Nếu theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới, thì nền kinh tế Singapo đang ở giai đoạn phát triển
thứ 3 - phát triển dựa vào đổi mới sáng tạo, giai đoạn cao nhất hiện nay. Ở giai đoạn này,
tiền lương đã tăng lên đến mức cao, khi đó các nước chỉ có thể duy trì mức lương cao đó
với mức sống kèm theo nếu các doanh nghiệp của họ có khả năng cạnh tranh bằng những
sản phẩm, dịch vụ, mô hình và quy trình đổi mới, độc đáo. Ở giai đoạn này, các công ty
cần phải cạnh tranh bằng cách sản xuất ra các loại hàng hóa mới và khác biệt thông qua
các công nghệ mới và/hoặc bằng các quy trình sản xuất hay các mô hình kinh doanh tinh
xảo nhất.
Là nước đi trước, kinh nghiệm chuyển sang nền nền kinh tế tri thức/đổi mới sáng tạo
của Singapo có thể bài bài học tham khảo hữu ích cho các nước đi sau, các nước đang
phát triển triển, đặc biệt là các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam. Nếu xét về
trình độ phát triển, có lẽ Việt Nam đang ở Giai đoạn 1 của Singapo hoặc trong chuyển tiếp
giữa Giai đoạn 1 và Giai đoạn 2. Đó là giai đoạn “thâm dụng lao động”, lúc này lợi thế
của quốc gia chính là lao động rẻ và có tay nghề không cần cao. Nếu theo Diễn đàn Kinh
tế Thế giới, chúng ta đang ở giai đoạn phát triển kinh tế chủ yếu được thúc đẩy bởi yếu tố
sản xuất (factor-driven). Singapo đã mất 40 năm để chuyển mình từ nền kinh tế thâm
dụng lao động sang nền kinh tế đổi mới sáng tạo. Là nước đi sau, liệu Việt Nam có thể
học hỏi được gì để có thể tiến nhanh vào nền kinh tế đổi mới sáng tạo/kinh tế tri thức?
Hoặc có thể rút ngắn được các giai đoạn phát triển, bằng cách đi tắt đón đầu. Chúng tôi hy
vọng Tổng luận này sẽ là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích đối với các nhà hoạch định
chính sách phát triển của Việt Nam trong hoạch định chính sách phát triển kinh tế, đặc
biệt là chính sách phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
48 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 255 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu Nền kinh tế đổi mới sáng tạo - Nền kinh tế tri thức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o tạo bậc cao (đứng vị trí thứ 2)
trong những năm gần đây, điều này cung cấp nguồn nhân lực có các kỹ năng cần thiết
cho một nền kinh tế toàn cầu đang thay đổi nhanh chóng.
29
Bảng 3: Xếp hạng chỉ số cạnh tranh toàn cầu của Singapo và một số nước
Nước/nền kinh tế
Xếp hạng
GCI 2015-
2016
Xếp hạng
GCI 2014-
2015
Xếp hạng
GCI 2012-
2013
Xếp hạng
GCI 2011-
2012
Thụy Sỹ 1 1 1 1
Singapo 2 2 2 2
Hoa Kỳ 3 3 7 5
Đức 4 5 6 6
Hà Lan 5 8 5 7
Nhật Bản 6 6 10 9
Hồng Kông (TQ) 7 7 9 11
Phần Lan 8 4 3 4
Thụy Điển 9 10 4 3
Anh 10 9 8 10
Đài Loan (TQ) 15 14 13 13
Malaixia 18 20 25 21
Ôxtrâylia 21 22 20 20
Hàn Quốc 26 26 19 24
Israel 27 27 26 22
Trung Quốc 28 28 29 26
Thái Lan 32 31 38 39
Inđônêxia 37 34 50 46
LB Nga 45 53 67 66
Philipin 47 52 65 75
Ấn Độ 55 71 59 56
Việt Nam 56 68 75 65
Campuchia 90 95 85 97
Nguồn: WEF: Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2015-2016, 2014-2015, 2012-2013,
2011-2012
2.2. Thứ hạng trong Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu
Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2015 (Global Innovation Index 2015, gọi tắt
là GII 2015) do Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) kết hợp với Đại học Cornell
(Hoa Kỳ) và Học viện Kinh doanh INSEAD (Pháp) công bố cho thấy Singapo đứng
thứ 7 thế giới về trình độ đổi mới sáng tạo. 10 nền kinh tế hàng đầu trong GII 2015 là
Thụy Sĩ, Vương quốc Anh, Thụy Điển, Hà Lan, Hoa kỳ, Phần Lan, Singapo, Ai-len,
Luxembourg, Đan Mạch.
Top 10 GII 2015
1. Thụy Sỹ
2. Vương quốc Anh
30
3. Thụy Điển
4. Hà Lan
5. Hoa kỳ
6. Phần Lan
7. Singapo
8. Ai-len
9. Luxembourg
10. Đan Mạch
Đây là lần thứ 8 liên tiếp, Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu được công bố. Mục đích
của Chỉ số GII là đưa ra các đánh giá về trình độ đổi mới sáng tạo của mỗi quốc gia
một cách toàn diện nhất. Cốt lõi của Báo cáo GII là Bảng xếp hạng về đổi mới sáng
tạo toàn cầu. Trong 8 năm qua, GII đã trở thành một tài liệu tham khảo hàng đầu về
đổi mới sáng tạo.
GII bao gồm nhiều tiểu chỉ số/tiêu chí. GII 2015 được tổng hợp từ 79 tiểu chỉ số
trong các lĩnh vực: Thể chế/tổ chức, nhân lực và nghiên cứu, cơ sở hạ tầng, trình độ
phát triển của thị trường, trình độ phát triển kinh doanh, đầu ra công nghệ và tri thức,
kết quả sáng tạo. Các tiểu chỉ số này được phân chia theo 7 trụ cột. Trong đó 5 trụ cột
đầu tiên thuộc “nhóm tiểu chỉ số đổi mới sáng tạo đầu vào” và 2 trụ cột sau cùng thuộc
“nhóm tiểu chỉ số đổi mới sáng tạo đầu ra”. Trong 79 tiểu chỉ số, có nhiều tiểu chỉ số
liên quan đến đầu vào, đầu ra của KH&CN, từ thể chế, nhân lực, hạ tầng cho tới đầu
tư, các sản phẩm khoa học được công bố, kết quả KH&CN được ứng dụng. Nhiều
người cho rằng chỉ số này thể hiện trình độ phát triển KH&CN của một quốc gia vì các
tiêu chí cũng thể hiện tương đối tổng hợp.
Bảng 4: Xếp hạng GII 2015 của các nước ASEAN được xếp hạng
STT Các nước ASEAN được xếp hạng Vị trí năm 2014 Vị trí năm 2015
1 Singapo 7 7
2 Malaixia 33 32
3 Việt Nam 71 52
4 Thái Lan 48 55
5 Indonesia 87 97
6 Philippin 100 83
7 Campuchia 106 91
8 Myanma 140 138
Nguồn: WIPO
Singapo vẫn duy trì vị trí thứ 7 như năm 2014, năm 2014 họ đã tăng một bậc so với
năm 2013 và có “nhóm tiểu chỉ số đầu vào của đổi mới sáng tạo” được đánh giá cao
nhất thế giới, 1/141. Ngoài ra, Singapo còn có một số trụ cột đứng đầu thế giới (các trụ
cột cơ sở hạ tầng và trình độ phát triển kinh doanh) và nhiều tiểu chỉ số đứng đầu thế
giới như: môi trường pháp luật, môi trường kinh doanh, hấp thụ tri thức... Nước này
đứng thứ 20 về “nhóm tiểu chỉ số đầu ra của đổi mới sáng tạo”, tăng 4 bậc so với năm
31
2014. Singapo có tỷ lệ hiệu quả trong top 10 GII 2015. Singapo có chỉ số đổi mới sáng
tạo, các nhóm tiểu chỉ số cũng như các trụ cột đổi mới sáng tạo cao hơn hẳn so với các
nước ASEAN còn lại, nói cách khác thì khoảng cách giữa nước này với các nước còn
lại trong khối là rất lớn.
2.3. Thứ hạng trong Chỉ số kinh tế tri thức
Một trong số những hiện tượng và diễn biến có tầm quan trọng trên quy mô toàn
cầu vào nửa cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI là quá trình toàn cầu hoá và sự hình
thành “Nền kinh tế tri thức” (KTTT). KTTT có thể còn được gọi với các tên như kinh
tế dựa trên tri thức (knowledge-based economy) hay kinh tế được dẫn dắt bởi tri thức
(knowledge-driven economy) cho ta một cách hiểu trực giác hơn với sự nhấn mạnh về
vai trò nền tảng và ảnh hưởng của tri thức trong kinh tế. Một số chuyên gia còn đó là
"Nền kinh tế mới" hay "Nền kinh tế thông tin", tức là nền kinh tế dựa trên cơ sở tri thức
và công nghệ thông tin. "Nền kinh tế mới" và quá trình toàn cầu hoá đang xoá nhoà các
biên giới quốc gia trong cuộc cạnh tranh, một cách khách quan, đã khiến cho tiềm lực
giáo dục - trí tuệ của một nước bất kỳ cũng đều trở thành nguồn lực then chốt để tăng
trưởng kinh tế và nâng cao sự phồn thịnh của nước mình.
Theo định nghĩa của Ngân hàng Thế giới (WB, 2000), nền KTTT là “nền kinh tế
dựa vào tri thức như động lực chính cho tăng trưởng kinh tế. Đó là nền kinh tế trong
đó kiến thức được lĩnh hội, sáng tạo, phổ biến và vận dụng để thúc đẩy phát triển.”
Ngân hàng Thế giới đánh giá: "Đối với các nền kinh tế tiên phong trong nền kinh tế
thế giới, cán cân giữa hai yếu tố tri thức và các nguồn lực đang nghiêng về tri thức.
Tri thức thực sự đã trở thành yếu tố quan trọng nhất quyết định mức sống - hơn cả yếu
tố đất đai, hơn cả yếu tố tư liệu sản xuất, hơn cả yếu tố lao động. Các nền kinh tế phát
triển nhất về công nghệ ngày nay thực sự đã dựa vào tri thức".
Theo nhận định của WB một quốc gia muốn chuyển sang nền KTTT cần hình thành
và phát triển bốn trụ cột sau:
1) Khuyến khích/kích thích kinh tế và thể chế tổ chức (Economic Incentive and
Institutional Regime): Một môi trường và thể chế theo luật, cho phép dòng chảy tự do
của tri thức, hỗ trợ đầu tư cho CNTT-TT, khuyến khích việc làm chủ kinh doanh như
trọng tâm của KTTT.
2) Giáo dục và đào tạo (Education and Training): Có chất lượng cao để người dân
được giáo dục và đào tạo năng lực sáng tạo, chia sẻ, và sử dụng tri thức.
3) Đổi mới sáng tạo và hấp thụ công nghệ (Innovation and Technological
Adoption): Một mạng lưới các trung tâm nghiên cứu, đại học, tổ chức chuyên gia cố
vấn, doanh nghiệp tư nhân, các nhóm cộng đồng là cần thiết để thu nhận được kho tri
thức toàn cầu luôn không ngừng tăng, truyền bá và thích ứng chúng cho các nhu cầu
của đất nước, và sáng tạo ra các tri thức và công nghệ mới.
4) Hạ tầng CNTT-TT: cho phép dễ dàng liên lạc, phổ biến, và xử lý thông tin...
Điểm cần lưu lý là 4 trụ cột này tương tác với nhau.
Nhìn chung các nền kinh tế được coi là nền KTTT, như các nền kinh tế Phần Lan,
Thuỵ Điển, Singapo, đều có sự chuyển biến từ phụ thuộc vào sản xuất thâm dụng lao
32
động và nguyên vật liệu sang các nền kinh tế cạnh tranh cao và hàm lượng tri thức
công nghệ cao. Các nước đang phát triển và mới nổi như Braxin, Nga, Ấn Độ và
Trung Quốc cũng đang nỗ lực chuyển mình để thành nền KTTT.
Báo cáo về Chỉ số kinh tế tri thức toàn cầu gần đây nhất của WB năm 2012 cho thấy
Singapo đứng thứ 23 về phát triển kinh tế tri thức.
Bảng 5: Chỉ số kinh tế tri thức 2012
KEI: Chỉ số kinh tế tri thức
KI: Chỉ số chi thức
Xếp
hạng
Thay đổi
so với
năm
trước
Nước KEI KI Kích thích
kinh tế và
định chế tổ
chức
Đổi mới
sáng tạo
Giáo
dục
CNTT-
TT
5 nước đứng đầu và một
số nước phát triển
1 Thụy Điển 9,43 9,38 9,58 9,74 8,92 9,49
2 +6 Phần Lan 9,33 9,22 9,65 9,66 8,77 9,22
3 Đan mạch 9,16 9,00 9,63 9,49 8,63 8,88
4 -2 Hà Lan 9,11 9,22 8,79 9,46 8,75 9,45
5 +2 Na Uy 9,11 8,99 9,47 9,01 9,43 8,53
12 -8 Hoa Kỳ 8,77 8,89 8,41 9,46 8,70 8,51
22 -5 Nhật Bản 8,28 8,53 7,55 9,08 8,43 8,07
29 -5 Hàn Quốc 7,97 8,65 5,93 8,80 9,09 8,05
4 nước BRIC
55 +9 Nga 5,78 6,96 2,23 6,93 6,79 7,16
60 -1 Braxin 5,58 6,05 4,17 6,31 5,61 6,24
84 +7 Trung Quốc 4,37 4,57 3,79 5,99 3,93 3,79
110 -6 Ấn Độ 3,06 2,89 3,57 4,50 2,26 1,90
Đông Nam Á
23 -3 Singapo 8,26 7,79 9,66 9,49 5,09 8,78
48 -3 Malaixsia 6,10 6,25 5,67 6,91 5,22 6,61
66 -6 Thái Lan 5,21 5,25 5,12 5,95 4,23 5,55
92 -15 Philippin 3,94 3,81 4,32 3,77 4,64 3,03
104 +9 Việt Nam 3,40 3,60 2,80 2,75 2,99 5,05
108 -3 Inđônêxia 3,11 2,99 3,47 3,24 3,20 2,52
131 -2 Lào 1,75 1,84 1,45 1,69 2,01 1,84
132 -16 Campuchia 1,71 1,52 2,28 2,13 1,70 0,74
33
145 -8 Myanma 0,96 1,22 0,17 1,30 1,88 0,48
Nhóm các nước theo
thu nhập
Thu nhập cao 8,60 8,67 8,39 9,16 8,46 8,37
Thu nhập trung bình cao 5,10 5,07 5,18 6,21 4,72 4,28
Thu nhập trung bình
thấp
3,42 3,45 3,32 4,90 2,84 2,62
Thu nhập thấp 1,58 1,58 1,61 2,13 1,54 1,05
Nguồn: The World Bank Group, 2012
Là một quốc đảo nhỏ không có tài nguyên thiên nhiên, nhưng Singapo đã dựa vào vị trí
thuận lợi của mình để phát triển các dịch vụ như tài chính, ngân hàng, vận tải và hậu cần.
Ngay từ năm 1981, Singapo đã đưa ra một chương trình tin học hoá các dịch vụ dân sự. Năm
1986, Kế hoạch CNTT Quốc gia được công bố. Năm 1992, Chiến lược CNTT 2000 (gọi tắt
là IT 2000) được đưa ra với mục tiêu biến Singapo thành “Quốc đảo thông minh”. Năm 1997,
ngành công nghệ thông tin nước này đã đạt 7,3 tỷ USD (từ bán phần cứng, phần mềm và các
dịch vụ CNTT). Bên cạnh đó, Singapo có các chương trình lớn thúc đẩy giáo dục và đào tạo
việc làm, phát triển mạnh hạ tầng CNTT với mạng băng thông rộng quốc gia Singapo ONE
với các dịch vụ thương mại và của Chính phủ tới mọi hộ gia đình. Quốc đảo này đã thành
công trong việc trở thành một nền KTTT.
Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) đã công bố Báo cáo toàn cầu năm 2016 về Chỉ số
sẵn sàng kết nối thông tin toàn cầu (Networked Readiness Index - NRI), trong đó
Singapo đứng ở vị trí đầu bảng (tương tự như năm 2015). Ngoài ra, trong top 10 nước
hàng đầu còn có Phần Lan, Thụy Điển, Hà Lan, Na Uy, Thụy Sĩ, Mỹ, Anh,
Luxembourg và Nhật Bản.
Singapo liên tục đứng đầu bảng nhờ kết quả của cam kết chính phủ mạnh mẽ đối
với chương trình nghị sự kỹ thuật số. Lợi ích từ CNTT được chia sẻ rộng rãi ở
Singapo, và nó thúc đẩy việc sử dụng công nghệ kỹ thuật số để cung cấp truy cập đến
các dịch vụ của chính phủ, và đảm bảo rằng các trường học được kết nối.
2.4. Các chỉ số về nghiên cứu và phát triển
Đầu tư cho NC&PT của Singapo và so sánh với một số nước
Theo số liệu thống kê của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), đầu tư
cho NCPT tính theo tỷ lệ % GDP của Singapo trong những năm vừa qua đạt hơn 2%,
tuy nhiên do GDP của nước này tăng nên giá trị tuyệt đối của đầu tư cho NCPT tăng
nhẹ. Năm 2010, 2011, 2012 và 2013, tỷ lệ % đầu tư cho NCPT tính theo GDP -
GERD/GDP của Singapo lần lượt đạt 2,01%, 2,15%, 2 % và 2%, trong khi tỷ lệ này là
thấp so với hầu hết các nước phát triển như CHLB Đức lần lượt là 2,72%, 2,8%,
2,88% và 2,85%, Hoa Kỳ 2,74%, 2,76%, 2,7% và 2,74%, trung bình của OECD 2,3%,
2,33%, 2,33% và 2,36%. Tỷ lệ này của Singapo vẫn còn thấp hơn nhiều nếu so với
Hàn Quốc và Israel (GERD/GDP của họ là hơn 4% từ năm 2012).
34
Bảng 6. Đầu tư cho NCPT của Singapo so với một số nước
(tỷ lệ % đầu tư cho NCPT tính theo GDP - GERD/GDP)
Nước/Khu vực 2010 2011 2012 2013
2014
(Theo tỷ lệ từ cao xuống
thấp)
Hàn Quốc 3,47 3,74 4,03 4,15 4,29
Israel 3,96 4,10 4,25 4,21 4,11
Nhật Bản 3,25 3,38 3,34 3,47 3,58
Phần Lan 3,73 3,64 3,42 3,31 3,17
Thụy Điển 3,22 3,22 3,28 3,30 3,16
Đan Mạch 2,94 2,97 3,02 3,06 3,05
Đức 2,72 2,8 2,88 2,85 2,84
Hoa Kỳ 2,74 2,76 2,70 2,74
Bỉ 2,05 2,15 2,24 2,28 2,46
OECD (trung bình) 2,30 2,33 2,33 2,36 2,37
EU (trung bình của 28 nước) 1,84 1,88 1,92 1,93 1,94
Pháp 2,18 2,19 2,23 2,23 2,26
Trung Quốc 1,76 1,84 1,98 2,08 2,05
Singapo 2,01 2,15 2,00 2,00
Anh 1,69 1,69 1,63 1,63 1,70
Canada 1,84 1,78 1,71 1,62 1,61
Italia 1,22 1,21 1,27 1,26 1,29
Bồ Đào Nha 1,53 1,46 1,38 1,37 1,29
Tây Ban Nha 1,35 1,32 1,27 1,24 1,22
Nga 1,13 1,09 1,12 1,12 1,19
Malaixia 1,06 1,13
Thái Lan 0,39 0,5
Việt Nam 0,19 0,37
Inđônêxia 0,08
Nguồn:
1. Global Innovation Index 2012,2013,2014,2015 - WIPO;
2. Current Status on Science and Technology in ASEAN Countries, Center for Research
and Development Strategy, Japan Science and Technology Agency, 9/2015;
3. Main Science and Technology Indicators, Data extracted on 15 Jun 2016, OECD.Stat 2015;
4. World Bank: ttp://data.worldbank.org/indicator/GB.XPD.RSDV.GD.ZS.
Có thể nhận thấy, tỷ lệ % GERD/GDP của hầu hết các nước đã và đang có xu hướng gia
tăng, đặc biệt tăng mạnh ở các nước phát triển nhanh như Hàn Quốc (từ 3,47% năm 2010
lên 4,29% năm 2014, tỷ lệ cao nhất thế giới), Trung Quốc (từ 1,76% năm 2010 lên 2,05%
năm 2014, tỷ lệ cao hơn mức trung bình của EU 28). Hầu hết các nước phát triển đều có tỷ
lệ GERD/GDP ở mức trên 2%, trong đó có những nước đạt trên 3% như Nhật Bản và, các
nước Bắc Âu, thậm chí trên 4% như Hàn Quốc và Israel.
35
Trong khu vực ASEAN, Singapo có tỷ lệ GERD/GDP cao nhất (trên 2%), tiếp đến
là Malaixia (trên 1%), Thái Lan (0,5%, năm 2013), Việt Nam (0,37%, năm 2013).
Xét về giá trị tuyệt đối đầu tư cho NC&PT, dù đứng đầu ASEAN, nhưng Singapo
vẫn còn khoảng cách lớn nếu so với các nước phát triển ở châu Âu, Hoa Kỳ, Trung
Quốc, Nhật Bản, CHLB Đức, Hàn Quốc Cụ thể, các năm 2010, 2011, 2012 và 2013,
tổng đầu tư trong nước cho NCPT (GERD) của Singapo lần lượt đạt khoảng 7,2 tỷ
USD, 8,3 tỷ USD, 8,1 tỷ USD và 8,6 tỷ USD (Bảng 7). Nhìn chung, giá trị tuyệt đối
đầu tư cho NCPT của Singapo tăng đáng kể từ năm 2010 đến 2013 (tăng gần 1,5 tỷ
USD) và xu hướng này có thể còn tiếp diễn.
Bảng 7. GERD của Singapo so với một số nước (triệu USD, PPP)
Nước 2010 2011 2012 2013
2014
(cao xuống thấp)
Hoa Kỳ 410093,00 428745,00 436078,00 456977,00
Trung Quốc 213009,91 247808,30 293064,52 336495,44 368 731,63
Nhật Bản 140607,43 148389,23 151810,01 160246,83 166 861,28
Đức 87822,01 96282,45 100699,07 102573,03 106780,75
Hàn Quốc 52172,79 58379,65 64458,18 68937,04 72 266.75
Pháp 50729,97 53428,41 54829,85 57986,79 58750,28
Anh 38139,28 39132,64 38851,82 39858,83 44174,09
Nga 33093,51 35192,08 38787,93 40694,5 39862.97
Italia 25151,54 25769,28 27164,39 28128,12 27744,43
Canada 25029,09 25393,1 25121,02 24565,36 25813,56
Tây Ban Nha 20336,22 20149,1 19452,85 19133,20 19102,55
Thụy Điển 12585,38 13315,8 13703,19 14151,28 13882,79
Bỉ 8766,04 9729,11 10333,99 10603,42 12023,33
Israel 8672,91 9615,08 10625,69 10998,93 11376,50
Singapo 7218,05 8359,71 8176,91 8686,36
Đan Mạch 6811,78 7157,10 7362,75 7513,40 7920,85
Phần Lan 7653,07 7892,05 7443,95 7 321,69 7050,83
Malaixia 2624,56 3379,20 3445,00 3595,90
Thái Lan 1255,78 904,80 1161,00 1495,20
Việt Nam 255,00 631,00
Nguồn:
1. Global Innovation Index 2012,2013,2014,2015 – WIPO;
2. Current Status on Science and Technology in ASEAN Countries, Center for Research
and Development Strategy, Japan Science and Technology Agency, 9/2015;
3. Main Science and Technology Indicators, Data extracted on 15 Jun 2016, OECD.Stat
2015;
4. World Bank: ttp://data.worldbank.org/indicator/GB.XPD.RSDV.GD.ZS.
Nếu xem xét một chỉ tiêu thống kê khác, đó là đầu tư cho NCPT tính bình quân đầu
36
người thì Singapo đạt mức cao nhất thế giới. Cụ thể, năm 2013, đầu tư cho NCPT tính bình
quân đầu người của nước này đạt 1.608,88 USD (PPP), so với 1.442,3 của Hoa Kỳ,
1.274,98 USD của Nhật Bản, 1.355,07 USD của Hàn Quốc, 1.271,89 USD của Đức,
1.365,31 USD của Israel và cao hơn nhiều so với mức bình quân của EU (698,23 USD) và
OECD (908,84 USD). Trong khu vực ASEAN, đầu tư cho NC&PT tính bình quân đầu
người của Singapo rõ ràng có khoảng cách quá lớn so với các nước còn lại, gấp 14 lần
Malaixia, hơn 90 lần Thái Lan và 230 lần Việt Nam (Bảng 8).
Bảng 8. Đầu tư cho NCPT tính bình quân đầu người (USD, PPP) của Singapo và so sánh
với một số nước
Nước/Khu vực 2010 2011 2012 2013 2014
(Từ cao xuống thấp)
Singapo 1421,72 1612,60 1539,33 1608,88
Hoa Kỳ 1323,70 1373,43 1386,58 1442,30
Hàn Quốc 1055,92 1172,78 1297,15 1355,07 1433,18
Thụy Điển 1342,92 1420,2 1458,02 1489,95 1431,79
Đan Mạch 1228,86 1284,94 1327,9 1397,03 1403,66
Israel 1136,2 1226,75 1321,43 1365,31 1385,33
Đức 1094,65 1199,41 1252,05 1271,89 1318,56
Nhật Bản 1098,13 1160,82 1194,22 1274,98 1313,32
Phần Lan 1427,89 1464,66 1382,75 1346,15 1290,70
Bỉ 806,03 886,24 997,27 1053,53 1077,65
OECD (trung bình) 807,08 848,01 871,09 908,84 930,56
Pháp 781,31 818,27 835,88 880,17 887,88
Canada 736,60 747,6 756,18 748,24 726,32
EU (28) 613,24 650,93 673,2 698,23 714,39
Anh 608,13 618,36 609,24 651,16 683,84
Italia 420,68 429,06 450,20 463,81 456,36
Tây Ban Nha 437,05 431,12 414,00 414,62 411,13
Bồ Đào Nha 412,92 392,36 373,72 370,47 369,62
Trung Quốc 159,19 183,92 215,70 245,11 269,58
Nga 231,67 246,17 264,80 256,34
Malaixia 91,44 114,54 117,90 119,06
Thái Lan 19,53 12,70 17,3 22,25
Việt Nam 2,90 7,00
Nguồn:
1. Global Innovation Index 2012,2013,2014,2015 - WIPO;
2. Current Status on Science and Technology in ASEAN Countries, Center for Research and
Development Strategy, Japan Science and Technology Agency, 9/2015;
3. Main Science and Technology Indicators, Data extracted on 15 Jun 2016, OECD.Stat 2015;
4. World Bank: ttp://data.worldbank.org/indicator/GB.XPD.RSDV.GD.ZS.
37
Là quốc gia nhỏ bé, nhưng Singapo có tới 36.025 cán bộ nghiên cứu (FTE), so với
61.663 người (Việt Nam), 36.328 (Thái Lan), 47.242 (Malaixia). Mặc dù số cán bộ
nghiên cứu ít hơn so với Việt Nam, Thái Lan và Malaixia, nhưng kết quả nghiên cứu
và phát triển của nước này là rất tốt, thể hiện ở đầu ra của NCPT (công bố quốc tế và
đăng ký sáng chế).
Nếu xét về số lượng công bố quốc tế, Singapo (với gần 70.000 công bố quốc tế giai
đoạn 2011-2015) luôn đứng đầu ASEAN và khoảng cách giữa nước này với các nước
ASEAN khác là rất lớn. Nếu tính bình quân đầu người trên mỗi công bố quốc tế thì
Singapo ngang với các nước hàng đầu EU và Hoa Kỳ.
Bảng 9: Số công bố KH&CN trong CSDL Web of Science giai đoạn 2011-2015 của
Singapo và một số nước ASEAN
STT Quốc gia Số công bố
1 Brunây 681
2 Campuchia 1242
3 Inđônêxia 10.679
4 Lào 873
5 Malaixia 54.368
6 Myanma 461
7 Philipin 7.306
8 Singapo 69.107
9 Thái Lan 39.226
10 Việt Nam 11.953
Nguồn: NASATI (tra cứu và xử lý từ CSDL Web of Science, ngày 31/3/2016).
Xét một chỉ số đầu ra khác của NCPT, đó là số lượng đơn đăng ký sáng chế, có thể
thấy dù là quốc gia nhỏ bé và ít dân, nhưng số lượng đơn đăng ký sáng chế của
Singapo vẫn đứng đầu ASEAN (với 10.312 đơn năm 2014) và duy trì khoảng cách lớn
so với các nước ASEAN còn lại.
Bảng 10: Số lượng đơn đăng ký sáng chế của một số nước năm 2013 và 2014
Nước Tổng 2013 2014 2013 2014
2013 2014 Đơn của
người
trong
nước
2013
Tỷ
lệ
(%)
Đơn của
người
trong
nước
2014
Tỷ
lệ
(%)
Đơn của
người
nước
ngoài
2013
Tỷ
lệ
(%)
Đơn của
người
nước
ngoài
2014
Tỷ
lệ
(%)
Trung
Quốc
825.136 928,177 704.936 85,4 801,135 86,3 120.200 14,6 127,042 13,7
Hoa Kỳ 571.612 578,802 287.831 50,3 285,096 49,3 283.781 49,7 293,706 50,7
Nhật Bản 328.436 325,989 271.731 82,7 265,959 81,6 56.705 17,3 60,030 18,4
Hàn Quốc 204.589 210,292 159.978 78,1 164,073 78,0 44.611 21,9 46,219 22,0
38
CHLB
Đức
63.167 65,965 47.353 74,9 48,154 73,0 15.814 25,1 17,811 27,0
LB Nga 44.914 40,308 28.765 64,0 24,072 59,7 16.149 36,0 16,236 40,3
Ấn Độ 43.031 42,854 10.669 24,8 12,040 28,1 32.362 75,2 30,814 71,9
Canađa 34.741 35,481 4.567 13,1 4,198 11,8 30.174 86,9 31,283 88,2
Ôxtrâylia 29.717 25,956 3.061 10,3 1,988 7,6 26.656 89,7 23,968 92,4
Anh 22.938 23,040 14.972 65,2 15,196 65,9 7.966 34,8 7,844 34,1
Pháp 16.886 16,533 14.690 87,0 14,500 87,7 2.196 13,0 2,033 12,3
Singapo 9.722 10,312 1.143 11,7 1,303 12,6 8.579 88,3 9,009 87,4
Thái Lan 7.404 7,930 1.572 21,2 1,006 12,7 5.832 78,8 6,924 87,3
Inđônêxia 7.450 8,023 663 8,9 702 8,7 6.787 91,1 7,321 91,3
Malaixia 7.205 7,620 1.199 16,6 1,353 17,8 6.006 83,4 6,267 82,2
Việt Nam 3.995 4.447 443 11,1 487 10,9 3.552 88,9 3.960 89,1
Philipin 3.285 3,589 220 6,7 334 9,3 3.065 93,3 3,255 90,7
Campuchia 75 67 1 1,3 2 3,0 74 98,7 65 97,0
Nguồn: WIPO statistics database, 2014, 2015.
III. CÁC KẾ HOẠCH KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ ĐỔI MỚI SÁNG TẠO
CỦA SINGAPO
3.1. Kế hoạch KH&CN 1991-1995
Coi tiến bộ công nghệ là cơ sở vững chắc cho chiến lược tăng trưởng kinh tế của
Singapo, Kế hoạch KH&CN chính thức của nước này, lần đầu tiên, đã được thực hiện
vào năm 1991, với ngân sách 2 tỷ đô la Singapo (SGD). Kế hoạch này tập trung chủ
yếu vào việc thiết lập các viện và trung tâm nghiên cứu, các cơ sở hạ tầng kỹ thuật, các
chương trình phát triển nhân lực, tài trợ NCPT công nghiệp và các chương trình hỗ trợ
đổi mới sáng tạo.
Trong Kế hoạch này, Singapo thực hiện những cố gắng lớn nhằm thu hút các thu
hút các công ty đa quốc gia (MNC) đầu tư vào giáo dục và đào tạo kỹ năng và khuyến
khích truyền bá công nghệ từ các MNC vào nền kinh tế địa phương. Các biện pháp
khuyến khích về thuế đã được áp dụng đối với các công ty tiến hành NCPT tại
Singapo.
3.2. Kế hoạch KH&CN 1996-2000
Trong Kế hoạch KH&CN 5 năm lần thứ hai (1996-2000), Chiến lược công nghệ
của Singapo là “Xây dựng cơ sở KH&CN có đẳng cấp thế giới ở những lĩnh vực xét
thấy phù hợp với điều kiện và sức cạnh tranh của Singapo và sẽ đẩy mạnh được trong
kế hoạch này bao gồm: (1) Chi tiêu cho NCPT trong GDP phải đạt mức 2,6% vào năm
2000, so với 1,1% năm 1994; (2) Số các nhà khoa học và kỹ sư phải đạt mức
65/10.000 lao động”.
Một loạt các xúc tiến chính sách mới đã được khởi xướng vào năm 1998, trong đó
39
có Tổng Kế hoạch về nâng cao kỹ năng và thúc đẩy nhanh các biện pháp thu hút nhân
tài nước ngoài và một sáng kiến mang tên “Khởi nghiệp công nghệ”
(Technopreneurship - T21) đã được thực hiện nhằm đẩy mạnh việc khởi sự các doanh
nghiệp công nghệ cao. Chương trình T21 đã phản ánh một sự chuyển hướng chính
sách rõ ràng của Chính phủ Singapo từ chỗ chú trọng thúc đẩy áp dụng công nghệ nay
chuyển sang hỗ trợ cả hai hình thức truyền bá công nghệ và đổi mới công nghệ. Sáng
kiến T21 đã dẫn đễn việc tự do hoá một số các quy định trong kinh doanh được cho là
gây kiềm chế việc khởi sự doanh nghiệp. Một loạt các biện pháp đã được áp dụng
nhằm khuyến khích các nhà đầu tư vào các doanh nghiệp công nghệ cao mới khởi sự.
3.3. Kế hoạch KH&CN 2001-2005
Trong Kế hoạch Công nghệ lần thứ 3 (2001-2005), Chính phủ đã dành 7 tỷ SGD để
phát triển thêm kết cấu hạ tầng và thu hút tài năng quốc tế. Singapo đã sửa đổi các quy
định liên quan đến trao đổi cổ phiếu để cho phép tạo vốn đầu tư cho công nghệ được
dễ dàng hơn. Các doanh nhân cũng được phép khởi sự kinh doanh tại nơi cư trú. Quỹ
đầu tư mạo hiểm trị giá 1 tỷ SGD đã được thành lập để đầu tư vào các công ty vốn
mạo hiểm hàng đầu quốc tế, để sao cho họ có thể thành lập các trụ sở khu vực tại
Singapo.
Một động thái phản ánh sự chuyển hướng chú trọng sang nghiên cứu cơ bản trong
kế hoạch KH&CN lần thứ ba của Singapo, đó là năm 2001, Ban KH&CN Quốc gia
(NSTB) được tái cấu trúc thành Cơ quan Khoa học, Công nghệ và Nghiên cứu
(A*STAR), nhằm tập trung sáng tạo và khai tác nguồn trí tuệ, đào tạo nhân lực nghiên
cứu nhằm chuyển dịch sang nền kinh tế tri thức. Do đó, A*STAR tập trung vào công
tác thúc đẩy nghiên cứu, nhất là NC&PT ở khu vực tư nhân và phát triển nhân lực
NCPT, đóng vai trò tương tự như Quỹ Khoa học Quốc gia (NSF) ở Mỹ. Hai Hội đồng
Nghiên cứu đã được thành lập, bao gồm Hội đồng Nghiên cứu Y-sinh (BMRC) và Hội
đồng Nghiên cứu Khoa học và Kỹ thuật (SERC). BMRC có chức năng cấp kinh phí và
phát triển nhân lực trong lĩnh vực khoa học về sự sống, còn chức năng của SERC là
giám sát hoạt động nghiên cứu ở những lĩnh vực KH&CN đã lựa chọn.
3.4. Kế hoạch KH&CN 2006-2010
Kế hoạch KH&CN 2006-2010 còn được gọi là Định hướng chiến lược cho chính
sách KH&CN Singapo (2006-2010). 5 mũi chiến lược then chốt cho các nỗ lực
NC&PT trong 5 năm (2006-2010), bao gồm:
(1) Huy động nhiều nguồn lực hơn cho NCPT và tiếp tục có sự quan tâm của các
lãnh đạo cấp cao tới hoạt động NCPT. Singapo cần phải đẩy mạnh hoạt động NCPT
của đất nước lên nhiều lần và phân bổ thêm các nguồn kinh phí mới cho hoạt động
này. Ủy ban Kinh tế phát triển Singapo (EDB) cũng thừa nhận sự cần thiết phải tăng
kinh phí cho NCPT. Singapo đặt chỉ tiêu tăng chi phí cho NCPT lên ít nhất 3% trong 5
năm tới. Đây sẽ là khoản đầu tư quan trọng trong tương lai và sẽ có tác động lớn tới
nền kinh tế.
Để đảm bảo tiếp tục có sự quan tâm của lãnh đạo cấp cao tới NCPT, Singapo thành
40
lập một Hội đồng Cố vấn cấp cao, có tên gọi là Hội đồng về Nghiên cứu, Đổi mới và
Doanh nghiệp (RIEC), do Thủ tướng làm Chủ tịch, có chức năng hướng dẫn và lãnh
đạo công cuộc biến đổi nền kinh tế Singapo thông qua họat động nghiên cứu và đổi
mới. Hội đồng này được hỗ trợ bởi một Quỹ Nghiên cứu Quốc gia mới (NRF).
(2) Chú trọng vào các lĩnh vực NC&PT có tầm quan trọng về kinh tế
Singapo sẽ tập trung ngân sách nghiên cứu vào một số lượng nhỏ các lĩnh vực chiến
lược để phát triển đầy đủ các năng lực nghiên cứu ở các ngành công nghiệp có thể
cạnh tranh được về kinh tế.
Ngoài việc tiếp tục phát triển sâu thêm các năng lực ở các ngành chế tạo hiện có
như điện tử, hoá chất, kỹ thuật, y-sinh thông qua các khoản đầu tư tiếp tục cho
NC&PT và phát triển nguồn nhân lực, Singapo sẽ tìm kiếm các lĩnh vực tăng trưởng
mới để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế về lâu dài. Cục NRF đã nhận dạng 2 lĩnh vực
có nhiều tiềm năng tăng trưởng mạnh, đó là: 1) Lĩnh vực công nghệ môi trường và tài
nguyên nước, và 2) Lĩnh vực Phương tiện số và tương tác. Các Uỷ ban chỉ đạo cấp Bộ
đã được thành lập để khởi động sự phát triển ở 2 lĩnh vực này, điều phối các hoạt động
xuyên cơ quan ở các lĩnh vực phát triển ngành, nghiên cứu và giáo dục, hướng dẫn các
vấn đề chính sách có thể nảy-sinh.
(3) Cân đối giữa nghiên cứu hàn lâm và nghiên cứu hướng vào nhiệm vụ
Trong phạm vi các lĩnh vực đã lựa chọn, Singapo sẵn sàng cung cấp kinh phí cho
một loạt các nghiên cứu nằm trong một “phổ” rất rộng, bao gồm nghiên cứu cơ bản và
nghiên cứu ứng dụng.
Singapo sẽ hỗ trợ gia tăng cho nghiên cứu cơ bản, tạo cơ sở đem lại sự xuất sắc về khoa
học. Việc này giúp tạo ra tri thức mới và thu hút nhân tài đến Singapo. Để phục vụ mục tiêu
này, Quỹ Nghiên cứu và Hàn lâm (AcRF) gồm không chỉ phục vụ cho những nghiên cứu cơ
bản ở các trường đại học, mà còn cho những nghiên cứu hàn lâm, do các nhà nghiên cứu đề
xuất, mà có sự liên kết rộng với tầm nhìn dài hạn trong các mối quan tâm chiến lược của
Singapo. A*STAR sẽ tiếp tục tạo động lực cho các hoạt động nghiên cứu định hướng vào
nhiệm vụ.
(4) Khuyến khích hơn nữa hoạt động NCPT ở khu vực tư nhân
Càng ngày, khu vực tư nhân ở Singapo càng là một ưu tiên then chốt, vì các công ty tư
nhân là những chủ thể tốt nhất để đưa ra quyết định lĩnh vực NCPT nào cần đầu tư và liên
kết các khoản đầu tư NCPT với các cơ hội thương mại. Trong thời gian trước mắt, sự gia
tăng chi tiêu cho NCPT ở khu vực tư nhân sẽ tiếp tục phần lớn là bởi các MNC. Singapo sẽ
xem xét những biện pháp khuyến khích để bảo đảm tính hiệu quả tiếp theo của chúng trong
việc thu hút các trung tâm NCPT toàn cầu đến đặt địa điểm ở Singapo. Singapo sẽ huy động
nhiều nguồn lực hơn để phân bổ cho các hoạt động thúc đẩy này và đảm bảo thiết lập được
một khung khổ để hỗ trợ chất lượng cao, bao gồm nguồn nhân lực KH&CN trình độ cao và
các quy định bảo hộ sở hữu trí tuệ tinh xảo.
Một vấn đề quan trọng là cần phải tạo lập được một “sân chơi” phù hợp cho cộng
đồng nghiên cứu, giúp cho các nhà khoa học và kỹ sư tài năng có thể dễ dàng lưu
chuyển khắp các cơ quan hàn lâm, viện nghiên cứu và doanh nghiệp trong các mạng
công tác mở.
41
(5) Tăng cường mối quan hệ giữa NC&PT và doanh nghiệp
Đổi mới là mối quan tâm then chốt của nhiều quốc gia mà đang tìm cách duy trì khả
năng cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu. Ngay cả những quốc gia có truyền thống
từ lâu về những thành tích khoa học cũng đang ý thức được sự cần thiết phải củng cố
các khung khổ đổi mới của mình để đem lại lợi ích kinh tế cao hơn từ các công trình
nghiên cứu bằng cách tăng cường mối quan tâm giữa nghiên cứu và đổi mới.
Singapo sẽ củng cố mối quan hệ giữa các tổ chức tri thức và các cơ quan thực hiện
nghiên cứu như các trường đại học kỹ thuật, đại học tổng hợp, viện nghiên cứu và
doanh nghiệp. Các cơ quan này cần được nâng cao năng lực thương mại hoá các kết
quả nghiên cứu và xây dựng quan hệ cộng tác chặt chẽ hơn với khu vực công nghiệp.
Các cơ quan thực hiện nghiên cứu sẽ xem xét cách thức để củng cố khung khổ chuyển
giao công nghệ và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ tinh xảo hơn, bao gồm cả việc tiếp cận
với tài chính, quản lý và tiếp thị các đổi mới.
Singapo sẽ phát triển các khung khổ đồng tài trợ mạnh giữa các chủ thể công và tư,
chẳng hạn như khuyến khích các trường đại học kỹ thuật liên kết với các Hiệp hội
công nghiệp để cộng tác thực hiện các sáng kiến NCPT, với sự hỗ trợ của Chính phủ.
Đặc biệt, Uỷ ban về Tiêu chuẩn, Năng suất và Đổi mới (SPRING) và EDB sẽ cộng
tác chặt chẽ để thúc đẩy các doanh nghiệp khởi nghiệp. Singapo sẽ chú trọng nhiều
hơn đến các công ty khởi sự và các doanh nghiệp tăng trưởng mới, nhất là những
doanh nghiệp có liên quan đến các lĩnh vực chiến lược đã được nhận dạng. Những nỗ
lực này sẽ gieo mầm cho sự tăng trưởng mới và tạo sức bật về kinh tế. Singapo sẽ tiếp
tục thúc đẩy đổi mới công nghệ và năng lực của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME),
có thể bổ sung cho các MNC thông qua các chiến lược phát triển cụm kinh tế.
3.5. Kế hoạch Nghiên cứu, Đổi mới sáng tạo và Doanh nghiệp giai đoạn 2011-
2015 (RIE 2015)
RIE 2015 được khởi xướng vào tháng 8 năm 2009 để định hướng cho những nỗ lực NCPT
của Singapo cho giai đoạn 2011-2015. Nhóm làm việc đã được triệu tập để thảo luận kỹ về
chiến lược và nguồn lực cho các khu vực NCPT công, tư và doanh nghiệp, cũng như phát
triển nhân lực tài năng và cơ sở hạ tầng.
RIE2015 là kết quả của một quá trình lập kế hoạch kéo dài một năm, khai thác các
nỗ lực tập thể của tất cả các cơ quan nghiên cứu, kinh tế và tài trợ trong khu vực công
của Singapo. Các nhóm công tác được thành lập để xem xét các khu vực NCPT công,
tư và doanh nghiệp, cũng như phát triển nhân lực tài năng và cơ sở hạ tầng; đánh giá
kết quả đầu tư của Chính phủ Singapo trong các khu vực này cho đến năm 2010, đánh
giá những thay đổi chiến lược trong bức tranh NCPT toàn cầu và trong nước, từ đó đối
sánh Singapo với các nước đầu tư cao cho NCPT trên thế giới.
Được xây dựng trên những đánh giá được thực hiện bởi ESC, mục tiêu của RIE2015 là
định hướng các nỗ lực RIE của Singapo trong 5 năm tới và xác định các nguồn lực và chiến
lược có thể mang lại kết quả mong muốn, đưa Singapo trở thành một trong những nền kinh
tế tham dựng NCPT, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tốp đầu thế giới.
Trong tháng 9 năm 2010, Thủ tướng Lee Hsien Loong đã công bố khoản ngân sách quốc
42
gia trị giá 11,6 tỷ S$ để tài trợ nghiên cứu, đổi mới và doanh nghiệp cho giai đoạn 2011-2015,
tăng 19% so với mức 13,55 tỷ S$ giai đoạn 2006-2010, thể hiện cam kết của Chính phủ là
liên tục tăng ngân sách NCPT. Sáu chiến lược then chốt được xác định trong RIE 2015 là:
1. Đầu tư vào khoa học cơ bản và tri thức để tạo ra nguồn “vốn trí tuệ” - là cơ sở cho
đổi mới sáng tạo trong tương lai, đặc biệt là phục vụ cho giai đoạn phát triển mới của
nền kinh tế đổi mới sáng tạo. Các nhà khoa học sẽ nhận được sự hỗ trợ và tự chủ để
theo đuổi những vấn đề khoa học xuất hiện từ nghiên cứu của họ, với mục đích thúc
đẩy sự xuất sắc trong các lĩnh vực có tác động kinh tế và xã hội lâu dài.
2. Tập trung vào việc thu hút và phát triển tài năng khoa học để đáp ứng nhu cầu của
các tổ chức nghiên cứu công nghiệp và khu vực công cộng của Singapo. Kinh phí sẽ
được cung cấp cho học bổng và học bổng đào tạo tài năng tại các tổ chức nổi tiếng
cả trong nước và ở nước ngoài, để tạo ra một nguồn nhân lực khoa học trẻ tài năng.
3. Chú trọng hơn vào tài trợ cạnh tranh để thúc đẩy đổi mới và đưa ra những ý tưởng
tốt nhất. Một tỷ lệ lớn hơn của tài trợ cho NCPT sẽ được cấp trên cơ sở cạnh tranh,
trong khi vẫn duy trì một mức độ thích hợp kinh phí đảm bảo cho những nghiên cứu
cốt lõi.
4. Tăng cường sự phối hợp giữa các tổ chức thực hiện NCPT trong khu vực công và
với ngành công nghiệp; ưu tiên tài trợ lớn hơn sẽ được trao cho những nỗ lực đa
ngành và hợp tác, bao gồm cả với các phòng thí nghiệm NCPT của doanh nghiệp.
5. Nâng cao hơn sự đóng góp của NCPT đối với tăng trưởng kinh tế. Điều này có nghĩa
là hỗ trợ lớn hơn cho khu vực tư nhân NCPT, hợp tác chặt chẽ hơn giữa NCPT công
và tư, và nhấn mạnh vào thương mại hóa các sản phẩm trí tuệ dẫn đến sản phẩm và
dịch vụ mới và tốt hơn. Trong NCPT công, Quỹ gắn kết công nghiệp sẽ khuyến
khích các nhà nghiên cứu công hợp tác chặt chẽ hơn với ngành công nghiệp.
6. Cung cấp hỗ trợ mạnh mẽ hơn cho các nhà khoa học để biến ý tưởng của họ từ
nghiên cứu cơ bản đến thương mại hóa, thông qua việc tăng tài trợ để chuyển
giao công nghệ và ươm tạo doanh nghiệp.
RIE2015 cũng đưa ra Quỹ Không gian Trắng (White Space Fund) trị giá 1,6 S$ để
có thể tài trợ những dự án trong các lĩnh vực mới nổi trong đoạn 2011-2015.
3.6. Kế hoạch Nghiên cứu, Đổi mới sáng tạo và Doanh nghiệp giai đoạn 2016-
2020 (Kế hoạch Rie 2020)
Ngày 9/1/2016, Thủ tướng Singapo Lee Hsien Loong đã công bố Kế hoạch Nghiên cứu,
Đổi mới sáng tạo và Doanh nghiệp 2020 (Kế hoạch Rie 2020) với khoản ngân sách lên tới 19
tỷ SGD (khoảng 13 tỷ USD) nhằm hỗ trợ NCPT trong giai đoạn 2016-2020. Đây là khoản
đầu tư kỷ lục mà Chính phủ Singapo dành cho NCPT từ trước tới nay. Theo Thủ tướng
Singapo Lý Hiển Long, mức đầu tư này tăng 18% so với Kế hoạch Rie 2015 giai đoạn 2011-
2015 (hơn 16 tỷ SGD).
Singapo đã đặt mục tiêu chiến lược trở thành “Quốc gia thông minh” (Smart
Nation) và đang có những bước đi mạnh mẽ để đạt được mục tiêu này, trong đó có Kế
hoạch Rie 2020 mà nền tảng dựa vào phát triển KH&CN, với khẩu hiệu “chiến thắng
tương lai thông qua KH&CN”.
43
Phát biểu tại buổi lễ công bố Kế hoạch Rie 2020, Thủ tướng Singapo Lý Hiển Long
nhấn mạnh: “Singapo quyết định đầu tư mạnh cho lĩnh vực nghiên cứu KH&CN, phát
triển doanh nghiệp đổi mới sáng tạo vì đây chính là yếu tố quan trọng để đảm bảo
tương lai của Singapo, hỗ trợ người lao động trong bối cảnh công nghệ phát triển
nhanh chóng và nâng cao chất lượng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, môi trường sống
tốt hơn cho người dân”.
Bảng 11. Mức độ đầu tư vào các lĩnh vực ưu tiên của Kế hoạch Rie 2020
so với Kế hoạch Rie 2015
Kế hoạch Rie 2020 (tập trung đầu tư vào 8 lĩnh vực ưu tiên)
STT Lĩnh vực Số tiền
(tỷ SGD)
Tỷ lệ
%
1 Sức khỏe và y sinh học 4 21
2 Sản xuất và kỹ thuật tiên tiến 3,3 17
3 Đổi mới sáng tạo và doanh nghiệp 3,3 17
4 Nghiên cứu hàn lâm 2,8 15
5 Không gian Trắng (White Space) cho các lĩnh vực nghiên cứu mới
hoặc có thể nổi lên trong những năm tới
2,5 13
6 Phát triển nguồn nhân lực 1,9 10
7 Các giải pháp đô thị bền vững 0,9 5
8 Dịch vụ và nền kinh tế kỹ thuật số 0,4 2
Kế hoạch Rie 2015 (tập trung đầu tư vào 6 lĩnh vực ưu tiên)
1 NC&PT khu vực công 9,6 60
2 NC&PT khu vực tư nhân 2,5 15
3 Không gian Trắng 1,6 10
4 Đổi mới sáng tạo và doanh nghiệp 1,08 7
5 Cơ sở hạ tầng 0,6 4
6 Phát triển nhân tài tiến sĩ 0,735 4
Nguồn: Rie 2020
Trong Kế hoạch Rie 2020, Chính phủ Singapo đầu tư 2,5 tỷ SGD (tăng 900 triệu
SGD so với Kế hoạch Rie 2015) cho nghiên cứu các lĩnh vực “Không gian Trắng”
(các lĩnh vực mới hoặc đang nổi, như an ninh mạng,) tăng so với mức 1,6 tỷ SGD
trong giai đoạn 2011-2015.
Trong RIE 2020, Singapo sẽ tiếp tục thúc đẩy đầu tư để phát triển năng lực NC&PT
của ngành công nghiệp, nuôi dưỡng các doanh nghiệp sáng tạo và đáp ứng các nhu cầu
quốc gia. Thông qua thực hiện hiệu quả RIE 2020, đầu tư của Singapo cho nghiên cứu,
đổi mới và doanh nghiệp sẽ tạo nền tảng của nền kinh tế trong tương lai, với việc tạo
ra việc làm tốt, sức cạnh cao của nền kinh tế, và biến Singapo trở thành một “Quốc gia
Thông minh”.
Để tối đa hóa tác động, kinh phí sẽ được ưu tiên trong 4 lĩnh vực công nghệ chiến
lược mà Singapo có lợi thế cạnh tranh và cũng là những nhu cầu quan trọng quốc gia.
44
4 ưu tiên là:
- Phát triển công nghệ sản xuất và kỹ thuật tiên tiến (phát triển năng lực công nghệ
hỗ trợ tăng trưởng và tính cạnh tranh của các ngành chế tạo và kỹ thuật);
- Đẩy mạnh các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, y sinh học (đưa Singapo trở thành trung
tâm hàng đầu thế giới về chăm sóc sức khỏe, y sinh học; tạo ra các giá trị kinh tế cho
đất nước và người dân Singapo thông qua nghiên cứu xuất sắc và ứng dụng);
- Dịch vụ và nền kinh tế kỹ thuật số (phát triển, tích hợp và và nâng cao năng lực
đổi mới sáng tạo kỹ thuật số của Singapo nhằm đáp ứng các ứu tiên quốc gia, nâng cao
năng suất và hỗ trợ các dịch vụ then chốt, tạo ra những cơ hội kinh tế bền vững và việc
làm chất lượng);
- Phát triển các giải pháp đô thị bền vững (phát triển đất nước Singapo bền vững và
đáng sống thông qua các giải pháp tích hợp không chỉ cho Singapo mà còn cho cả thế
giới).
Các hoạt động trong 4 lĩnh vực công nghệ chiến lược sẽ được hỗ trợ bởi 3 chương
trình xuyên suốt bao gồm: Chương trình Nghiên cứu Hàn lâm (nhằm tăng cường năng
lực nghiên cứu và tạo nguồn cho các ứng dụng công nghiệp phục vụ giai đoạn tăng
trưởng mới); Chương trình Phát triển Nguồn Nhân lực (nhằm xây dựng một cộng đồng
mạnh về nghiên cứu và đổi mới sáng tạo) và Chương trình Đổi mới sáng tạo và Doanh
nghiệp (nhằm xây dựng những doanh nghiệp hạt nhân đổi mới sáng tạo có khả năng
tạo ra giá trị cao và tính cạnh tranh kinh tế). Các chương trình này cũng sẽ giúp
Singapo đảm bảo khoa học xuất sắc, nguồn nhân lực tài năng và tạo ra các giá trị.
Mặc dù đầu tư cho NC&PT ở khu vực công tăng, nhưng Thủ tướng Lý Hiển Long
vẫn mong muốn khu vực tư nhân tích cực đầu tư nhiều hơn cho NC&PT, gấp khoảng
1,8 lần đầu tư của khu vực công trong 5 năm tới. Tỷ lệ % đầu tư cho NC&PT của
Chính phủ Singapo trong tổng đầu tư cho NC&PT quốc gia đạt gần 40% năm 2013.
Nhìn lại các kế hoạch KH&CN quốc gia của Singapo, chúng ta có thể thấy ngân
sách của Chính phủ Singapo dành cho NC&PT liên tục tăng mạnh, giai đoạn sau cao
hơn nhiều so với giai đoạn trước. Thậm chí, có giai đoạn tăng gấp đôi như giai đoạn
1996-2000 (4 tỷ SGD) so với giai đoạn 1991-1995 (2 tỷ SGD), giai đoạn 2006-2010
(13,9 tỷ SGD) so với giai đoạn 2001-2005 (6 tỷ SGD). Điểm chung trong các kế hoạch
này là vấn đề phát triển nhân lực, nhân tài luôn được chú trọng. Với khoản đầu tư kỷ
lục cho NC&PT trong Kế hoạch Rie 2020, Singapo hy vọng có thể đạt tỷ lệ đầu tư cho
NC&PT khoảng 3% GDP giai đoạn 2016-2020.
45
KẾT LUẬN
Giữa công cuộc phát triển kinh tế và việc tạo ra các ưu thế cạnh tranh của quốc gia rõ
ràng là có mối liên quan mật thiết với nhau. Hơn thế nữa, việc chuyển dịch từ giai đoạn
tăng trưởng kinh tế này sang giai đoạn tăng trưởng kinh tế khác nhất thiết phải thay đổi
các thể chế và chính sách bao hàm những cơ chế khuyến khích đổi mới. Những thay đổi
này đòi hỏi phải điều chỉnh nhiều thể chế và chính sách phụ thuộc nhau.
Đối với nền kinh tế dựa vào yếu tố sản xuất, chiến lược tăng trưởng bao gồm những
cấu phần trọng yếu như: (1) Nâng cấp kết cấu hạ tầng (bao gồm các mạng cung cấp điện,
truyền thông và giao thông); (2) Thiết lập một hệ thống luật pháp phù hợp; (3) Dỡ bỏ các
rào cản cạnh tranh (chẳng hạn như sự hạn chế thương mại và các chế độ trợ cấp không
hợp lý). Cơ sở này tạo điều kiện thuận lợi để chuyển sang nền kinh tế dựa vào đầu tư. Tuy
nhiên, khi nền kinh tế đạt tới giới hạn của sự tăng trưởng dựa vào đầu tư, thì sự cải thiện
hiệu quả sản xuất không còn là điều kiện đủ nữa, mà tiềm năng tăng trưởng kinh tế lớn
nhất lúc này nằm trong việc đổi mới và sáng tạo ra các công nghệ mũi nhọn.
Cũng như những nền kinh tế phát triển (chẳng hạn như Mỹ, Đức, Nhật Bản và các
nước Bắc Âu), Singapo đang áp dụng chiến lược tăng trưởng dựa vào đổi mới sáng tạo,
lấy đổi mới sáng tạo là động lực. Họ coi phần lớn sự thành công kinh tế của họ là năng lực
đổi mới sáng tạo công nghệ. Năng lực đổi mới của quốc gia phụ thuộc rất lớn và chất
lượng của kết cấu hạ tầng công nghệ (chẳng hạn như sự cung cấp các nhà khoa học và các
kỹ sư, số lượng và chất lượng của các tổ chức nghiên cứu), mức độ hỗ trợ của Chính phủ
cho hoạt động nghiên cứu cơ bản, sự cộng tác giữa các tổ chức nghiên cứu và trường đại
học, sự phát triển của các nguồn vốn mạo hiểm, cũng như chất lượng của môi trường kinh
doanh (được phản ánh trong hệ thống luật pháp).
Kết cấu hạ tầng NCPT quốc gia là nhân tố quyết định then chốt đối với năng lực đổi
mới của quốc gia. Nó bao gồm hệ thống giáo dục, mạng lưới các tổ chức nghiên cứu của
Chính phủ, tư nhân và các hiệp hội khoa học, các thể chế pháp lý, chẳng hạn như quyền
sở hữu trí tuệ và các điều luật khuyến khích sự phát triển và trao đổi công nghệ.
Mặc dù việc tạo lập môi trường thúc đẩy sự sáng tạo công nghệ đóng vai trò quan trọng
trong chiến lược tăng trưởng dựa vào đổi mới, nhưng mức độ gặt hái được lợi ích của nó
lại phụ thuộc không kém vào môi trường, trong đó có nền giáo dục chất lượng cao đối với
nguồn nhân lực, một khu vực tư nhân có nhu cầu lớn đối với các sản phẩm công nghệ cao,
kết cấu hạ tầng thông tin cho phép lưu thông và phổ biến tri thức và thông tin.
Mặc dù sự đầu tư cho NCPT là một nhân tố quan trọng để phát triển năng lực đổi mới
sáng tạo, nhưng hiệu quả của đổi mới còn phụ thuộc rất lớn vào các điều kiện nhằm thúc
đẩy khởi nghiệp, phát triển tài năng kỹ thuật, các thị trường sản phẩm và vốn thực hiện tốt
chức năng. Sự khác biệt về môi trường kinh doanh đối với các doanh nhân khởi nghiệp,
chẳng hạn như khả năng tiếp cận với nguồn nhân lực và vốn mạo hiểm, mức độ mà họ
phải chịu đựng các quy định quản lý và các điều kiện kinh doanh có thể có tác động đáng
kể tới hiệu quả kinh tế và đổi mới.
46
Các chính sách và kết cấu hạ tầng mà khuyến khích sáng tạo và đổi mới công nghệ bao
gồm nguồn nhân lực, tài năng kỹ thuật, thể chế, biện pháp kích thích, phần cứng, chính
sách, và đầu tư. Kết hợp lại, chúng hình thành nên năng lực của quốc gia để tạo lập và duy
trì ưu thế cạnh tranh trong sáng tạo và đổi mới công nghệ. Ở thế kỷ XXI, năng lực sáng
tạo, phổ biến và khai thác tri thức đã trở thành nguồn chủ yếu của ưu thế cạnh tranh, tạo ra
của cải và cải thiện chất lượng cuộc sống.
Nhìn chung, Chính phủ có 4 vai trò chính trong việc xây dựng chính sách KH&CN và
thúc đẩy sự sáng tạo và áp dụng công nghệ. Một là, Chính phủ có thể thúc đẩy hoạt động
NCPT, được liên kết chặt chẽ với khu vực giáo dục đại học. Hai là, Chính phủ có thể trực
tiếp, hoặc thông qua các cơ quan của mình, đầu tư cho những lĩnh vực nghiên cứu mà khu
vực tư nhân không thể thực hiện hiệu quả. Ba là, Chính phủ cũng có thể giảm bớt phí tổn
rủi ro bằng cách khuyến khích tăng cường hợp tác giữa các khu vực giáo dục đại học và
công nghiệp, khuyến khích hợp tác nghiên cứu cơ bản, tiền cạnh tranh. Bốn là, Chính phủ
có thể đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện để thương mại hoá các kết quả
nghiên cứu do Chính phủ tài trợ và tạo điều kiện cho doanh nghiệp và người tiêu dùng
thích ứng với các yêu cầu và cơ hội mới của thị trường.
Singapo được xếp ở vị trí cao trong số các quốc gia có sức cạnh tranh nhất thế giới hiện
nay. Là một quốc gia nhỏ, với ít ưu thế về tài nguyên ngoại trừ vị trí thuận lợi về địa lý,
Singapo nhận thức được rất rõ ràng để nâng cao được sức cạnh tranh, Singapo đã tìm ra
được các phương thức mới để duy trì ưu thế cạnh tranh về lâu dài, thông qua phát triển kết
cấu hạ tầng hoàn hảo, duy trì môi trường đầu tư và nền chính trị ổn định, quản lý hiệu quả
và chế độ bảo hộ sở hữu trí tuệ mạnh, đồng thời phải có được nguồn cung cấp thường
xuyên và đầy đủ đội ngũ nhân lực được giáo dục tốt, thực hiện tốt các kế hoạch KH&CN
và đổi mới sáng tạo đã đề ra và tìm các phương thức mới để đem lại những khác biệt.
Các chiến lược kinh tế của Singapo nhằm vào những thực tế kinh tế đã thay đổi và ứng
phó với những thách thức đặt ra cho khả năng cạnh tranh kinh tế của mình. Hướng chú
trọng chuyển sang các hoạt động dựa vào trình độ và tri thức, bổ sung thêm cho hoạt động
sản xuất. Singapo đang phát triển năng lực đổi mới, với vai trò là một nguồn sức mạnh
mới, lâu bền để đem lại ưu thế cạnh tranh.
Mặc dù không có tài nguyên thiên nhiên, nhưng Singapo trong suốt 40 năm qua đã đạt
mức tăng trưởng trung bình hàng năm 8,37%. Ngoài những yếu tố góp phần làm nên sự
thành công to lớn đó gồm: Singapo nằm ở vị trí chiến lược về giao thông vận tải, tài chính
và thương mại; Đầu tư mạnh vào kết cấu hạ tầng; Nguồn nhân lực có động lực mạnh và
được giáo dục tốt; Đầu tư của nước ngoài tăng mạnh và vững chắc; Còn có các chính sách
và kế hoạch Chính phủ đã tạo thuận lợi cho tăng trưởng và kinh doanh, đặc biệt là chính
sách phát triển KH&CN và đổi mới sáng tạo thông qua các Kế hoạch 5 năm.
Hiện nay, nền kinh tế Singapo đang bước vào giai đoạn thứ 5 của quá trình phát triển.
Giai đoạn 1 (1960-1969) là giai đoạn “thâm dụng lao động” (Labour intensive), lúc này
lợi thế của quốc gia chính là lao động rẻ và có tay nghề không cần cao. Giai đoạn 2 (1970-
1979) được coi là giai đoạn “thâm dụng kỹ năng” (Skill intensive), lực lượng lao động đã
47
bắt đầu có kỹ năng và trình độ hơn. Giai đoạn 3 (1980-1989) được đặc trưng bởi “thâm
dụng vốn” hay “thâm dụng tư bản” (Capital intensive), ở đó yếu tố lao động không còn
chiếm ưu thế so với yếu tố vốn/tư bản. Giai đoạn 4 (1990 - 1999) - giai đoạn “thâm dụng
công nghệ” (Technology intensive) các ngành được lựa chọn là những ngành thâm dụng
công nghệ như phần mềm máy tính, viễn thông, chế tạo máy chính xác, hóa chất,... Giai
đoạn 5 (từ năm 2000 đến nay) với đặc trưng là “nền kinh tế tri thức/đổi mới sáng tạo”
(Knowledge/Innovation economy), nền kinh tế lấy tri thức và đổi mới sáng tạo làm nền
tảng, trong nền kinh tế này thì nguồn vốn quan trọng nhất là nguồn vốn trí tuệ và công
nghệ thông tin trở thành ngành kinh tế quan trọng.
Nếu theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới, thì nền kinh tế Singapo đang ở giai đoạn phát triển
thứ 3 - phát triển dựa vào đổi mới sáng tạo, giai đoạn cao nhất hiện nay. Ở giai đoạn này,
tiền lương đã tăng lên đến mức cao, khi đó các nước chỉ có thể duy trì mức lương cao đó
với mức sống kèm theo nếu các doanh nghiệp của họ có khả năng cạnh tranh bằng những
sản phẩm, dịch vụ, mô hình và quy trình đổi mới, độc đáo. Ở giai đoạn này, các công ty
cần phải cạnh tranh bằng cách sản xuất ra các loại hàng hóa mới và khác biệt thông qua
các công nghệ mới và/hoặc bằng các quy trình sản xuất hay các mô hình kinh doanh tinh
xảo nhất.
Là nước đi trước, kinh nghiệm chuyển sang nền nền kinh tế tri thức/đổi mới sáng tạo
của Singapo có thể bài bài học tham khảo hữu ích cho các nước đi sau, các nước đang
phát triển triển, đặc biệt là các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam. Nếu xét về
trình độ phát triển, có lẽ Việt Nam đang ở Giai đoạn 1 của Singapo hoặc trong chuyển tiếp
giữa Giai đoạn 1 và Giai đoạn 2. Đó là giai đoạn “thâm dụng lao động”, lúc này lợi thế
của quốc gia chính là lao động rẻ và có tay nghề không cần cao. Nếu theo Diễn đàn Kinh
tế Thế giới, chúng ta đang ở giai đoạn phát triển kinh tế chủ yếu được thúc đẩy bởi yếu tố
sản xuất (factor-driven). Singapo đã mất 40 năm để chuyển mình từ nền kinh tế thâm
dụng lao động sang nền kinh tế đổi mới sáng tạo. Là nước đi sau, liệu Việt Nam có thể
học hỏi được gì để có thể tiến nhanh vào nền kinh tế đổi mới sáng tạo/kinh tế tri thức?
Hoặc có thể rút ngắn được các giai đoạn phát triển, bằng cách đi tắt đón đầu. Chúng tôi hy
vọng Tổng luận này sẽ là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích đối với các nhà hoạch định
chính sách phát triển của Việt Nam trong hoạch định chính sách phát triển kinh tế, đặc
biệt là chính sách phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
TRUNG TÂM PHÂN TÍCH THÔNG TIN
48
Tài liệu tham khảo chính
1) Caroline Wong, A Knowledge-Based Economy: The Case of Singapo. International
Journal of Knowledge, Culture and Change Management, Volume 8, Issue 6, pp.169-
180
2) Chia Siow Yue. Singapo: towards a knowledge based economy.
3) Global Innovation Index 2012, 2013, 2014, 2015 - WIPO
4) Govt commits S$19b to new 5-year plan for R&D initiatives RIE 2020,
9/1/2016;
5) Infocomm Development Authority of Singapore. (2002). Infocomm Training
Framework Pyramid. Infocomm Development Authority of Singapore. Retrieved 20,
May 2005;
6) Main Science and Technology Indicators, OECD, 2015;
7) National Library Board. iN2015: Our vision for the future. Pamphlet. Singapore:
National Library Board;
8) Nouveau plan quinquennal RIE 2020 (Research, Innovation and Enterprise),
12/1/2016;
9) Singapore Government commits S$19 billion to research, innovation and enterprise
for next five years, 8/1/2016.
10) The Science and Technology Plan 2010, MINISTRY OF TRADE AND
INDUSTRY SINGAPORE;
11) Tan, Geok Leng. (2005). Infocomm Technology Roadmap: Singapore Infocomm
Foresight 2015. Infocomm Development Authority of Singapore. Retrieved 20, May
2005;
12) Trevor Monroe, The National Innovation Systems of Singapo and Malaysia.
4/07/06.
13) Robin Ramcharan, Singapo’s Emerging Knowledge Economy: Role of Intellectual
Property and its Possible Implications for Singapoan Society. The Journal of World
Intellectual Property (2006) Vol. 9, no. 3, pp. 316–343
14) Singapore’s Biomedi Initiative, 2002.
15) Singapo’s knowledge economy: What can we learn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tai_lieu_nen_kinh_te_doi_moi_sang_tao_nen_kinh_te_tri_thuc.pdf