Những cải cách theo hướng như trên sẽ không ảnh hưởng tới hoạt động hiện nay của
khu vực hộ kinh doanh, tránh được tình trạng buộc phải chuyển đổi hoặc lên đời thành
doanh nghiệp vốn không được hưởng ứng mạnh mẽ trong thời gian vừa qua do những
bất cập về chi phí tuân thủ và yêu cầu tuân thủ các quy định quá ngặt nghèo sau khi
chuyển đổi. Các cải cách theo các đề xuất ở trên sẽ có ý nghĩa dọn chỗ và tạo không gian
thuận lợi để các hộ kinh doanh lựa chọn, tự quyết định chuyển sang mặc một tấm áo mới
phù hợp hơn, rộng rãi hơn, thuận lợi hơn cho sự phát triển của mình. Quá trình chính
thức hóa và cải cách khu vực hộ kinh doanh cá thể sẽ được thực hiện một cách tự nguyện,
trên cơ sở tôn trọng quyền lựa chọn của các chủ hộ kinh doanh, song vẫn đảm bảo được
các mục tiêu nhằm nâng cao tính chính thức của nền kinh tế. Các biện pháp này đồng
thời cũng phù hợp với thông lệ quốc tế.
Những cải cách này cũng phù hợp với những cải cách và xu thế khác trong Bộ Luật
Dân sự, các quy định và luật về ngân hàng, thuế vốn cũng đang được điều chỉnh nhằm
phù hợp với thực tiễn về hộ kinh doanh. Đặc biệt, các khái niệm, đinh nghĩa sẽ rõ ràng,
phương pháp tiếp cận về phân loại doanh nghiệp, quản lý kinh doanh sẽ rõ ràng và mạch
lạc hơn. Lợi thế rất quan trọng của hình thức pháp lý về loại hình doanh nghiệp cá thể/
doanh nghiệp một chủ (sole proprietership) sẽ được phát huy, tạo điều kiện thuận lợi
hơn nữa cho việc đẩy mạnh tinh thần khởi nghiệp của người dân, đóng góp cho mục
tiêu một triệu doanh nghiệp đang hoạt động của Việt Nam trong một vài năm tới như đã
đặt ra tại Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân. Đặc
biệt, các cải cách này sẽ góp phần quan trọng cho việc thu hẹp khu vực không chính thức
của nền kinh tế, nâng cao năng suất và hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân.
103 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 271 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu Kinh tế tư nhân Việt Nam - Năng suất và thịnh vượng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chính và khả năng kết nối với chuỗi cung ứng toàn cầu.
110. Cần có một chính sách khẳng định rõ ràng về việc các doanh nghiệp tư nhân
trong nước sẽ là trụ cột của nền kinh tế quốc dân và của năng lực cạnh tranh quốc
gia. Những ồn ào về sự tăng trưởng vượt bậc của khu vực kinh tế tư nhân đã che lấp một
thực tế rằng các doanh nghiệp tư nhân trong nước thuộc khu vực được đăng ký chính
thức mới chỉ đóng góp vỏn vẹn 8,2% GDP. Phần lớn của mức đóng góp 38,64% vào GDP
bởi khu vực kinh tế tư nhân là từ các hộ kinh doanh – vốn vẫn đang bị coi là thuộc khu
vực không chính thức. Với khu vực DNNN ngày một chiếm tỷ trọng nhỏ hơn do quá trình
cải cách DNNN, rõ ràng là khu vực doanh nghiệp tư nhân cần phải tăng trưởng nhanh
hơn, hiệu quả hơn, với năng suất cao hơn nhằm tránh tình trạng nền kinh tế sẽ bị phụ
thuộc quá nhiều vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực hộ kinh doanh có mức
năng suất thấp hơn.
111. Trong nội bộ khu vực doanh nghiệp, cần có các biện pháp chính sách nhằm
thúc đẩy quá trình tái phân bổ nguồn lực giữa những khu vực doanh nghiệp có khả
năng sử dụng nguồn lực (vốn, lao động, đất đai) hiệu quả hơn. Các chính sách về phát
triển kinh tế tư nhân, khu vực doanh nghiệp được đăng ký chính thức cần được đi kèm
với các chính sách nhằm thúc đẩy quá trình tái phân bổ nguồn lực này. Cải cách DNNN,
chính thức hóa hộ kinh doanh, chính thức hóa hoạt động kinh doanh không chính thức
KINH TẾ TƯ NHÂN VIỆT NAM Năng suất và Thịnh vượng 83
là những chuyển đổi cần thiết nhằm phân bổ nguồn lực sang những khu vực có mức độ
sử dụng hiệu quả cao hơn, và nhờ đó có thể cải thiện năng suất chung và năng lực cạnh
tranh tổng thể của khu vực kinh tế tư nhân.
112. Phát huy tiềm năng của khu vực hộ kinh doanh bằng các biện pháp thích hợp
sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt động và năng suất
của khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam. Các nỗ lực nhằm khuyến khích hộ kinh doanh
đăng ký thành doanh nghiệp là hướng đi đúng đắn. Tuy nhiên, các nỗ lực đó cần được
thực hiện trên cơ sở cân nhắc một cách thận trọng thực tế là phần lớn các hộ kinh doanh
là có quy mô siêu nhỏ và chủ yếu hoạt động vì mục đích mưu sinh. Việc yêu cầu các hộ
kinh doanh lớn, có rủi ro cao về thuế, những hộ hiện đang lợi dụng những quy định chưa
chặt chẽ về thuế áp dụng đối với hộ kinh doanh nhằm mục đích tránh thuế, phải đăng ký
chuyển đổi thành doanh nghiệp và áp dụng các chế độ kế toán, báo cáo tài chính minh
bạch, rõ ràng hơn là cần thiết và hoàn toàn có thể lý giải được. Tuy nhiên, các biện pháp
vội vã nhằm buộc tất cả các hộ kinh doanh, bất kể thực trạng và đặc điểm vô cùng đa
dạng của những nhóm hộ kinh doanh khác nhau, chính thức hóa và chuyển đổi thành
doanh nghiệp có thể khiến nhiều hộ kinh doanh buộc phải ngừng kinh doanh và do vậy
các biện pháp này có thể sẽ phản tác dụng. Quá trình chính thức hóa cần tính đến tính
đa dạng và những đặc điểm vô cùng khác biệt của các nhóm khác nhau trong khu vực hộ
kinh doanh. Cần thực hiện một số những cải cách về quy định pháp luật nhằm xác định
một hình thức doanh nghiệp, hình thức pháp lý phù hợp nhất để hộ kinh doanh có thể
chuyển đổi sang, với nguyên tắc là hình thức pháp lý đó phải đảm bảo được chi phí hoạt
động, chi phí tuân thủ pháp lý, chi phí thuế ở mức thấp nhất, hợp lý nhất đối với bản chất
và quy mô hoạt động của hộ kinh doanh như hiện nay. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy
hình thức doanh nghiệp cá thể/doanh nghiệp một chủ (sole proprietorship) là hết sức phù
hợp đối với các hộ kinh doanh của Việt Nam, và hình thức này nên tiếp tục được nghiên
cứu và áp dụng nhằm hỗ trợ cho quá trình cải cách khu vực hộ kinh doanh, khuyến khích
các hộ kinh doanh đăng ký chuyển đổi thành doanh nghiệp ở Việt Nam, qua đó khu vực
này có thể đóng góp mạnh mẽ hơn cho việc tăng năng suất và thịnh vượng của khu vực
kinh tế tư nhân trong tương lai. Chương Chuyên đề của tài liệu này thảo luận sâu hơn các
vấn đề mà hộ kinh doanh đang gặp phải và đề xuất một số cải cách pháp lý và quy định
pháp luật cần thiết để hỗ trợ cho quá trình chính thức hóa hộ kinh doanh một cách hợp
lý, phù hợp với yêu cầu và thực trạng của hộ kinh doanh.
113. Các biện pháp chính sách nhằm tăng cường mối liên kết giữa các doanh nghiệp
trong nước, các doanh nghiệp FDI và DNNN cần được ban hành và thực thi. Các biện
pháp nhằm khuyến khích các doanh nghệp FDI và DNNN mua sắm hàng hóa, dịch vụ
hoặc hợp tác với, hoặc đặt hàng gia công từ các doanh nghiệp tư nhân cần được xây
dựng và ban hành. Một số nền kinh tế như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc)
KINH TẾ TƯ NHÂN VIỆT NAM Năng suất và Thịnh vượng84
đã thành công trong việc xây dựng mối liên kết như vậy sau khi áp dụng một số luật và
quy định nhằm thúc đẩy mối quan hệ liên kết, hợp tác đó39.
114. Thực trạng thiếu vắng các doanh nghiệp quy mô vừa (the missing middle) là
một vấn đề cần được ưu tiên giải quyết. Cơ cấu về doanh nghiệp tư nhân cần được
điều chỉnh để có một cấu trúc lành mạnh hơn, trong đó tỷ trọng các doanh nghiệp cỡ vừa
chiếm tỷ trọng cao hơn. Có nhiều hơn các doanh nghiệp cỡ vừa cũng đồng nghĩa với việc
có nhiều cơ hội hơn về các doanh nghiệp lớn lên về quy mô, trở thành doanh nghiệp lớn
trong tương lai trung hạn. Nhờ đó, sẽ có nhiều doanh nghiệp hơn có khả năng tận dụng
được những lợi thế từ hiệu quả nhờ quy mô (economy of scale) và có năng suất cao hơn.
Các doanh nghiệp cỡ vừa và lớn có năng lực và cơ hội lớn hơn để trở thành một phần
của chuỗi cung ứng toàn cầu, để kết nối và hợp tác với các doanh nghiệp FDI, DNNN và
xây dựng năng lực cạnh tranh của mình trên cơ sở kiến thức, vốn, nghiên cứu và phát
triển, công nghệ và sáng tạo hơn là chỉ phụ thuộc vào lao động giá rẻ và vào sử dụng
tài nguyên thiên nhiên như trường hợp của phần lớn các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ
hiện nay tại Việt Nam.
115. Các biện pháp nhằm xử lý hiện tượng thiếu vắng các doanh nghiệp quy mô vừa
(the missing middle) cần được hỗ trợ bởi các biện pháp và chính sách nhằm thúc
đẩy tích tụ vốn, khuyến khích sự tăng trưởng về quy mô của các doanh nghiệp tư
nhân. Các biện pháp chính sách cần chú trọng khuyến khích quá trình tích tụ vốn bằng
nguồn nội lực và bằng các phương thức mua bán, sát nhập, đầu tư cổ phiếu Cải thiện
khả năng sinh lời và khuyến khích các doanh nghiệp giữ lại lợi nhuận, tái đầu tư lợi nhuận
vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp có thể được thực hiện thông qua
các biện pháp nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, cải cách chính sách thuế, và qua
các nỗ lực xây dựng một văn hóa kinh doanh trong đó các doanh nghiệp tư nhân sẽ có
tầm nhìn dài hạn, có cam kết mạnh mẽ đối với việc phát triển bền vững, dài hạn và đối
với việc đóng góp cho giá trị xã hội và tiến bộ xã hội thông qua doanh nghiệp và hoạt
động kinh doanh của mình.
116. Chính sách phát triển doanh nghiệp cần ưu tiên vào việc nâng cao năng lực
của doanh nghiệp tư nhân trong việc ứng dụng và nâng cao trình độ công nghệ.
Công nghệ có thể được chuyển giao từ nước ngoài hoặc từ khu vực doanh nghiệp FDI.
Việc ứng dụng, nhận chuyển giao công nghệ một cách có chiến lược, kiên trì, liên tục và
thông minh sẽ dẫn đến tích lũy về bí quyết, công nghệ, kiến thức và sau đó là sáng tạo và
phát minh, sáng chế. Các doanh nghiệp tư nhân cũng cần được hỗ trợ để đảm bảo việc
ứng dụng công nghệ và kiến thức sẽ dẫn đến năng suất cao hơn, tăng trưởng mạnh mẽ
39 Ví dụ, Hàn Quốc ban hành Luật Giao dịch Công bằng trong Thầu phụ, Luật Khuyến khích Mua Sản phẩm của các
DNNVV, Luật về Thúc đẩy Quan hệ Hợp tác giữa doanh nghiệp lớn và DNNVV vì mục đích này.
KINH TẾ TƯ NHÂN VIỆT NAM Năng suất và Thịnh vượng 85
hơn. Quá trình tích tụ vốn cũng cần được hỗ trợ bởi các chính sách nhằm khuyến khích
doanh nghiệp đầu tư vào ứng dụng công nghệ mới, nghiên cứu và phát triển, tích lũy
và hình thành kiến thức mới và sáng tạo. Nhằm hỗ trợ hoạt động sáng tạo tại các doanh
nghiệp, nguồn ngân sách cho nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và phát triển cần được
phân bổ với mức độ lớn hơn nữa cho các doanh nghiệp và tổ chức thuộc khu vực tư
nhân. Cần thiết lập được một cơ chế minh bạch và hiệu quả cho việc phân bổ nguồn lực
cho hoạt động nghiên cứu này. Ngân sách cho hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên
cứu và phát triển phải được phân bổ dựa trên các tiêu chí về hiệu quả, năng lực, bất kể
đơn vị nghiên cứu và phát triển đó thuộc khu vực kinh tế nào. Cần có một chính sách rõ
ràng nhằm hỗ trợ sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp, đơn vị, viện nghiên
cứu khoa học và công nghệ tư nhân. Các quy định hiện hành cần được rà soát và cải cách
nhằm đảm bảo rằng các doanh nghiệp, viện hoặc trung tâm nghiên cứu khoa học công
nghệ sẽ có thể được thành lập một cách đơn giản hơn và có thể được công nhận một
cách dễ dàng và minh bạch hơn. Các doanh nghiệp và đơn vị nghiên cứu tư nhân cần
được đảm bảo cơ hội bình đẳng trong việc tiếp cận tới các nguồn ngân sách dành cho
hoạt động nghiên cứu khoa học của Chính phủ. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy các doanh
nghiệp và tổ chức nghiên cứu thuộc khu vực tư nhân tỏ ra rất hiệu quả trong việc thu
hút thêm nguồn vốn bổ sung từ chính khu vực tư nhân cho các hoạt đông nghiên cứu
khoa học, nghiên cứu phát triển, qua đó giúp nâng cao trình độ khoa học công nghệ của
quốc gia và trình độ ứng dụng khoa học công nghệ, sáng tạo tại khu vực doanh nghiệp.
117. Giáo trình giảng dạy và đào tạo về nội dung Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật
và Toán (STEM) cần được cập nhật và cải tiến liên tục. Mối quan hệ liên kết giữa các
trường đại học, cao đẳng và doanh nghiệp cần được tăng cường. Ứng dụng công nghệ,
sáng tạo và sử dụng nhiều hơn kiến thức và bí quyết công nghệ sẽ nâng cao mức độ tinh
vi trong hoạt động và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân. Nâng cao hiệu quả
của việc áp dụng các luật, quy định về quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả, thương hiệu
sẽ khuyến khích động cơ, mong muốn và khát vọng của khu vực tư nhân và các doanh
nghiệp trong các hoạt động cải tiến, sáng tạo và phát minh đồng thời thương mại hóa
những phát minh và sáng chế của họ trên thị trường.
118. Cùng với xu hướng của Công nghiệp 4.0, sự tăng trưởng của khu vực tư nhân
cần phải được dẫn dắt bởi các hoạt động sáng tạo, phải được hướng tới mục tiêu
năng suất cao hơn nhằm đảm bảo năng lực cạnh tranh vững chắc trong những thập
niên sắp tới. Các chương trình, sáng kiến nhằm hỗ trợ DNNVV, khu vực kinh tế tư nhân,
thay vì chủ yếu tập trung vào số lượng các doanh nghiệp được đăng ký hay số vốn được
đăng ký, cần chú trọng vào các chỉ số tác động như về giá trị gia tăng, hoạt động sáng
tạo và phát minh, sáng chế, năng suất, các tiến bộ về công nghệ, xã hội, môi trường và
sinh thái.
KINH TẾ TƯ NHÂN VIỆT NAM Năng suất và Thịnh vượng86
119. Khu vực kinh tế tư nhân cần chuẩn bị tốt hơn cho thực trạng già hóa dân số, về
việc thời kỳ “dân số vàng” sẽ sớm trôi qua và chi phí lao động ngày một tăng. Do các
doanh nghiệp trong khu vực tư nhân cho tới nay vẫn phần lớn dựa vào nguồn lực nhân
công giá rẻ và lực lượng lao động trẻ cho quá trình tăng trưởng của mình, doanh nghiệp
tư nhân cần sớm nhận thức được rằng những lợi thế này sẽ sớm qua đi, và họ cần nhanh
chóng có những bước chuyển mang tính chiến lược sang các mô hình tăng trưởng dựa
trên nền tảng hiệu quả - một mô hình sẽ sử dụng nhiều vốn, công nghệ và tri thức hơn là
phụ phuộc quá nhiều vào lao động và nguồn tài nguyên thiên nhiên.
120. Trong quá trình thiết kế các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp và khu vực kinh
tế tư nhân, cần ưu tiên chú trọng tới các chỉ số về tính hiệu quả và tác động của các
chương trình. Do nguồn lực hạn chế, các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp cần phải có
tính tập trung cao, đáp ứng được những nhu cầu có tính ưu tiên của các doanh nghiệp
tư nhân. Việc thiết kế và thực hiện các chính sách và chương trình hỗ trợ cần dựa trên
các bằng chứng và phân tích số liệu một cách khoa học, nghiêm túc. Hệ thống số liệu
thống kê, dữ liệu về doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp tư nhân nói riêng cần
được cải thiện. Bên cạnh đó, cần xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về khu
vực hộ kinh doanh nhằm có một bức tranh đầy đủ, tổng thể hơn về một bộ phận hết sức
quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân này. Thiếu các thông tin đầy đủ, chính xác về các
doanh nghiệp tư nhân và các hộ kinh doanh đã dẫn đến các quy định hay giải pháp có
tính chất “đồng phục”, áp dụng với tất cả đối tượng mà không cân nhắc tới các đặc điểm
riêng biệt và tính đa dạng của các nhóm doanh nghiệp khác nhau trong ngay cùng một
khu vực doanh nghiệp. Chỉ khi được xây dựng và thực hiện trên cơ sở các số liệu, bằng
chứng, thông tin chính xác thì các các chính sách và chương trình hỗ trợ đó mới có thể
đảm bảo được tính hiệu quả và tác động như mong muốn.
KINH TẾ TƯ NHÂN VIỆT NAM Năng suất và Thịnh vượng88
CHƯƠNG CHUYÊN ĐỀ
NÂNG CAO NĂNG SUẤT QUA CẢI CÁCH
KHU VỰC HỘ KINH DOANH
KINH TẾ TƯ NHÂN VIỆT NAM Năng suất và Thịnh vượng 89
Khu vực hộ kinh doanh đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế về nhiều
phương diện nhưng được coi là khu vực không chính thức hoặc bán chính thức. Các số
liệu thống kê cho thấy năng suất bình quân của khu vực hộ kinh doanh thấp hơn so với
các khu vực doanh nghiệp khác. Trong bối cảnh khu vực hộ kinh doanh hiện nay đang
chiếm 30.4% GDP của Việt Nam, cải thiện năng suất và nâng cao tính chính thức của khu
vực hộ kinh doanh sẽ có ý nghĩa hết sức to lớn đối với các nỗ lực thu hẹp khu vực không
chính thức của nền kinh tế đồng thời nâng cao năng suất của khu vực tư nhân nói riêng
và của toàn bộ nền kinh tế nói chung.
I. NGHỊCH LÝ QUAN SÁT TỪ THỰC TIỄN
Theo Tổng cục Thống kê, hiện nay trên toàn quốc có khoảng 4,9 triệu hộ kinh doanh.
Hình thức hộ kinh doanh được người dân đặc biệt ưa thích khi bắt đầu khởi nghiệp kinh
doanh. Năm 2016, có tới 150.000 hộ kinh doanh mới gia nhập thị trường được ghi nhận.
Con số này là 83.000 vào năm 2015 vào 135.000 vào năm 2014. Hộ kinh doanh được ưa
thích vì nó có thể được đăng ký dễ dàng với thủ tục vô cùng đơn giản và có thể đăng ký
ngay tại cơ quan chính quyền cấp huyện, thành phố. Các quy định yêu cầu về việc chế
độ kế toán, sổ sách hết sức đơn giản. Hộ kinh doanh không bị ràng buộc chặt chẽ bởi
các quy định và yêu cầu về bảo hiểm xã hội, ngành nghề kinh doanh có điều kiện, môi
trường, phòng cháy chữa cháy.
Hình 45: Số hộ kinh doanh tăng thêm mỗi năm
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2017)
Quan trọng nhất là hộ kinh doanh có thể áp dụng hình thức thuế khoán và do vậy có khả
năng “thỏa thuận với cơ quan thuế” và nhờ đó mức thuế thực tế phải đóng thường rất
thấp. Do vậy, mặc dù chiếm tới 30,4% GDP nhưng theo ước tính của Tổng Cục thuế, khu
vực này chỉ đóng góp khoảng 1,56% cho thu ngân sách Nhà nước.
135.293
83.487
155.001
0
20.000
40.000
60.000
80.000
100.000
120.000
140.000
160.000
2014 2015 2016
KINH TẾ TƯ NHÂN VIỆT NAM Năng suất và Thịnh vượng90
Mặc dù được ưa thích như vậy và tuy được đề cập trong Luật Doanh nghiệp, hộ kinh
doanh lại không được coi là một loại hình doanh nghiệp và do vậy được coi là thuộc khu
vực không chính thức hoặc bán chính thức. Luật Dân sự năm 2015 cũng đã không còn
quy định về hộ kinh doanh và không còn ghi nhận hộ kinh doanh là một chủ thể trong
giao dịch dân sự.
Trong khi đó, hình thức doanh nghiệp tư nhân (doanh nghiệp do một chủ sở hữu) được
ghi nhận là một hình thức trong Luật Doanh nghiệp và là một trong những hình thức
doanh nghiệp tư nhân đầu tiên được giới thiệu ở Việt Nam thông qua Luật Doanh nghiệp
Tư nhân 1990. Nhưng điều nghịch lý là trên thực tế tại Việt Nam, hình thức doanh nghiệp
này ngày một mất đi sự hấp dẫn và không còn là sự lựa chọn đối với người dân khi khởi
sự kinh doanh và khi đăng ký doanh nghiệp.
Hình 46: Số lượng và tỷ trọng doanh nghiệp tư nhân trong tổng số doanh nghiệp
đăng ký hàng năm vào đầu những năm 2000 và những năm gần đây
Nguồn: CIEM (2005), Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2017)
Nếu như những năm đầu của Luật Doanh nghiệp 1999, gần nửa các doanh nghiệp được
đăng ký đều đăng ký theo hình thức doanh nghiệp tư nhân (44,7% vào năm 2000, 35,9%
vào năm 2001), hiện nay chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ các doanh nghiệp lựa chọn hình thức
loại hình doanh nghiệp tư nhân khi đăng ký thành lập doanh nghiệp (3,9% vào năm 2016
và 2,47% vào năm 2017).
Đây rõ ràng là một điều nghịch lý, nhưng đang diễn ra trên thực tế. Hình thức doanh
nghiệp tư nhân, tuy được ghi nhận chính thức trong Luật Doanh nghiệp lại không được
ưa thích bằng hình thức hộ kinh doanh cá thể vốn không được ghi nhận là một hình thức
trong Luật Doanh nghiệp. Về góc độ quyền, doanh nghiệp tư nhân không khác nhiều so
6.468
7.100
6.532
5.345
4.295
3.133
44.79%
35.91%
30.35%
5.64%
3.90%
2.47%
0.00%
5.00%
10.00%
15.00%
20.00%
25.00%
30.00%
35.00%
40.00%
45.00%
50.00%
0
1.000
2.000
3.000
4.000
5.000
6.000
7.000
8.000
2000 2001 2002 2015 2016 2017
Số lượng Doanh nghiệp tư nhân Tỷ trọng của Doanh nghiệp tư nhân
KINH TẾ TƯ NHÂN VIỆT NAM Năng suất và Thịnh vượng 91
với hộ kinh doanh cá thể. Tuy nhiên về nghĩa vụ, doanh nghiệp tư nhân lại có nhiều trách
nhiệm hơn và phải tuân thủ đầy đủ các quy định đối với một doanh nghiệp đăng ký theo
Luật Doanh nghiệp. Do được quy định chung trong Luật Doanh nghiệp và Chương về
Doanh nghiệp Tư nhân không có các quy định riêng biệt, đủ cụ thể áp dụng đối với loại
hình doanh nghiệp này, các doanh nghiệp tư nhân vốn do một người làm chủ và quy mô
thường rất nhỏ, phải thực thi đầy đủ các nghĩa vụ về chế độ kế toán, báo cáo tài chính,
các quy định về bảo hiểm xã hội, và nộp thuế theo hệ thống sổ sách kế toán được thiết
lập theo đúng các quy định được áp dụng đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp,
không phân biệt theo quy mô, bản chất pháp lý và đặc điểm hoạt động. Chi phí tuân
thủ nhằm thực hiện các quy định này so với tổng doanh số do vậy là quá lớn đối với các
doanh nghiệp tư nhân. Điều này khiến hình thức doanh nghiệp tư nhân mất hoàn toàn
lợi thế so với hộ kinh doanh cá thể.
Theo quy định hiện hành, những người mong muốn đăng ký theo hình thức doanh
nghiệp tư nhân (doanh nghiệp cá thể) chỉ có thể đăng ký tại cơ quan đăng ký kinh doanh
cấp tỉnh (hiện Việt Nam có 63 doanh nghiệp ở 63 tỉnh). Điều này có nghĩa là khi đăng ký
doanh nghiệp theo hình thức doanh nghiệp tư nhân, người đăng ký kinh doanh thường
phải đến các trung tâm tỉnh, thành phố thường ở các xa địa bàn cư trú của họ, và do vậy
hết sức tốt kém. Mặc dù Hệ thống đăng ký doanh nghiệp quốc gia cho phép đăng ký trực
tuyến, nhưng đây vẫn không phải là điều thuận tiện đối với những người sống ở vùng
nông thôn, miền núi và vùng sâu vùng xa. Đăng ký trực tuyến chưa phù hợp với năng
lực và tâm lý của người dân ở vùng nông thôn, vùng xa. Trong khi đó, hộ kinh doanh có
thể được đăng ký với ngay tại các UBND cấp huyện (hiện có 713 đơn vị hành chính cấp
huyện). Điều này khiến cho việc đăng ký hộ kinh doanh thuận tiện và đỡ tốn kém hơn rất
nhiều, và đặc biệt là nó phù hợp với tâm lý của người dân. Do vậy, để giúp mọi người dễ
dàng đăng ký doanh nghiệp theo hình thức doanh nghiệp tư nhân, điều quan trọng là
cần có các cải cách về quy định và phân quyền nhằm cho phép người dân có thể đăng ký
hình thức doanh nghiệp tư nhân ngay tại tại ủy ban nhân dân huyện, như hiện đang áp
dụng đối với các hộ kinh doanh hiện nay.
Hơn nữa, khi so sánh với loại hình doanh nghiệp khác được quy định trong Luật Doanh
nghiệp, hình thức doanh nghiệp tư nhân rõ ràng là yếu thế hơn rất nhiều so với hình thức
công ty TNHH một thành viên. Công ty TNHH một thành viên cũng có thể do một cá
nhân làm chủ, song lại có tư cách pháp nhân và chủ sở hữu lại chỉ phải chịu trách nhiệm
hữu hạn trong phần vốn góp của mình. Doanh nghiệp tư nhân trước đây vốn được ưa
thích vì khả năng đăng ký là một chủ sở hữu, nay mất đi lợi thế này so với công ty TNHN vì
chủ doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ của doanh nghiệp
và doanh nghiệp tư nhân lại không có tư cách pháp nhân.
KINH TẾ TƯ NHÂN VIỆT NAM Năng suất và Thịnh vượng92
II. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy hình thức doanh nghiệp tư nhân (doanh nghiệp cá thể
hay doanh nghiệp một chủ) là một hình thức hết sức được ưa chuộng ở nhiều nước khác
nhau. Ví dụ như tại Liên minh Châu Âu (EU), trong số 2,3 triệu doanh nghiệp được thành
lập trong năm 2012, 1,6 triệu hay 70% được đăng ký dưới hình thức doanh nghiệp cá thể
(hay doanh nghiệp một chủ) hay cụ thể là hình thức doanh nghiệp tư nhân theo tên gọi
đối với loại hình doanh nghiệp này tại Việt Nam. Tỷ lệ này đặc biệt cao tại một số quốc
gia, ví dụ như tại Pháp là 92,3%, Ba Lan 86,9%, Hà Lan 86,4%, và Cộng hòa Séc là 86,1%
(EuroStat, 2013). Tại Hungary, trong số 450.733 doanh nghiệp đang hoạt động có tới
53% là dưới hình thức doanh nghiệp cá thể/doanh nghiệp một chủ (OECD, 2016). 73%
doanh nghiệp nhỏ ở Mỹ là dưới hình thức doanh nghiệp cá thể/doanh nghiệp một chủ
(US Small Business Administration, 2013). Trong khu vực Đông Nam Á, trong số 907.065
doanh nghiệp đăng ký tại Malaysia, có 554.900 doanh nghiệp hay 61,2% là dưới hình
thức doanh nghiệp cá thể/doanh nghiệp một chủ (SMECorp Malaysia, 2017).
Nghiên cứu và so sánh hình thức về doanh nghiệp cá thể tại các quốc gia này cho thấy họ
không có hình thức hộ kinh doanh. Song các doanh nghiệp cá thể/doanh nghiệp một chủ
này rất giống với với hình thức hộ kinh doanh tại Việt Nam. Điểm khác biệt là các doanh
nghiệp cá thể tại quốc gia này, đặc biệt là tại các quốc gia EU hoặc OECD, đều được đăng
ký chính thức. Các doanh nghiệp cá thể/một chủ này được đăng ký một cách rất dễ dàng
(tại chính quyền sở tại hoặc qua mạng) và chi phí tuân thủ các quy định pháp lý, chế độ
kế toán, báo cáo tài chính, đơn giản và gọn nhẹ hơn rất nhiều so với các loại hình công ty
khác do bản chất và quy mô của loại hình doanh nghiệp này. Do vậy, chi phí tuân thủ các
quy định pháp luật và mức thuế áp dụng đối với doanh nghiệp một chủ tại các quốc gia
này thấp ở một mức hợp lý, phù hợp với khả năng của các doanh nghiệp cá thể/doanh
nghiệp một chủ và cá nhân hay hộ gia đình kinh doanh. Đây là yếu tố quyết định tới tính
hấp dẫn của loại hình doanh nghiệp này và khiến phần lớn người dân khi tiến hành đăng
ký kinh doanh đã lựa chọn đăng ký chính thức theo hình thức doanh nghiệp một chủ (như
người dân tại Việt Nam đã lựa chọn hình thức hộ kinh doanh cá thể).
Rõ ràng điều này cho thấy một vấn đề thực tiễn cần phải được giải quyết. Yêu cầu từ thực
tế cho thấy cần những điều chỉnh và cải cách về mô hình doanh nghiệp tư nhân (doanh
nghiệp cá thể/doanh nghiệp một chủ) tại Việt Nam sẽ góp phần trả mô hình này về đúng
vị trí của nó để phát huy hết tiềm năng vô cùng to lớn của loại hình doanh nghiệp này.
Đặc biệt là nó có thể góp phần quan trọng cho việc cải cách khu vực hộ kinh doanh,
khuyến khích chính thức hóa một cách tự nguyện của khu vực hộ kinh doanh, nâng cao
tính chính thức của khu vực tư nhân, nâng cao năng suất và hiệu quả tổng thể của khu
vực kinh tế tư nhân nói riêng và của nền kinh tế nói chung.
KINH TẾ TƯ NHÂN VIỆT NAM Năng suất và Thịnh vượng 93
III. CÂU HỎI LỚN VỀ HÌNH THỨC HỘ KINH DOANH
Một câu hỏi lớn được đặt ra là liệu chúng ta có nên tiếp tục duy trì hai hình thức hộ kinh
doanh và doanh nghiệp tư nhân? Thực tiễn của Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế mách
bảo rằng câu trả lời là không nên. Việt Nam cần có một khái niệm thống nhất và thực
hiện các biện pháp cải cách đồng bộ nhằm tiến tới hình thành một khung pháp lý rõ
ràng, hợp lý và tạo tiền đề chắc chắn cho sự phát triển bền vững của các hộ kinh doanh
và cá nhân kinh doanh trong tương lai. Kết hợp quy định về hộ kinh doanh với mô hình
doanh nghiệp tư nhân hiện nay (doanh nghiệp một chủ/doanh nghiệp cá thể) là một giải
pháp khả thi và phù hợp. Việc hình thành một khái niệm thống nhất về hộ kinh doanh
và doanh nghiệp tư nhân trên cơ sở kết hợp thực tiễn hoạt động của hộ kinh doanh, các
doanh nghiệp tư nhân và các khái niệm pháp lý về doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh
sẽ nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của khu vực hộ kinh doanh, phát huy vai trò
của hình thức doanh nghiệp tư nhân. Đây cần được coi là một trong những hành động
ưu tiên nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả hoạt động, nâng cao tính chính thức của
khu vực hộ kinh doanh nói riêng và của khu vực kinh tế tư nhân trong thời gian tới.
IV. ĐỀ XUẤT CẢI CÁCH ĐỐI VỚI KHU VỰC HỘ KINH DOANH
Việc kết hợp các điểm mạnh của hai loại hình doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh sẽ
có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với việc phát triển doanh nghiệp nói chung, phát triển và
cải cách, chính thức hóa khu vực hộ kinh doanh nói riêng. Như vậy, các cải cách khu vực
hộ kinh doanh sẽ gắn chặt với việc phát triển hình thức doanh nghiệp tư nhân (bản chất
là doanh nghiệp cá thể hay doanh nghiệp một chủ), và có thể được thực hiện như sau:
Trước tiên, cần xác định một tên gọi phản ánh đúng bản chất của loại hình doanh nghiệp
tư nhân hiện nay. Thuật ngữ doanh nghiệp tư nhân như quy định hiện nay trong Luật
Doanh nghiệp là khó hiểu, không phản ánh đúng bản chất của loại hình doanh nghiệp
này, gây nhầm lẫn trên thực tế và gây khó khăn cho quá trình thực hiện. Các tên gọi thay
thế có thể là doanh nghiệp cá thể hoặc doanh nghiệp một chủ (như tạm gọi tại các phần
dưới đây).
Trong quá trình sửa đổi Luật Doanh nghiệp và các nghị định thi hành Luật Doanh nghiệp
trong thời gian tới, cần thay thế tên gọi của hình thức doanh nghiệp tư nhân với tên gọi
mới này. Đồng thời sẽ không còn có các quy định về hộ kinh doanh nữa, hướng tới mục
đích hợp nhất khái niệm về hộ kinh doanh với doanh nghiệp cá thể. Cũng cần lưu ý rằng
hiện nay Bộ Luật Dân sự cũng không còn đề cập tới khái niệm về hộ kinh doanh và hộ
kinh doanh cũng không còn được coi là một chủ thể trong các giao dịch dân sự. Nhiều
văn bản quy phạm pháp luật trong các ngành khác, ví dụ như ngành ngân hàng, cũng đã
được sửa đổi để phù hợp với định hướng mới này của Bộ Luật Dân sự.
Với quy định này, các hộ kinh doanh hiện tại sẽ tiếp tục hoạt động một cách bình thường.
Đặc biệt, không tiến hành các biện pháp nhằm buộc các hộ kinh doanh chuyển đổi thành
KINH TẾ TƯ NHÂN VIỆT NAM Năng suất và Thịnh vượng94
doanh nghiệp, kể cả hình thức doanh nghiệp một chủ ít nhất trong vòng 5 năm sau khi
các quy định mới này có hiệu lực. Trong thời gian này, việc bắt buộc chuyển đổi thành
doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp chỉ áp dụng đối với hộ kinh doanh lớn, có quy
mô lao động và doanh thu đáng kể nhằm đảm bảo sự công bằng trong môi trường kinh
doanh. Sẽ không có bất kỳ quy định nào bắt buộc các hộ kinh doanh khác, đặc biệt là
các hộ kinh doanh quy mô nhỏ, hoạt động để kiếm sống, phải chuyển đổi thành doanh
nghiệp trong giai đoạn năm năm này, kể cả là thành hình thức doanh nghiệp cá thể.
Việc khuyến khích các hộ kinh doanh đăng ký lại thành doanh nghiệp, đặc biệt là theo
hình thức doanh nghiệp cá thể/doanh nghiệp một chủ (giả định như việc sửa đổi Luật
Doanh nghiệp lựa chọn một trong hai tên gọi này) hoặc bất kỳ một hình thức doanh
nghiệp khác được thực hiện theo hình thức tự nguyện.
Trong thời gian đầu (có thể là 5 năm), các hộ kinh doanh mới thành lập khi đăng ký thành
lập sẽ có thể tiếp tục được lựa chọn đăng ký là hộ kinh doanh song sẽ được tư vấn và
khuyến khích đăng ký theo hình thức doanh nghiệp cá thể/doanh nghiệp một chủ, và
được khuyến cáo là sau 5 năm kể từ ngày quy định mới của Luật Doanh nghiệp, sẽ chỉ còn
hình thức doanh nghiệp cá thể/doanh nghiệp một chủ và không còn hình thức hộ kinh
doanh. Vì vậy khi cân nhắc giữa hình thức hộ kinh doanh hay doanh nghiệp cá thể, hình
thức kinh doanh cá thể sẽ được coi là một sự lựa chọn hiển nhiên tốt hơn.
Hình 47: Kim tự tháp về Hộ Kinh doanh ở Việt Nam
Nguồn: Tác giả xây dựng trên cơ sở dữ liệu của Tổng Cục Thống kê, Tổng cục Thuế (2018)
102.095
có doanh thu
hàng năm hơn
1 tỷ đồng
Nên được chính thức hóa, chuyển đổi
bắt buộc thành doanh nghiệp
theo Luật Doanh nghiệp trong thời gian
sớm nhất có thể.
1,5 triệu
được đăng ký với cơ quan thuế
ở cấp huyện nhưng vẫn được
phân loại thuộc khu vực
không chính thức
3,15 triệu
Hộ kinh doanh khác, bao gồm các hộ
chưa được đăng ký do việc thực thi các quy định pháp luật
chưa chặt chẽ và do các lý do khác & các hộ kinh doanh
thu nhập thấp, thuộc đối tượng không bị bắt buộc
phải đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật.
M
ức
đ
ộ
sẵ
n
sà
ng
c
ho
c
hí
nh
th
ức
h
óa
Nên được chính thức hóa,
chuyển đổi thành doanh
nghiệp với các biện pháp
khuyến khích, thuyết phục đi
kèm và sau khi thực hiện
xong các giải pháp cải cách
như đề xuất tại Chương
Chuyên đề này.
KINH TẾ TƯ NHÂN VIỆT NAM Năng suất và Thịnh vượng 95
Tuy nhiên, nguyên tắc số một và mang tính tiên quyết để khuyến khích và khuyến cáo
người dân đăng ký theo hình thức doanh nghiệp cá thể/doanh nghiệp một chủ thay vì
hộ kinh doanh là phải đảm bảo rằng các gánh nặng về chí phí tuân thủ, gánh nặng về
pháp lý, về thuế áp dụng đối với các doanh nghiệp cá thể/doanh nghiệp một chủ sẽ
không cao hơn nhiều, thậm chí phải ngang bằng, so với mức mà các hộ kinh doanh hiện
nay. Đồng thời phải kết hợp được các lợi thế của hình thức doanh nghiệp tư nhân theo
quy định hiện nay với các lợi thế của hộ kinh doanh. Chỉ khi nguyên tắc này được đảm bảo
mới nên thực hiện các quy định mới về hộ kinh doanh hay doanh nghiệp cá thể như gợi ý
ở trên. Các biện pháp để đảm bảo nguyên tắc có tính tiên quyết này bao gồm:
• Ngoài việc khẳng định lại về bản chất pháp lý của doanh nghiệp cá thể/doanh
nghiệp một chủ, Luật Doanh nghiệp cần bổ sung các quy định tại Chương hiện nay
về doanh nghiệp tư nhân, đảm bảo rằng các doanh nghiệp tư nhân (doanh nghiệp
cá thể/doanh nghiệp một chủ) sẽ không phải thực hiện như các loại hình doanh
nghiệp khác trong Luật Doanh nghiệp về chế độ kế toán, chế độ thông tin báo cáo,
bảo hiểm xã hội. Doanh nghiệp cá thể/doanh nghiệp một chủ có thể thực hiện chế
độ kế toán đơn giản có thể thực hiện giống như tại các các hộ kinh doanh hiện nay
tuy với mức độ minh bạch và chính thức cao hơn.
Nói một cách ngắn gọn là cần rà soát và điều chỉnh các văn bản pháp luật có liên
quan nhằm đảm bảo chi phí tuân thủ các quy định pháp luật và chi phí tuân thủ về
thuế, nộp thuế áp dụng với doanh nghiệp cá thể/doanh nghiệp một chủ sẽ ở mức
thấp như mức mà các hộ kinh doanh hiện nay đang phải chi trả để đảm bảo tính
hấp dẫn của loại hình doanh nghiệp tư nhân (doanh nghiệp cá thể/doanh nghiệp
một chủ). Một nghiên cứu của Economica Vietnam thực hiện năm 2017 cho biết đối
với một hộ kinh doanh có quy mô 10 lao động khi chuyển đổi thành doanh nghiệp,
chi phí tuân thủ tối thiểu lập tức sẽ tăng thêm là 181,2 triệu nếu như áp dụng theo
đúng các quy định hiện nay của Luật Doanh nghiệp và các quy định pháp luật có
liên quan. Doanh nghiệp tư nhân (doanh nghiệp cá thể/doanh nghiệp một chủ)
cũng phải chịu một mức chi phí đúng như vậy do Luật Doanh nghiệp và các luật có
liên quan không có quy định riêng về các nghĩa vụ pháp lý đối với loại hình doanh
nghiệp này, mặc dù quy mô và bản chất của loại hình doanh nghiệp này rất gần với
hộ kinh doanh và khác xa so với các hình thức doanh nghiệp cổ phần, công ty TNHH
nhiều thành viên. Quy định áp dụng không tính đến sự khác biệt này khiến cho mức
chi phí tuân thủ của các doanh nghiệp tư nhân trở nên quá cao so với mức chi phí
tuân thủ mà các hộ kinh doanh hiện nay đang phải chịu.
KINH TẾ TƯ NHÂN VIỆT NAM Năng suất và Thịnh vượng96
• Song song với quá trình này, sẽ tiến hành phân quyền việc đăng ký doanh nghiệp
tư nhân xuống 713 đơn vị hành chính cấp huyện trên toàn quốc. Hệ thống thông
tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia cần được điều chỉnh và sửa đổi để các cán bộ
thuộc phòng chức năng chịu trách nhiệm đăng ký kinh doanh tại 713 quận, huyện,
thành phố, thị xã trên cả nước có thể thực hiện đăng ký doanh nghiệp cá thể/
doanh nghiệp một chủ (doanh nghiệp tư nhân như quy định hiện nay)40. Do vậy,
việc đăng ký hộ kinh doanh và đăng ký doanh nghiệp tư nhân sẽ có thể được thực
hiện tại cùng một địa điểm, do cùng một cán bộ thụ lý hồ sơ. Điều này sẽ tạo điều
kiện thuận lợi hơn, giúp cán bộ thụ lý hồ sơ có thể dễ dàng tư vấn và khuyến khích
người dân khi đi đăng ký hộ kinh doanh chuyển sang đăng ký theo hình thức doanh
nghiệp tư nhân (doanh nghiệp cá thể) thay vì ý định ban đầu là hộ kinh doanh. Nếu
người dân đó đồng ý, cán bộ thụ lý hồ sơ cũng có thể tiến hành các thủ tục đăng ký
kinh doanh theo hình thức doanh nghiệp tư nhân (doanh nghiệp cá thể) ngay lập
tức cho người dân, với các thủ tục và giấy tờ không khác so với hình thức đăng ký hộ
kinh doanh cá thể, và không bắt buộc người dân đó phải đến phòng đăng ký kinh
doanh cấp tỉnh, thành phố theo như các quy định hiện nay.
• Bên cạnh đó, hồ sơ đăng ký đơn giản, dễ dàng như áp dụng đối với hộ kinh doanh
cá thể. Trên thực thế, việc đăng ký qua mạng thông qua Cổng Thông tin Đăng ký
Quốc gia ngày càng trở nên phổ biến, việc phân quyền này là hết sức cần thiết vì
các hộ kinh doanh/cá nhân kinh doanh nhỏ lẻ có thể dễ dàng đến các huyện, quận,
thành phố đăng ký. Điều này hết sức quan trọng về phương diện tâm lý vì họ không
cảm thấy sự khác biệt so với đăng ký hộ kinh doanh như trước đây. Nay thay vì đăng
ký hộ kinh doanh thì họ đăng ký thành doanh nghiệp cá thể hay doanh doanh
nghiệp một chủ. Với sự phân quyền này, người dân có thể đến cũng một địa điểm,
gặp cũng một cán bộ thụ lý hồ sơ, thực hiện cũng một quy trình, cung cấp cũng một
số giấy tờ theo quy định, và sẽ được cấp giấy đăng ký kinh doanh một cách thuận
tiện và nhanh gọn. Sự khác biệt sẽ không lớn đối với người đi đăng ký kinh doanh,
ngoài tên gọi là doanh nghiệp cá thể hay doanh nghiệp một chủ thay vì tên gọi là hộ
kinh doanh được ghi trong giấy đăng ký kinh doanh.
40 Thông lệ tại nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ cho thấy doanh nghiệp cá thể, doanh nghiệp một chủ (sole
proprietorship) và công ty hợp danh (partership) được đăng ký ở cơ quan quản lý, và chính quyền ở cấp thấp hơn
và gần gũi với người dân hơn và tương đương với đơn vị hành chính cấp huyện của Việt Nam, ví dụ như tại Mỹ,
Pháp (đăng ký với Phòng Thương mại địa phương), Sri Lanka. Tại nhiều quốc gia, doanh nghiệp cá thể/ doanh
nghiệp một chủ khi được thành lập không đòi hỏi phải được đăng ký mà chỉ phải trải qua hình thức thông báo về
sự thành lập thông qua hình thức trực tuyến (ví dụ như tại Anh).
KINH TẾ TƯ NHÂN VIỆT NAM Năng suất và Thịnh vượng 97
• Trong thời gian đầu áp dụng (có thể là 5 năm và có thể coi là giai đoạn chuyển đổi),
các doanh nghiệp cá thể/một chủ sẽ được áp dụng mức thuế khoán giống như các
hộ kinh doanh hiện nay41. Trong thời gian này, các quy định về thuế sẽ được điều
chỉnh để các doanh nghiệp một chủ sẽ áp dụng hình thức khai thuế đơn giản, dễ
thực hiện và không khiến cho mức nộp thuế của các hộ kinh doanh tăng quá cao.
Tại các quốc gia khác, chủ doanh nghiệp cá thể/doanh nghiệp một chủ có thể sẽ
tuân thủ các quy định về thuế theo luật thuế thu nhập cá nhân. Các chủ doanh
nghiệp một chủ cũng có thể thực hiện hình thức khai thuế hàng năm giống như
đối với một cá nhân, và do vậy giảm bớt rất nhiều về các quy định về chế độ báo cáo
tài chính, báo cáo thuế, tần suất nộp báo cáo. Các cải cách về thuế đối với doanh
nghiệp cá thể/doanh nghiệp một chủ ở Việt Nam cũng nên cân nhắc các nguyên
tắc chung và thông lệ quốc tế này để có các cải cách hợp lý đối với các doanh
nghiệp cá thể/doanh nghiệp một chủ ở Việt Nam.
• Sau thời hạn 5 năm sau khi quy định mới về doanh nghiệp cá thể/doanh nghiệp
tư nhân theo sửa đổi của Luật Doanh nghiệp có hiệu lực, người dân khi đăng ký
hộ kinh doanh sẽ chỉ có thể đăng ký theo hình thức doanh nghiệp cá thể/doanh
nghiệp tư nhân. Trước đó, các quy định về chế độ kế toán, về chế độ báo cáo, chế
độ thuế, bảo hiểm xã hội đã kịp thời được sửa đổi để đảm bảo người dân khi hoạt
động theo hình thức doanh nghiệp cá thể/doanh nghiệp một chủ sẽ được hưởng
những quy định tốt nhất nhằm đảm bảo chi phí tuân thủ các quy định pháp luật, chi
phí thuế, BHXH không tăng quá nhiều, không gây xáo trộn tới hoạt động sản xuất
kinh doanh của các hộ kinh doanh. Nó cũng không làm ảnh hưởng hay làm nhụt chí
những người có ý định khởi nghiệp theo hình thức hộ kinh doanh. Bằng cách này,
các hộ kinh doanh và người dân mong muốn đăng ký kinh doanh theo hình thức hộ
kinh doanh sẽ sẵn sàng hơn, đồng thuận cao hơn với việc đăng ký chính thức theo
Luật Doanh nghiệp vì khi đó hình thức doanh nghiệp cá thể đã được cải tiến này sẽ
thực sự trao cho họ hình thức doanh nghiệp thuận tiện, chi phí thấp và được công
nhận chính thức để khởi nghiệp và kinh doanh.
41 Điều này dẫn đến một câu hỏi khác về ứng xử như thế nào đối với các doanh nghiệp tư nhân hiện tại đã được
đăng ký theo Luật Doanh nghiệp - những doanh nghiệp đã áp dụng toàn bộ hệ thống kế toán và sổ kế toán, thực
hiện chế độ thuế, mức thuế thủ tục nộp thuế thông thường. Ngoài ra, một số người có thể tiến hành đăng ký
doanh nghiệp theo hình thức doanh nghiệp cá thể nhằm lợi dụng quy định mới về thuế này. Như vậy rõ ràng là
các quy định sắp tới về doanh nghiệp cá thể sẽ phải quy định rõ về định nghĩa, đặc điểm pháp lý, tiêu chí và các
hạn chế của loại hình doanh nghiệp này. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp tư nhân hiện tại đã được đăng ký theo
Luật Doanh nghiệp có thể được rà soát. Một số doanh nghiệp có thể được khuyến khích để chuyển đổi thành
hình thức doanh nghiệp khác như công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Họ cũng có thể duy trì
hình thức doanh nghiệp tư nhân như hiện tại hưởng lợi từ các quy định thuế mới áp dụng đối với doanh nghiệp
cá thể, nhưng sẽ được thông báo đầy đủ về các hạn chế của hình thức doanh nghiệp một chủ khi hoạt động sản
xuất kinh doanh. Cách tiếp cận tổng thể là để cung cấp cho không gian và tôn trọng quyền tự do lựa chọn cho
các chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp cá thể nói riêng và cho các doanh nghiệp nói chung.
KINH TẾ TƯ NHÂN VIỆT NAM Năng suất và Thịnh vượng98
• Các hộ kinh doanh cá thể hiện đang hoạt động không bị yêu cầu phải đăng ký lại
hoặc chuyển đổi thành doanh nghiệp (trừ các hộ kinh doanh lớn và có rủi ro về
thuế như đề cập ở trên) trong thời hạn 5 năm. Trong thời hạn 5 năm, nếu các hộ
kinh doanh đăng ký lại sẽ được khuyến khích và tư vấn đăng theo hình thức doanh
nghiệp tư nhân hoặc một hình thức doanh nghiệp khác theo Luật Doanh nghiệp
phù hợp với nhu cầu của hộ kinh doanh đó. Nếu không mong muốn, họ vẫn có thể
đăng ký theo hình thức hộ kinh doanh như bình thường. Trong quá trình 5 năm này,
các quy định pháp luật về thuế, BHXH áp dụng đối với doanh nghiệp cá thể/doanh
nghiệp một chủ sẽ được cải cách nhằm đảm bảo tính đồng bộ, minh bạch, phù hợp
với thông lệ quốc tế nhưng vẫn kiên trì nguyên tắc đảm bảo chi phí tuân thủ, mức
thuế phải nộp sẽ phù hợp và tương tự với mức mà các hộ kinh doanh hiện nay đang
gánh chịu.
• Sau 5 năm, khi các điều kiện đã đầy đủ và các quy định về doanh nghiệp cá thể/
doanh nghiệp một chủ đã rõ ràng hơn, các hộ kinh doanh sẽ được tự động chuyển
đổi thành doanh nghiệp cá thể/doanh nghiệp một chủ42. Việc chuyển đổi này cũng
sẽ không yêu cầu các chủ hộ kinh doanh hiện nay phải tới các quận, huyện, thành
phố làm thủ tục chuyển đổi hay đăng ký lại. Việc chuyển đổi sẽ được thực hiện tự
động trên cơ sở dữ liệu của các cơ quan đăng ký kinh doanh (trên cơ sở sát nhập cơ
sở dữ liệu về hộ đăng ký kinh doanh hiện tại với cơ sở dữ liệu doanh nghiệp). Giấy
đăng ký hộ kinh doanh sẽ được điều chỉnh lại tên gọi thành giấy đăng ký doanh
nghiệp cá thể hoặc doanh nghiệp một chủ. Các hộ kinh doanh sẽ bắt đầu thực hiện
các quy định mới được xây dựng đối với doanh nghiệp cá thể/doanh nghiệp một
chủ mà trước đó đã được xây dựng theo hướng đồng bộ, minh bạch và phù hợp với
thông lệ quốc tế đối với cá cá nhân kinh doanh, hộ kinh doanh song vẫn đảm bảo
nguyên tắc chi phí tuân thủ ở mức tối thiểu, không quá cao hơn so với mức chi phí
tuân thủ mà các hộ kinh doanh hiện đang phải áp dụng và không gây xáo trộn đối
với hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường của các hộ kinh doanh cá thể.
• Tiến hành các hoạt động truyền thông và nâng cao nhận thức nhằm quảng bá về
những lợi thế của hình thức doanh nghiệp cá thể, doanh nghiệp một chủ (hình thức
doanh nghiệp tư nhân được cải tiến với các quy định pháp lý mới áp dụng đối với
loại hình doanh nghiệp này). Doanh nghiệp cá thể, doanh nghiệp một chủ sẽ được
42 Theo quy định hiện hành, các hộ kinh doanh được xếp loại là hộ thu nhập thấp, thiệt thòi hoặc đang kinh doanh
để mưu sinh, và nằm ở phân tầng cuối cùng của kim tự tháp về hộ kinh doanh và không bị bắt buộc phải đăng
ký. Trong trường hợp khuyến nghị về việc tự động chuyển đổi được thực hiện, các hộ kinh doanh thu nhập thấp
này sẽ không nằm trong đối tượng điều chỉnh của yêu cầu chuyển đổi tự động. Các hộ kinh doanh này tiếp tục
được miễn trừ khỏi các quy định về đăng ký giống như các quy định hiện hành áp dụng đối với họ. Điều này đặt
ra một yêu cầu về việc xây dựng một cơ sở đầy đủ về các hộ kind doanh, bao gồm các hộ kinh doanh có đăng ký
và không có đăng ký, để áp dụng các phương thức quản lý cũng như các biện pháp hỗ trợ thích hợp.
KINH TẾ TƯ NHÂN VIỆT NAM Năng suất và Thịnh vượng 99
quảng bá rộng rãi là một hình thức doanh nghiệp thuận tiện, chi phí thấp và được
công nhận chính thức, và là một sự thay thế tốt cho các hộ kinh doanh. Các hoạt
động quảng bá này phải thực tế và phải được hỗ trợ bằng những cải cách về quy
định pháp luật nhằm đảm bảo các lợi thế thực sự của loại hình doanh nghiệp này
như mô tả ở trên. Bên cạnh đó, các hạn chế liên quan tới loại hình doanh nghiệp
này cũng cần được cung cấp để các chủ doanh nghiệp, người dân có được thông
tin đầy đủ, đa chiều khi quyết định lựa chọn hình thức doanh nghiệp phù hợp nhất
đối với họ.
Những cải cách theo hướng như trên sẽ không ảnh hưởng tới hoạt động hiện nay của
khu vực hộ kinh doanh, tránh được tình trạng buộc phải chuyển đổi hoặc lên đời thành
doanh nghiệp vốn không được hưởng ứng mạnh mẽ trong thời gian vừa qua do những
bất cập về chi phí tuân thủ và yêu cầu tuân thủ các quy định quá ngặt nghèo sau khi
chuyển đổi. Các cải cách theo các đề xuất ở trên sẽ có ý nghĩa dọn chỗ và tạo không gian
thuận lợi để các hộ kinh doanh lựa chọn, tự quyết định chuyển sang mặc một tấm áo mới
phù hợp hơn, rộng rãi hơn, thuận lợi hơn cho sự phát triển của mình. Quá trình chính
thức hóa và cải cách khu vực hộ kinh doanh cá thể sẽ được thực hiện một cách tự nguyện,
trên cơ sở tôn trọng quyền lựa chọn của các chủ hộ kinh doanh, song vẫn đảm bảo được
các mục tiêu nhằm nâng cao tính chính thức của nền kinh tế. Các biện pháp này đồng
thời cũng phù hợp với thông lệ quốc tế.
Những cải cách này cũng phù hợp với những cải cách và xu thế khác trong Bộ Luật
Dân sự, các quy định và luật về ngân hàng, thuế vốn cũng đang được điều chỉnh nhằm
phù hợp với thực tiễn về hộ kinh doanh. Đặc biệt, các khái niệm, đinh nghĩa sẽ rõ ràng,
phương pháp tiếp cận về phân loại doanh nghiệp, quản lý kinh doanh sẽ rõ ràng và mạch
lạc hơn. Lợi thế rất quan trọng của hình thức pháp lý về loại hình doanh nghiệp cá thể/
doanh nghiệp một chủ (sole proprietership) sẽ được phát huy, tạo điều kiện thuận lợi
hơn nữa cho việc đẩy mạnh tinh thần khởi nghiệp của người dân, đóng góp cho mục
tiêu một triệu doanh nghiệp đang hoạt động của Việt Nam trong một vài năm tới như đã
đặt ra tại Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân. Đặc
biệt, các cải cách này sẽ góp phần quan trọng cho việc thu hẹp khu vực không chính thức
của nền kinh tế, nâng cao năng suất và hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân.
KINH TẾ TƯ NHÂN VIỆT NAM Năng suất và Thịnh vượng100
TÀI LIỆU THAM KHẢO
ADB (2012). “Đánh giá về Quan hệ Công Tư ở Việt Nam: Trở ngại và Cơ hội 2012”, Manilla,
ADB.
ADB. Basic Statistics https://www.adb.org/countries/viet-nam/poverty, truy cập ngày 16
tháng 9 năm 2017.
British Council (2015). “Năng lực Nghiên cứu ở Đông Nam Á”.
CIEM và National University of Singapore (2010). “Báo cáo Năng lực Cạnh tranh của Việt
Nam 2010”.
CIEM và ADB (2017). “Chính thức hóa” Hộ Kinh doanh ở Việt Nam.
Đinh Trường Hinh, Deepak Mishra, Lê Duy Bình, Phạm Minh Đức và Phạm Thị Thu Hằng
(2013). “Công nghiệp Chế biến Chế tạo ở Việt Nam: Tạo Việc làm và Thịnh vượng ở một
Nền Kinh tế Thu nhập Trung bình”, Washington DC.
Economica Vietnam (2018). “Tổng quan về Quản trị Công ty tại ASEAN”.
Economica Vietnam (2013). “Khu vực Hộ Kinh doanh Phi Nông nghiệp ở Việt Nam”.
The Economist (2016). “Kinh tế Việt Nam, Một Con hổ Châu Á Mới” đăng ngày 6 tháng 8
năm 2016 pp11-12.
GEM và VCCI (2016). “Báo cáo về Tinh thần Khởi nghiệp Toàn cầu - Việt Nam 2015/2016”.
Hogan Lovells, 2015 “Nghị định mới về PPP ở Việt Nam”. Tháng 3, 2015, SNGLIB01/142296
https://www.hoganlovells.com/en/publications/new-ppp-decree-is-released-in-
vietnam truy cập ngày 23/10/2016.
IFRS (2016). “Tiêu chuẩn Báo cáo Tài chính Quốc tế Áp dụng trên Thế giới: Hồ sơ Việt
Nam”.
Vietnam-IFRS-Profile.pdf, truy cập ngày 07/01/2016.
ILO (2011). “Phát triển Tinh thần Khởi nghiệp của Phụ nữ: Học hỏi từ Thực tiễn Tốt”, Dự án
của ILO về Phụ nữ Khởi nghiệp và Bình đẳng Giới (WEDGE), Tổ chức Lao động Quốc
tế, Việt Nam.
IMF (2004). “Báo cáo về Chiến lược Giảm nghèo Việt Nam”. Tháng Giêng, 2004, Báo cáo
Quốc gia của IMF 04/25. IMF, Washington DC.
KINH TẾ TƯ NHÂN VIỆT NAM Năng suất và Thịnh vượng 101
Jean-Pierre Cling, Mireille Razafindrakoto, và Francois Roubaud (2010). “Kinh tế Không
Chính thức ở Việt Nam”, ILO, Hanoi.
Knutsen H. and Nguyen C. (2004) “Đối xử phân biệt tại nền kinh tế đang chuyển đổi:
Trường hợp Doanh nghiệp Nhà nước trong ngành công nghiệp dệt may ở Việt Nam”.
Tạp chí Địa lý Na Uy. Tập 58. Pages 125–135.
Nguyen D. C., Pham A.T., Van, B. và Dapice, D (2004). “Lịch sử hay Chính sách: Tại sao các
Tỉnh Phía Bắc lại không Phát triển Nhanh hơn?”, CIEM và UNDP. Hà Nội, Việt Nam.
Malesky, Edmund và Markus Taussig (2009). “Thoát khỏi Vùng Xám: Tác động của Thể chế
Cấp Tỉnh đối với Chính thức hóa Kinh doanh ở Việt Nam”. Tạp chí Nghiên cứu Đông Á,
Tập 9, Số 2, trang 249-290.
MPI/ GSO (2015-2016). “Báo cáo Khảo sát Lực lượng Lao động”. Tổng cục Thống kê/ Bộ
KHĐT. Hà Nội. Việt Nam.
MPI/ World Bank (2015). “Việt Nam 2035: Hướng tới Thịnh vượng, Sáng tạo, Công bằng và
Dân chủ”, NXB Hồng Đức, Hà Nội.
Lê Duy Bình & đồng nghiệp (2018). “Khung khổ về Quản trị Công ty tại Campuchia, Lào,
Myanmar và Việt Nam”, OECD (2018).
Lê Duy Bình (2017). “Các Yếu tố Ảnh hưởng tới Tích tụ vốn của Doanh nghiệp Nhỏ và vừa
trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế,
Viện Kinh tế Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam. Số 2, tháng Giêng, 2017 (465),
tr. 63-71.
Lê Duy Bình & Phạm Tiến Dũng (2017). “Chuyển đổi Hộ Kinh doanh thành Doanh nghiệp:
Rào cản từ Chi phí Tuân thủ Pháp luật”. Báo Pháp luật Việt Nam, (36)163/9 – 2017
Lê Duy Bình (2017). “Tác động của một số khoản nộp ngân sách đối tích tụ vốn tại doanh
nghiệp”, Tạp chí Tài chính, Bộ Tài chính. Hà Nội. Số 2 - tháng Giêng, 2017 (651), p 72-74
Lê Duy Bình (2017). ”Thúc đẩy tích tụ vốn tại các DNNVV trong ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành”, Tạp chí Nghiên cứu
Kinh tế, CIEM, Số 82, Tháng 5 + 6/2017, tr. 14-25.
Lê Duy Bình và đồng nghiệp (2015). “Hành trình tiến tới sự liên kết: Thực tiễn tốt của Hiệp
hội Doanh nghiệp Việt Nam”. Quỹ Châu Á và VCCI.
KINH TẾ TƯ NHÂN VIỆT NAM Năng suất và Thịnh vượng102
Lê Duy Bình (2010). “Chuyển dịch từ các hoạt động kinh doanh có tính mưu sinh sang
DNNVV hoạt động hiệu quả tại Việt Nam”. Tạp chí TechMonitor - UNESCAP, Vol. 27 Số.
4, Tháng 7-8 năm 2010, tr. 33-41.
Nghia, P. D, Nguyen, X. T, Huynh, D. Tuan, và đồng nghiệp (2013) “Dỡ bỏ Trở ngại Thể chế
nhằm Phục hồi Tăng trưởng”. Chương trình Lãnh đạo Doanh nghiệp Việt Nam (VELP)
2013
OECD/ World Bank (2014). “Khoa học, Công nghệ và Sáng tạo ở Việt Nam”, Ấn phẩm của
OECD truy cập ngày 09 tháng Giêng
2017.
Schmitz, Hubert, Đậu Anh Tuấn, Phạm Thị Thu Hằng và McCulloch, Neil (2012). “Động lực
Cải cách Kinh tế ở các Tỉnh của Việt Nam”. Viện Nghiên cứu Phát triển và VCCI. Hà Nội.
Taussig, Markus và Phạm Thị Thu Hằng. 2004. “Tính Chính thức của Doanh nghiệp và Vai
trò của Chính phủ Địa phương”. ADB, Tài liệu Thảo luận Số 2, Tháng 11 năm 2004.
VCCI (2010-2018). “Báo cáo Năng lực Cạnh tranh Cấp tỉnh”.
VCCI, GTZ và SwissContact, (2002). “Dịch vụ Phát triển Kinh doanh tại Việt Nam – Nghiên
cứu Thị trường Dịch vụ Phát triển Kinh doanh đối với 1.2000 DNNVV tại Hà Nội, TP. Hồ
Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, Đồng Nai và Bình Dương”.
VCCI (2010-2016). “Báo cáo Thường Niên Doanh nghiệp Việt Nam”. NXB Chính trị Quốc gia.
VNPI (2016). “Báo cáo Năng suất Việt Nam”. Viện Năng suất Việt Nam. Hà Nội.
VWEC, VCCI, ILO (2007). “Phát triển Tinh thần Khởi nghiệp của Phụ nữ tại Việt Nam”. Hội
đồng Doanh nhân Nữ Việt Nam (VWEC), Tổ chức Lao động Quốc tế. Việt Nam.
World Bank (2016). “Báo cáo Môi trường Kinh doanh 2017: Cơ hội Bình đẳng cho Mọi
người”. Washington, DC: World Bank.
World Bank (2015). Khảo sát Doanh nghiệp ( truy cập
ngày 15 tháng 12 năm 2016), World Bank
World Bank (2014). “Đánh giá Khu vực Tài chính Việt Nam”. Washington, DC: World Bank.
World Economic Forum (2016), “Báo cáo Năng lực Cạnh tranh Toàn cầu” 2016-2017.
Giấy phép xuất bản số: 3180-2018/CXBIPH/15-144/TN và QĐXB số 1172/QĐ-NXBTN ngày 14/9/2018
ISBN: 978-604-973-219-5
Thiết kế và in ấn bởi Golden Sky. Báo cáo này có thể được tải xuống từ www.economica.vn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tai_lieu_kinh_te_tu_nhan_viet_nam_nang_suat_va_thinh_vuong.pdf