĐ (theo giá thực tế). Với mức GERD như vậy, tỷ lệ chi cho NC&PT quốc gia trên tổng sản 52 phẩm trong nước (chỉ tiêu GERD/GDP) là gần 0,21%. Đây là một tỷ lệ rất thấp so với các nước phát triển và nhiều nước trong khu vực ASEAN. Tỷ lệ GERD/GDP của Việt Nam chỉ bằng 1/10 của Singapo (2,2%), 1/5 của Malaixia (1,1%), tương đương với Thái Lan năm 2007 (hiện nay tỷ lệ GERD/GDP của Thái Lan đã là 0,3%), cao hơn Inđônêxia (0,15%) và Philipin (0,11%). Xét về mức chi tuyệt đối thì chi cho NC&PT của Việt Nam còn thấp hơn do GDP của nước ta thấp hơn các nước (Bảng 16). GERD của Việt Nam nam 2011 khoảng 0,599 tỷ USD, so với 3,436 tỷ USD của Malaixia, 1,161 tỷ USD của Thái Lan, 1,305 tỷ USD của Inđônêxia. Ở các nước có nền kinh tế phát triển, doanh nghiệp là khu vực chính cấp kinh phí cho NC&PT, ngay cả Trung Quốc cũng đã có sự chuyển biến mạnh mẽ với tỉ lệ cấp tài chính cho NC&PT từ Chính phủ chỉ có 24,26%, còn từ doanh nghiệp là 77,35%. Trong khi ở Việt Nam, Nhà nước là nhà tài trợ chính cho NC&PT (chiếm 64%), doanh nghiệp chỉ chiếm khoảng 28% trong tổng chi. Nhiều nước ASEAN, tỷ lệ chi cho NC&PT của doanh nghiệp trong tổng chi quốc gia cho NC&PT cao hơn nhiều so với ở Việt Nam, chẳng hạn Singapo là 62,1%, Malaixia 56,7%, Philipin 56,9%, Thái Lan 41,2%. Tỷ lệ chi cho NC&PT của nước ngoài trong tổng chi cho NC&PT ở Việt Nam khoảng 4,47%, mức khá cao trong ASEAN, chỉ sau Singapo (5%), điều này thể hiện mức độ liên kết khá cao của Việt Nam trong đổi mới sáng tạo và hội nhập KH&CN. Chi cho NC&PT tính theo đầu người của Việt Nam chỉ khoảng 6,8 USD, cao hơn Inđônêxia (5,2 USD) và Philipin (3 USD), nhưng thấp hơn rất nhiều so với Singapo (1227,4 USD), Malaixia (117,6 USD) và Thái Lan (17,3 (USD). Nếu tính chi cho NC&PT trên mỗi nhà nghiên cứu thì Việt Nam thấp nhất trong ASEAN 6 (Bảng 15). Với mức đầu tư cho NC&PT (đầu vào) thấp như vậy, Việt Nam khó có thể tạo nên những đột phá về đầu ra (công bố khoa học và đăng ký sáng chế), cũng như có thể bắt kịp trình độ KH&CN các nước khác trong khu vực như Malaixia hay Thái Lan. Bảng 15. Tỷ lệ chi cho NC&PT quốc gia của Việt Nam và một số nước ASEAN khác Một số nước ASEAN Dân số (triệu người) GDP (tỷ USD, PPP) Tỷ lệ tổng chi quốc gia cho NC&PT (GERD/ GDP (%) GERD (tỷ USD) Tỷ lệ chi cho NC&PT của doanh nghiệp trong tổng chi cho NC&PT (%) Tỷ lệ chi cho NC&PT của nước ngoài trong tổng chi cho NC&PT Số nhà nghiên cứu tính theo đầu người Số nhà nghiên cứu tính theo đầu người trên 1 triệu dân Chi cho NC&PT tính trên mỗi nhà nghiên cứu (USD) Chi cho NC&PT tính theo đầu người (USD) Việt Nam (2011) 87,84 285,5 0,21 0,599 28,21 4,47 105.230 1.197,9 5.692,2 6,8 Singapo 5,3 295,7 2,2 6,505 62,1 5,0 38.802 7.321,2 167.645,9 1227,4 Malaixia 29,2 312,4 1,1 3,436 56,7 0,3 74.883 2.564,5 45.884,9 117,6 Thái Lan 66,8 387,2 0,3 1,161 41,2 1,0 38.810 581 29.914,9 17,3 Inđônêxia 246,9 870,3 0,15 1,305 42.763 173,2 30.517 5,2 Philipin 96,7 272 0,11 0,299 56,9 4,1 12.503 129,3 23.914,2 3,0 Nguồn: Global Innovation Index 2014, WIPO; Sách Khoa học và Công nghệ Việt Nam 2013. 53 KẾT LUẬN Thông qua các báo cáo về dự báo kinh tế thế giới năm 2015 của các tổ chức quốc tế có uy tín, có thể nhận thấy điểm chung là kinh tế toàn cầu năm 2015 sẽ tăng trưởng cao hơn so với năm 2014, một phần quan trọng là do kinh tế Hoa Kỳ sẽ tiếp tục được cải thiện trong hai năm 2015 và 2016, với mức tăng có thể đạt 3,2% theo WB, thậm chí 3,6% theo IMF, sau một thời gian duy trì được nhịp độ tăng trưởng ở mức hàng năm trên 2%. Theo WB, tăng trưởng của Việt Nam trong các năm 2015, 2016 và 2017 có thể đứng thứ 6 trong khu vực ASEAN, cao hơn Malaixia, Inđônêxia và Thái Lan. Mức tăng trưởng kinh tế của Việt Nam được dự báo là cao hơn so với mức trung bình của các nước đang phát triển, cũng như mức trung bình của thế giới. Trong thế giới phụ thuộc vào công nghệ ngày càng tăng của chúng ta, việc tiếp tục hỗ trợ mạnh mẽ chi cho NC&PT là điều cần thiết để duy trì và phát triển sức mạnh kinh tế của một quốc gia. Điều đã được khẳng định là sự thay đổi công nghệ đang được đẩy nhanh và nếu không có các công cụ, tri thức và chuyên môn để nắm bắt những thay đổi, thì một quốc gia sẽ nhanh chóng tụt hậu phía sau những nước đầu tư vào đổi mới sáng tạo. Điều quan trọng cần lưu ý là những ảnh hưởng lâu dài của chi cho NC&PT và mối quan hệ gần gũi của nó đối với tăng trưởng kinh tế. Nhiều quốc gia như Trung Quốc và khu vực EU đã thiết lập các mục tiêu dài hạn về tỷ lệ chi cho NC&PT/GDP. Tình hình tăng trưởng kinh tế được coi là có tác động trực tiếp tới chi cho NC&PT. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao thường đi kèm với tỷ lệ chi cao cho NC&PT và tỷ lệ tăng trưởng NC&PT thường cao hơn tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là ở các nền kinh tế mới nổi, điển hình nhất là ở Trung Quốc với mức tăng trưởng chi cho NC&PT từ hơn một thập kỷ nay luôn ở mức hai con số. Tình hình đầu tư cho NC&PT của một số nước như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và một số nước EU vẫn nổi bật toàn cầu và đang giữ một vai trò dẫn dắt đầu tư cho NC&PT của thế giới. Trong thế giới ngày nay, trình độ và năng lực KH&CN của một quốc gia là yếu tố quyết định quyết định năng lực cạnh tranh quốc tế. Việc ứng dụng nhanh chóng những đổi mới công nghệ, cũng như tận dụng có hiệu quả những thành tựu mới nhất của NC&PT trong các lĩnh vực công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao, đã và đang đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu kinh tế quốc gia và quốc tế. Mặc dù sẽ còn nhiều khó khăn và thách thức lâu dài đối với kinh tế toàn cầu, nhưng chi cho NC&PT, đổi mới sáng tạo sẽ vẫn tiếp tục tăng trưởng. Điều đó cho thấy tầm quan trọng ngày càng tăng của NC&PT, bởi chỉ có nó mới có thể sẽ giúp cho nền kinh tế của mỗi quốc gia cũng như kinh tế toàn cầu tăng trưởng ổn định và bền vững trong tương lai. Các chuyên gia đều thừa nhận, dù NC&PT không phải là một công cụ có thể nhanh chóng kích hoạt ngay được sự tăng trưởng kinh tế, nhưng nếu có chính sách và chi cần thiết cho NC&PT thì nó sẽ giúp một nền kinh tế tránh tụt hậu hoặc có thể duy trì và nâng cao sức cạnh tranh trong tương lai. KH&CN, thông qua yếu tố TFP, đặc biệt là các ngành công nghiệp và dịch vụ KTI, có xu hướng đóng góp ngày càng lớn vào tăng trưởng kinh tế. Biên soạn: ThS. Phùng Anh Tiến ThS. Nguyễn Hồng Hạnh CN. Nguyễn Thu Trang 54 Tài liệu tham khảo chính 1. Battelle. R&D Magazine. International Monetary Fund. World Bank. CIA World Factbook, 12/2013; 2. Global Economic Prospects, 1/2015, WB; 3. OECD Science, Technology and Industry Outlook 2014; 4. Sách Khoa học và Công nghệ Việt Nam 2013; 5. Science and Engineering Indicators 2014; 6. The Global Innovation Index 2014, WIPO; 7. World Economic Outlook, 1/2015, IMF; 8. World Economic Situation and Prospects 2015, 1/2015, 12/2014, UN.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftai_lieu_khoa_hoc_va_cong_nghe_trong_nen_kinh_te_va_du_bao_k.pdf